HIỂU BIẾT VỀ TÁNH KHÔNG
Geshe Kelsang Gyatso
Thích Nữ Trí Hải dịch
Việc
học và hành về tánh không là công việc sâu xa lớn rộng.
Ở Tây tạng người ta phải trải qua nhiều năm để học
về Không. Do đó những trình bày sau đây về Tánh không chỉ
là toát yếu sơ lược.
Điều vô cùng quan yếu là phải
hiểu “Tánh không” có nghĩa là gì. Lại cũng quan trọng để
biết Tánh không ở ngay trong tâm mình, qua kinh nghiệm bản
thân. Muốn cảm nghiệm Không tánh, thực tính của vạn pháp,
thì trước hết phải hiểu nó trên bình diện tri thức. Nếu
không hiểu tánh không trên bình diện tri thức, thì sẽ vô
cùng khó khăn để mà có được cảm nghiệm thực thụ về
Không. Hiểu Tánh không trên bình diện tri thức là một điều
kiện chuẩn bị cho việc phát sinh thực chứng kinh nghiệm
về Tánh không bằng trực giác. Vậy là có hai cách hiểu về
Tánh không: hiểu bằng tri thức và hiểu bằng kinh nghiệm
bản thân.
LÀM THẾ NÀO
ĐỂ HIỂU TÁNH KHÔNG TRÊN BÌNH DIỆN TRI THỨC
Khi mới khởi sự tra tầm về Không,
ta cần phải biết những mục đích và lý do tại sao phải
làm việc ấy, những lợi ích phát sinh do thực chứng Tánh
không, và những lỗi lầm do không thực chứng. Nếu hiểu
được mục đích và lợi ích của việc thực chứng Tánh
không, thì ta sẽ có được tâm mong muốn quyết liệt phải
làm mọi nỗ lực đưa đến sự thực chứng ấy.
Vì chưa thực chứng Tánh không,
vì hành động do ngu si không biết thực chất của mọi sự,
mà chúng ta luôn luôn tạo ác nghiệp. Hậu quả là ta phải
kinh quá những khổ đau bất tận do nghiệp ác đem lại. Chính
vì lý do này mà Phật dạy nguyên nhân khiến hữu tình phải
kinh quá những khổ đau, bất toại ý, là do chúng không thực
chứng Tánh không.
Gốc rễ mọi thống khổ của chúng
ta là ngã chấp (ôm giữ cái ta). Bao lâu ý niệm sai lầm về
ngã còn tồn tại trong dòng tâm thức ta, thì ta vẫn còn bị
vướng vào chu kỳ sinh tử. Phương pháp thù thắng nhất để
nhổ tận gốc rễ thói chấp ngã và do đó tận diệt khổ
đau, chính là chánh kiến sâu xa về Không.
Theo giáo lý Phật, nhờ thực hành
Pháp ta có thể thành đạt hai kết quả chính. Kết quả đầu
tiên là tự giải thoát khỏi đau khổ; kết quả thứ hai và
tối hậu là giác ngộ hay Phật quả. Nhưng nếu không thực
chứng Tánh không thì ta không thể đạt đến cái nào trong
hai kết quả ấy.
Ngay cả trong truyền thống Tiểu
thừa của Phật giáo, ở đây chỉ cốt nhấn mạnh về giải
thoát, cũng không có cách nào khác hơn để đạt giải thoát
nếu không thực chứng Tánh không. Trong truyền thống đại
thừa, ta tìm cầu Giác ngộ hay Phật quả để làm lợi ích
cho hữu tình. Nhưng trước khi đạt giác ngộ tối hậu nhờ
thực hành con đường đại thừa, hành giả cũng phải thực
chứng Tánh không cái đã. Sự chứng đắc của tâm Phật toàn
tri là tùy thuộc vào việc thực chứng Tánh không.
Trong đời sống hàng ngày phần
đông chúng ta giải quyết những vấn đề rắc rối của mình
bằng những phương tiện bên ngoài. Tập trung giải quyết
vấn đề bằng cách ấy thì nhiều nhất cũng chỉ có lợi
tạm thời cho ta trong cuộc đời ngắn ngủi hiện tại. Nhưng
nếu ta thực chứng Tánh không, tập trung nỗ lực vào nội
tâm để làm việc ấy, thì ta sẽ đạt đến những lợi ích
lâu bền. Sự thực chứng Tánh không sẽ nhổ tận gốc rễmọi đau khổ và vấn đề nội tâm của chúng ta.
