ĐỨC
PHẬT: NHÀ GIÁO DỤC VĨ ĐẠI
Thích
Huệ Khai
Con
người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo
dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái
tim của nhân loại hướng về Ngài và tôn kính Ngài như một
vị đạo sư siêu việt nhất trong lịch sử nhân loại.
I.
DẪN NHẬP
Dòng
thời gian vẫn tiếp diễn qua nhanh như cố tìm quên cái gì
của quá khứ, hết Xuân đến Hạ, Thu tàn Đông sang, vạn
vật cứ chuyển xoay theo dòng đời vô tận. Qui luật vô thường
là thế. Hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua, vạn vật đều
lắng chìm tận đáy dòng đời sanh diệt, diệt sanh. Thế nhưng
cái giá trị nghìn đời của chân lý đạo đức sống của
Đức Thích-ca-mưu-ni, vẫn hiển hiện muôn màu, muôn vẻ. Bao
tinh anh kết tụ và hội nhập tạo thành một vầng trăng chân
lý vi diệu giữa hư không, vầng trăng ấy đã soi sáng rạng
ngời, xua tan bóng tối vô minh của đêm trường tham ái, mang
lại hạnh phúc cho con người.
Hôm
nay, bao khối óc, bao con tim từ phương trời đất Việt trở
về đây cùng hòa chung nhịp, đồng một chí hướng ngồi
lại bên nhau, ôn lại chân lý ấy. Chân lý của con đường
giải thoát mà Đức Thích-ca-mưu-ni đã đạt được tại Bồ-đề
Đạo Tràng này.
Suốt
45 năm du hành giáo hóa, sứ mệnh hoằng pháp của Như Lai chỉ
tuyên dương con đường giải thoát. Những lời dạy của Ngài
đã được kết lại thành Tam Tạng Thánh Điển. Ngày nay,
được các nhà nghiên cứu trên thế giới nhận xét và đánh
giá khác nhau. Giáo lý ấy ví như viên kim cương, tùy theo góc
độ người đứng xem mà nhận xét. Vì vậy, có người đánh
giá Ngài như một nhà triết học, lại có người nhận xét
Ngài như một nhà khoa học, cũng có người cho rằng Ngài là
nhà tâm lý học, nhà hùng biện…. Trong bài viết ngắn này,
chúng tôi xin trình bày vài nét về Đức Phật Thích-ca-mưu-ni
như là một nhà Giáo dục vĩ đại.
II. VÀI NÉT
VỀ GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Các
nhà nghiên cứu giáo dục Phật Giáo cho rằng nền giáo dục
cổ đại Ấn Độ, đặc biệt là tinh thần giáo dục của
Upanishad, chỉ nhằm khám phá ra sự huy hoàng của ánh đuốc
thiên đàng, làm cho con người có cuộc sống ảo tưởng với
vầng hào quang huy hoàng ấy. Theo kinh Badaryana của Bà-la-môn,
mục tiêu giáo dục là nhằm tạo ra con người trí tuệ, thánh
thiện và siêu nhiên. Vì vậy, mục đích giáo dục cổ đại
Ấn Độ là chỉ đem lại tính chất làm tăng trưởng sức
mạnh của tâm thức. Với ý tưởng phát triển hiểu biết
của con người, giúp con người đứng vững đôi chân của
mình bằng trí tuệ, lòng tự tin để mạnh dạn bước đi
cho hết kiếp người trên đường đời đầy chông gai nghiệt
ngã này. Hay nói cụ thể hơn, nền giáo dục cổ đại Ấn
Độ nhắm tới việc xây dựng con người chân thật, theo đúng
ý nghĩa của nó.
Theo
Phật giáo, con người là trung tâm điểm. Sự chiến tranh hay
hoà bình của nhân loại từ xưa đến nay đều do con người
gây ra. Vấn đề chính yếu là làm thế nào để giáo dục
con người thẳng tiến trong con đường phát triển trí tuệ
một cách có phương pháp để đem lại an lạc và hạnh phúc
cho mình và người. Điều đó, đối với các nhà giáo dục
cổ đại Ấn Độ lúc bấy giờ chỉ là một giấc mơ. Mãi
đến khi tôn giả Gotama đạt được giác ngộ tại Bồ-đề
Đạo Tràng này, thì giấc mơ ấy trở thành hiện thực. Đức
Phật đã vạch ra con đường giáo dục cụ thể, có lý thuyết,
có thực hành và có kết quả trí tuệ, giải thoát khỏi khổ
đau thật sự từ con người, ngay trong đời sống hiện tại.
TINH
THẦN GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Đức
Như Lai là một nhà giáo dục bình đẳng, Ngài tuyên bố với
nhân loại rằng cánh cửa thành công đạt được con đường
giải thoát phải rộng mở cho tất cả mọi người, từ nam
nữ, lớn nhỏ, sang hèn, cao thấp, đạo đức hay tội lỗi.