Như đã nói trước đây, mọi vấn
đề và đau khổ đều tùy thuộc vào tâm mà có ra. Sự thực
chứng Tánh không hủy diệt những lo sợ của ta và có thể
chấm dứt nỗi khổ sinh tử trong đời ta. Khi thực chứng
Tánh không, ta có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề
của mình. Những Bồ Tát đã thực chứng tánh không thì dù
thân thể có bị cắt xẻ thành từng mảnh vụn, các ngài
vẫn không cảm thọ đau đớn.
Nhờ thực chứng Tánh không mà ta
vượt qua được những nỗi khổ đau và vấn đề rắc rối
trong hiện tại, và cuối cùng còn đạt đến giải thoát vĩnh
viễn khỏi khổ đau. Hiện tại trong cuộc đời ta phải chịu
những nỗi khổ ngoài tầm kiểm soát bởi vì ta thiếu thực
chứng về tánh không. Bằng kinh nghiệm bản thân chúng ta có
thể thấy rằng từ những vị vua lớn nhất, những người
có lắm quyền lắm của trở xuống cho đến những kẻ khốn
cùng, tất cả đều phải bị những nỗi lo sợ bất mãn,
không có ai là hoàn toàn giải thoát. Không ai muốn kinh quá
những nỗi khổ già, bệnh, chết, thế nhưng những khổ này
vẫn giáng xuống đầu ta một cách tự nhiên. Đối với những
cái khổ này thì chúng ta không thể tránh được.
Nhiều người không thích nghe giáo
lý về Tánh không, bởi vì Tánh không và những hiện tướng
mà ta thường thấy thì rất khác nhau. Lại nữa, tánh không
vô cùng thâm thúy và bởi thế, đối với một số người,
nó rất khó hiểu thấu. Sau khi giác ngộ, đức Phật tuyên
bố:
“Pháp mà Ta
tìm được thật giống như vị Cam lồ bất tử. Nhưng Pháp
vi diệu như cam lồ này không phải mọi người đều thấu
hiểu được, bởi vì nó quá sâu xa.”
Mặc dù Tánh không thông thường
rất khó chấp nhận, khó hiểu thấu, nhưng nếu trong những
đời trước chúng ta đã tạo những khuynh hướng tâm linh
(chủng tử) tốt lành và đã phát triển sự quen thuộc với
những khía cạnh của Tánh không, thì dĩ nhiên ta có thể thực
chứng một cách dễ dàng hơn những người khác.
Nhiều năm về trước có một bậc
thầy trong Phật giáo nổi tiếng nhờ ngài thực chứng Tánh
không. Ngài đã thực chứng được nhờ trực giác, và được
một ông vua mời về làm thầy. Vua theo dõi lời dạy của
bậc thầy về Tánh không, thực chất của mọi hiện tượng.
Mặc dù bậc thầy dạy về Chân không, vị vua đã phát sinh
một hiểu biết sai lạc vì tính chất vi tế của vấn đề
này.
Vua khởi sự nghĩ rằng bậc thầy
này có những quan điểm sai lạc. Nếu ông ta bảo rằng tuyệt
đối không có gì hiện hữu, và nếu cứ để cho ông tiếp
tục giảng dạy sai lệch như vậy cho thần dân của mình,
thì ông ta sẽ dẫn nhiều người đi sai hướng, phá hoại
đời sống tinh thần của họ. Vì lý luận như thế, nhà vua
đã sai chém đầu bậc thầy.
Vài năm sau, vua khởi sự theo học
một bậc thầy khác. Lần này trong lúc khởi đầu sự tu tập,
nhà vua không được chỉ giáo về Tánh không. Ngài được
dạy những giáo lý về vô thường, những lỗi lầm của vòng
luân hồi sinh tử, bản chất của những khổ đau bất toại.
Bằng cách giải thích về vô thường vi tế và những giáo
lý căn bản khác, vị thầy thứ hai này giúp cho trí tuệ của
vua tăng trưởng. Nhờ giảng dạy cách ấy mà khi vị thầy
này khởi sự dạy về Tánh không, thì không có sự hiểu lầm
nào phát sinh nữa. Nhà vua cuối cùng đạt thực chứng về
tánh không, và nhờ tuệ trực giác, vua nhận ra rằng cái Không
này chính thực là cái Không mà bậc thấy trước kia đã giảng.
Khi nhận thức được điều ấy, vua ngập tràn hối hận vì
đã vô cớ hủy hoại mạng sống của thầy mình, một bậc
đã giác ngộ.
Ngay cả khi đọc chương này, có
thể nhiều người cũng hiểu lầm về ý nghĩa của Tánh không.
Lúc đầu rất có thể có những hoài nghi hoang mang về Tánh
không sinh khởi, nhưng nếu liên tục học hỏi thì giáo lý
này sẽ trở nên rất sáng sủa. Mặc dù đôi khi có những
hiểu lầm có thể phát sinh, điều thực quan trọng là phải
học giáo lý về tánh không. Cũng thực quan trọng để biết
mục đích của việc học Tánh không, những lợi ích do sự
học này và sự thực chứng về Tánh không mang lại. Chính
nhờ thực chứng tánh không mà ta có thể thực sự đạt đến
giải thoát khổ đau bất mãn.
Tánh
không là gì?
Tánh không là sự kiện rằng tất
cả hiện tượng đều không có thực hữu nội tại. Muốn
hiểu tánh không, ta phải sử dụng những đường lý luận
và ví dụ như Phật đã dạy. Nếu không có những lý do và
ví dụ thì thực vô cùng khó hiểu tánh không; bởi thế ta
cần phải dựa vào những ví dụ này.
Mọi cái không có thể chia thành
hai loại: không của người (nhân không) và không của các
hiện tượng (pháp không). Nhân không là con người không có
thực hữu nội tại, pháp không là sự thiếu thực hữu nội
tại ở nơi bất cứ hiện tượng nào khác ngoài con người.
Khởi thủy học về Tánh không thì
ta nên quán sát một con người không có thực hữu nội tại
như thế nào. Một người có hai bản chất, bản chất tuyệt
đối và bản chất tương đối. Ta hãy xem xét điều này bằng
một ví dụ về con người tên Xoài. Anh Xoài có hai bản chất,
bản chất tối hậu của anh và bản chất tương đối. Bản
chất tuyệt đối hay tối hậu của Xoài là trống rỗng, không
thực hữu nội tại, còn tên Xoài là bản chất tục đế.
Khi ta biết bản chất tục đế
thì điều này sẽ giúp ta biết được bản chất của chân
đế. Cái căn cứ để gắn tên Xoài là năm uẩn làm nên anh
Xoài. Xoài được làm nên bởi năm nhóm là sắc (thân), thọ
(cảm giác), tưởng (ý), hành (những khuynh hướng nội tâm)
và thức (cái biết). Tập họp của năm uẩn làm nên thân
tâm của anh Xoài là cái căn bản để đặt tên Xoài. Như
vậy, Xoài là một hiện tượng được đặt tên căn cứ vào
năm uẩn của anh ta.
Nếu tra xét kỹ ta không thể tìm
thấy anh Xoài nào trong từng mỗi uẩn sắc, thọ, tưởng,
hành hay thức. Sau khi thiết lập rằng riêng từng uẩn một
không có uẩn nào là anh Xoài thực sự, ta lại phải xác định
rằng sự tập họp của năm uẩn ấy cũng không phải Xoài
nốt. Ta có thể làm việc này bằng cách nhận ra rằng chính
vì không có một uẩn nào trong tập họp của năm uẩn được
gọi là Xoài, cho nên nhóm gồm tất cả những vật phi-Xoài
ấy cũng không thể là Xoài.
Một khi đã hiểu rõ ta không thể
xem Xoài là tập họp của năm uẩn hay bất cứ một uẩn nào
trong đó, kế tiếp ta nên hỏi, có thể nào Xoài hiện hữu
ở ngoài hay khác với năm uẩn hay không? Vì chính từ cơ sở
năm uẩn mà Xoài đã được gán tên ấy, nên Xoài không thể
được tìm thấy ở đâu khác ngoài năm uẩn, hoặc riêng rẻ
hoặc tập hợp. Nhờ sử dụng những phương pháp lý luận,
kiểm soát chặt chẽ, mà ta thấy không thể tìm ra Xoài, Xoài
không hiện hữu từ trong bản chất. Bây giờ ta nên quán xét
điều này chứng tỏ cái gì � sự kiện rằng sau khi tra tầm,
ta không tìm thấy một anh Xoài hiện hữu tự nội?
Khi ấy ta sẽ khám phá ra rằng Xoài
chỉ là do tâm phân biệt đặt ra, thuộc tính chất của tục
đế hay sự thật tương đối. Bởi vậy, Xoài thiếu sự thực
hữu tự nội; Xoài chỉ là một nhãn hiệu do tư tưởng phân
biệt bày đặt. Nói tóm, chính vì khi tra tầm ta không thể
tìm thấy đâu là Xoài, nên điều ấy chứng tỏ Xoài không
có một hình thái hiện hữu tự nội nào cả. Xoài chỉ là
một hiện tượng thuộc phạm trù “con người” do tâm phân
biệt đặt tên.
Nếu anh Xoài thực sự có ra như
một thực thể biệt lập, thì sau khi tìm tòi ta phải thiết
lập được sự hiện hữu nội tại của Xoài. Tuy nhiên thực
tế không phải vậy, ta không tìm ra được một anh Xoài nào
hiện hữu nội tại biệt lập. Bởi thế kết thúc sự tra
tầm này, ta phải chấp nhận rằng Xoài không thể nào hiện
hữu một cách biệt lập tự nội. Mặc dù hình thức lý luận
này lúc đầu khi mới xem qua có vẻ trùng lặp khô khan, song
nó rất cần thiết cho ta nếu ta muốn tránh rắc rối khi thiết
lập hiện hữu của Tánh không.
Nếu tập hợp năm uẩn của Xoài
là anh Xoài, thì phải có một uẩn nào trong đó là Xoài thực
sự. Ví dụ, nếu ta có một xâu chuỗi tràng một trăm hạt,
nếu tập hợp một trăm hạt mà là tràng hạt, thì phải có
một hoặc một số hạt trong đó là chuỗi tràng. Nhưng sự
thực không phải vậy. Do thế, nội cái tập hợp 100 hạt
không phải là tràng hạt. Cũng vậy, nội tập hợp năm uẩn
của Xoài không phải là anh Xoài, vì trong năm uẩn đó không
một uẩn nào là anh Xoài thực sự.
Ta nên quán sát ví dụ này, luận
cứ này trong một thời gian dài, xét xem ý nghĩa và ví dụ
có tương ứng với nhau không. Có thể khi mới xem qua ví dụ
này, ta thấy nó dường như hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng nếu
tra tầm kỹ trong một thời gian lâu dài, ta sẽ tìm được
ý
nghĩa sâu xa.
Trong những bản kinh luận thuộc
trường phái Trung đạo, còn có những giải thích thêm nữa
về những luận chứng lô gích để hiểu tánh không. Chẳng
hạn, nếu nội cái tập hợp năm uẩn của Xoài mà là Xoài
thực, thì hệ luận sẽ là nội sự tập hợp những bộ phận
của một chiếc xe đã là xe. Nếu những bộ phận của xe
mà là xe, thì một đống những bộ phận ấy đang nằm giữa
đất là xe hay sao?
Đối với những người đã nghiên
cứu nhiều về tánh không, thì những gì được nói ở đây
thật rõ ràng không còn có hoài nghi gì nữa. Nhưng nhiều người
vẫn còn tin rằng riêng tập hợp của năm uẩn- như trong ví
dụ về anh Xoài – cũng đã là Xoài thực thụ. Ngay cả vài
trường phái Phật giáo tiểu thừa cũng tin như vậy. Trung
luận (Prasangika), trường phái Phật giáo cao nhất, thể hiện
cái nhìn tuyệt đối của Phật, thì không bao giờ chấp nhận
rằng anh Xoài chỉ là tập hợp của năm uẩn của anh, cũng
không chấp nhận bất cứ một uẩn nào trong đó thực sự
là Xoài. Điểm này rất quan trọng cần biết để khỏi hiểu
lầm giáo lý về Tánh không. Ngay cả khi bậc thầy giải thích
Tánh không một cách chính xác rõ ràng, người học vẫn còn
có thể hiểu lầm những gì vị ấy nói. Bởi vậy ta cần
thụ giáo về tánh không với một bậc thầy giỏi, và còn
phải nghiên cứu, quán sát và thiền định nhiều về tánh
không thì mới thấu hiểu được ý nghĩa vi diệu của nó.
Ta nên xét xem có những lỗi lầm
gì khi tin tưởng rằng năm uẩn của Xoài chính là Xoài. Nếu
chắc chắn năm uẩn của Xoài là Xoài, thì dĩ nhiên nói như
thế không có lỗi gì cả. Nhưng nếu suy xét thật kỹ ta sẽ
thấy rằng sự tin rằng Xoài là tập hợp của năm uẩn của
anh ta rõ ràng có nhiều lỗi về lý luận. Ta nên luyện tập
các phương pháp lý luận này để đạt đến một tri kiến
về tánh không. Nếu có thể, ta cũng cần sử dụng những
ví dụ liên hệ đến những kinh nghiệm của bản thân ta.
LÀM THẾ NÀO
ĐỂ HIỂU TÁNH KHÔNG BẰNG KINH NGHIỆM BẢN THÂN
Đức Tsong Khapa giải thích vài ví
dụ như chiêm bao, ảo giác, và sự lầm lẫn một cuộn dây
có sọc là con rắn, để giúp ta đạt đến tuệ tri về tánh
không. Nếu ta sử dụng những giấc mộng của mình làm ví
dụ, thì sự hiểu biết Tánh không của ta trở thành kinh nghiệm
thực chứng.
Hãy xét đến ví dụ đêm vừa qua
ta mộng thấy mình leo lên núi cao. Trong giấc mơ, ta có kinh
nghiệm về ngọn núi như một cái gì rất thực. Nhưng làm
sao mà ngọn núi hiện hữu được? Một ngọn núi khổng lồ
như thế không thể nằm trong phòng ta, vì nó quá to lớn đối
với gian phòng. Ngọn núi cũng không hiện hữu ở ngoại giới.
Xét theo cách ấy, ta không thể tìm ra ngọn núi, chứng tỏ
nó không có một hiện hữu nào tự nội.
Mặc dù tánh không là cái gì rất
sâu xa vi tế, nhưng nhờ những ví dụ sống động như những
giấc chiêm bao của chúng ta, mà ta có thể hiểu được rằng
ngọn núi, con người hay bất cứ gì ta xét tới, cũng đều
không có một lai lịch thực hữu tự trong bản chất của
nó. Lấy một ví dụ khác, như ta xem một phim kinh hoàng về
sự xuất hiện của một con quái vật. Khi xem phim, ta cảm
thấy hồi hộp sợ hãi. Lúc kinh nghiệm ấy xảy ra, ta hãy
đặt câu hỏi: thực sự là ta đang sợ cái gì?
Nỗi sợ hãi mà ta cảm nghiệm là
do con quái vật xuất hiện trên màn ảnh truyền hình gây nên,
nó trông như sống thực. Khi xét cho kỹ, ta sẽ khởi sự khám
phá rằng tự bản chất, con quái vật không hiện hữu thực
thụ. Ta không thể tìm thấy quái vật trong nhà ta. Con quái
vật mà ta sợ hãi ấy không có lai lịch biệt lập, tự bản
chất nó không thực hữu. Sự sợ hãi của ta đối với quái
vật chỉ là do bày đặt của tư tưởng phân biệt. Cũng thế,
ta nên xem cái “tôi” xuất hiện cũng chỉ hiện hữu độc lập
trong tâm trí ta mà thôi.
Nếu xét kỹ bản chất của cái
“tôi” hiện hữu trong tâm ta, ta thấy rằng giống như lai lịch
của con quái vật trên màn hình, cái tôi ấy cũng không có
hiện hữu thực thụ. Nhờ quán xét cái tôi mà ta có thể
đạt đến vài hiểu biết và kinh nghiệm bản thân về Tánh
không. Nhận ra được sự trống rỗng của cái tôi là chuyện
khác xa với cái cách ta thường thêm là mình hiện hữu.
Đối với những người có lòng
tin đối với đức Phật, thì kinh điển hay giáo lý Phật
dạy cũng đủ khiến cho họ chấp nhận Tánh không và học
hỏi sâu rộng để thực chứng ý nghĩa chân thực về Tánh
không. Người ta bảo rằng với những kẻ vô phước thì sẽ
rất khó để thực chứng Tánh không. Nhưng những người đã
tạo những nhân tốt lành thì có thể chứng ngộ tánh không
một cách dễ dàng. Song le, như ngọc quý khó được mà dễ
mất; những người đã tạo phước nghiệp để có thể thực
chứng tánh không cũng thế, họ dễ đánh mất cái cơ hội
để chứng đắc Không tánh. Theo tục ngữ thì những người
giàu có là may phước, nhưng muốn đạt đến sự thực chứng
sâu xa về Tánh không, ta cần tích lũy tài sản tâm linh là
năng lực công đức.
Đối với những người đã gây
tạo ác nghiệp thì lại càng khó hơn để mà thực chứng
về Tánh không. Cũng như ta không thể gieo giống mùa màng trên
đất đầy sỏi đá, thực khó mà vun trồng thực chứng về
Tánh không trong một cái tâm xấu xa độc ác. Vì lý do ấy
mà sự thanh lọc chướng ngại và ác nghiệp có tầm quan trọng
lớn lao: những hành trì để sám hối thanh lọc như vậy là
một phương pháp nhờ đó ta có thể thực chứng Tánh không.
Nếu ta đi theo đường lối củađức Văn Thù và nương tựa ngài, hiện thân trí tuệ của
tất cả chư Phật, thì trí tuệ ta sẽ tăng trưởng và thực
chứng tánh không một cách không khó khăn. Có ba pháp hành
trì chính yếu để thể nghiệm tánh không: một là tịnh hóa
ác nghiệp và tích lũy công đức; hai là theo một bậc thầy
đủ tư cách, có kinh nghiệm; ba là thực thụ thi hành các
pháp thiền về tánh không và luyện tập nhờ năng lực của
tinh tấn nỗ lực. Nhờ dấn mình vào các pháp tu này mà ta
có thể có được kinh nghiệm về tánh không, nếu không thực
hành như thế thì sự thực nghiệm về Tánh không sẽ vô cùng
khó.
Muốn liễu ngộ được Tánh không,
điều thực quan trọng là phải biết rằng vạn pháp hay mọi
hiện
tượng, kể cả cái tôi, đều do tư tưởng phân biệt bày
đặt, gán tên. Những khái niệm được giải thích ở đây,
cùng với cái cách thông thường ta nhìn sự vật, quả thực
không tương ứng với nhau. Thông thường ta thấy mọi hiện
tượng đều hiện hữu trong bản chất của chính nó, tạo
nên ảo tưởng về một tự tính biệt lập. Đây là một
tướng giả dối do chính ngã chấp của ta tạo nên. Kỳ thực
mọi sự vật đều do tâm tạo, như ngọn núi trong giấc chiêm
bao. Ngọn núi chỉ hiện hữu trong tâm ta, chứ không thực
sự có do bản chất của chính nó.
Ta nên khởi sự quán sát chính bản
thân ta cũng không có thực hữu nội tại như thế nào. Nếu
ta thực hành pháp thiền tịnh chỉ hay thiền hình thức về
tánh không, thì ta hãy ngồi lên bồ đoàn, cố từ bỏ mọi
tư tưởng xấu và tán loạn đủ loại mà đào luyện một
trạng thái tâm lành thiện. Sau khi phát khởi tư tưởng mạnh
mẽ là ta sẽ thiền quán về tánh không, ta hãy cố làm phát
sinh trước hết một ý thức sống động về cái tôi của
mình. Hãy khai triển ý niệm ấy một cách đặc biệt. Chẳng
hạn, hãy tưởng đến cái cảm giác mãnh liệt xuất hiện
khi ta bị nguy khốn tỉ như “ta sắp rơi xuống từ mỏm đá
cao” hoặc “ta sắp chết” hoặc một cảm giác rất mạnh phát
sinh như khi ta nghĩ “mình đói quá” hoặc “mình quá tức giận”.
Sau khi làm phát sinh ý thức sống
động về cái tôi, ta hãy khởi sự đi tìm và cố nắm lấy,
thiết lập lai lịch của cái tôi ấy.
Khi đi tìm cái tôi này, có hai khả
năng chính xảy ra. Nếu cái tôi này hiện hữu, thì nó phải
hiện hữu trong thân hoặc trong tâm. Vì đối tượng tra tầm
được căn cứ vào cái tôi, và vì ta đã nhận cái tôi ấy
có tương quan hoặc với thân hoặc với tâm, nên sẽ phi lý
nếu ta đi tìm một cái tôi hiện hữu biệt lập, tách rời
khỏi thân tâm ấy.
Sự kiện rằng ta nói “thân của
tôi” và “tâm của tôi” chứng tỏ không cái nào trong hai thứ
đó là cái tôi cả. Vì thân và tâm đều không phải tôi,
nên cái sưu tập thân và tâm cũng không phải là tôi. Ta nên
kết luận rằng, sở dĩ ta không thể đi tìm cái tôi ở trong
thân hay trong tâm, lý do vì cái tôi ấy chỉ là một bày đặt
của tư tưởng phân biệt. Chính vì lý do này mà cái tôi không
có một hình thái thực hữu tự nội nào cả.
Sau đó ta nên dán chặt tâm trên
Tánh không và an trú trong đó một cách nhất tâm chuyên chú.
Với người chưa quen thuộc với pháp thiền này, thì trong
một thời gian dài họ sẽ thấy rất khó mà tập trung vào
đối tượng thiền là Tánh không. Vì lẽ đó, khi mới thiền
quán về Không, ta nên tập những thời thiền định ngắn.
Dần dần khi ta trở nên quen thuộc với Không, ta có thể tùy
tiện kéo dài những thời thiền.
Nhờ tu pháp thiền này, được vài
kinh nghiệm về tánh không, ta sẽ thấy rằng cái tôi thông
thường xuất hiện trong tâm ta bây giờ đã mất. Thông thường
ta bám chặt vào ý thức của mình về ngã, và khi làm thế
ta cảm thấy có một cái tôi thực hữu nội tại. Nhưng khi
thiền quán về tánh không, thì cái tôi thực hữu nội tại
ấy biến mất. Khi điều này xảy ra, thì có thể nói là sự
thiền tập của ta đã tiến triển tốt, đưa ta tiến gần
hơn tới chỗ thực chứng tánh không. Vậy lúc ấy cũng không
hề gì nếu ta mất ý thức về “tôi”, vì điều này có tác
dụng như một pháp đối trị cho thấy cái thấy sai lạc của
ta trước đấy về một tự ngã thực hữu nội tại. Tuy nhiên
khi ta đã đạt đến điểm này, thì có thể xảy ra những
hiểu lầm dẫn ta rơi vào cực đoan chấp đoạn diệt.
Nếu sau khi quán về tánh không,
mà ta rơi vào cực đoan chấp đoạn diệt – cho rằng tuyệt
đối không có gì – thì ta lại phải đảo ngược pháp thiền
của mình, trở lại quán xét rằng tại sao quả có một cái
tôi. Chẳng hạn, nếu không có cái tôi thì ai đang suy nghĩ
và làm cái sự tra tầm này. Vì cái tôi là một hiện tượng,
nên nó phải hiện hữu. Nhưng khi ta tìm tòi cố thiết lập
sự hiện hữu của nó, thì ta không thể tìm ra nó. Điều
quan trọng là phải biết không có mâu thuẩn nào giữa hai
lập ngôn ấy, vì một cái ám chỉ bản chất tương đối,
cái kia ám chỉ bản chất tuyệt đối của cái tôi. Khi ta
hiểu rằng chân đế và tục đế không trái nhau, tức là
ta đã thành tựu được sự dung thông giữa hai chân lý ấy.
Khi hiểu được như thế thì không còn cơ nguy bị rơi vào
một trong hai cực đoan: chấp đoạn hoặc chấp thường.
Thiền quán về Tánh không là phương
thuốc thần diệu giúp ta tránh thoát những chướng ngại.
Bởi thế ta nên cố luôn luôn duy trì Tánh không trong tâm ta
– đọc, tư duy, học hỏi và thiền định về nó bất cứ
lúc nào có cơ hội. Điều này cuối cùng sẽ đem lại cho
ta sự chứng ngộ trực giác về tánh không, và giải thoát
ta khỏi khổ.
Geshe
Kelsang Gyatso/ Thích Nữ Trí Hải dịch
(Trích trong Phật Giáo Truyền Thống Đại Thừa)
Discussion about this post