Nếu ai biết cải thiện đời sống trong sạch thì sẽ đạt
được con đường giải thoát như đức Phật. Trong lịch sử
nhân loại, đức Phật là người đầu tiên phủ nhận các
học thuyết về tập cấp xã hội, trong đó, thể chế người
có sức mạnh sẽ cai trị và là chân lý trong khi người yếu
sức sẽ bị làm nô lệ. Đức Phật đã nâng những giai cấp
thấp tận cùng xã hội đứng ngang hàng địa vị của những
người được coi là giai cấp cao nhất lúc bấy giờ, thông
qua tiêu chí đạo đức và trí tuệ. Cũng chính đức Phật,
người đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đã đưa vai trò
người phụ nữ lên địa vị cao bằng cách thiết lập giáo
đoàn nữ đầu tiên trong lịch sử các tôn giáo. Theo đức
Phật, nếu giá trị thật của con người nằm ở đời sống
đạo đức và trí tuệ thì con đường giác ngộ giải thoát
không có ranh giới của giới tính, chủng tộc, màu da . . .
Bất cứ ai, một khi thực hành đúng chánh pháp sẽ chắc chắn
chứng đắc được các quả vị như nhau, đạt được hạnh
phúc và an lạc như nhau.
MỤC
ĐÍCH GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Mục
đích giáo dục của Đức Phật nhắm vào con người nhiều
hơn, vì con người là trung tâm điểm của thế giới. Hạnh
phúc hay khổ đau, hòa bình hay chiến tranh cũng từ con người
mang đến. Do đó, để xây dựng một xã hội vững mạnh và
an định về kinh tế, chính trị, quốc phòng, văn hóa, giáo
dục, trước tiên theo đức Phật phải giáo dục con người
chính nó, từ mặt vật lý, tâm lý, sinh lý, cho đến ý chí
tình cảm và trí tuệ. Đọc lại kinh Thiện Sanh thuộc kinh
Trường Bộ số 16 (1) chúng ta sẽ bắt gặp Đức Phật nói
về sáu mối tương quan để xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Đó là mối tương quan giữa cha mẹ và con cái; giữa Thầy
và trò; vợ và chồng; cá nhân và bà con láng giềng, bạn
bè; chủ và thợ; tu sĩ và cư sĩ. Trong đoạn kinh khác (Kinh
Du Hành số 2- Trường A Hàm I), đức Phật trả lời gián tiếp
với Bà-la-môn Võ-xá, đại thần của vua A-xà-the,?về bảy
phương pháp làm cho đất nước cường thịnh. Kinh Tăng Chi,
chương 7 pháp cũng đề cập đến 7 điều làm cho đất nước
phồn vinh. Trong Kinh chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành số 6 (Trường
A Hàm I) Đức Phật dạy, sở dĩ có người trộm cắp, hung
ác, cướp bóc là do họ nghèo đói. Muốn chấm dứt nạn này
(trộm cắp, hung ác, cướp bóc) thì phải cải thiện đời
sống cho họ, cấp hạt giống cho người dân, đầu tư cho
các thương gia và phải trả công thích đáng cho người làm
thợ. Ngài cũng dạy, nên thay đổi chi phí cúng tế thần linh
để cứu trợ cho người dân nghèo. Toàn bộ hệ thống giáo
lý của đức Thế Tôn không ngoài mục đích cải tạo con
người xấu thành người tốt, người tốt trở thành người
tốt hơn, phàm thành thánh. Giáo dục của Phật giáo là giáo
dục chuyển hoá bản thân và xã hội, trên cơ sở tự lực
của mỗi người.
PHƯƠNG
PHÁP GIÁO DỤC CỦA ĐỨC PHẬT
Từ
khi thành đạo cho đến ngày đi vào đại niết-bàn, Đức
Như Lai không ngừng giáo dục cho nhân loại. Trong suốt quá
trình 45 năm dài (theo kinh điển Pali) hay 49 năm (theo kinh điển
Đại thừa), đức Phật đã tiếp xúc nhiều đối tượng
khác nhau trong mọi tầng lớp xã hội, từ các nhà trí thức,
đạo sĩ ngoại đạo, vua quan, người giàu sang, cho đến người
thấp hèn, hạng người sát nhân, gái giang hồ, trẻ chăn trâu,
ác ma, chư thiên, càn-thác-bà. Có khi Ngài dạy cả số đông
hay một nhóm người hoặc nếu cần Ngài chỉ dạy cho một
người. Sau thời giảng của đức Phật đều có người đắc
được quả thánh thứ nhất và cuối cùng. Phương pháp của
đức Phật nằm trên tính khế cơ, phân tích, giải thích rất
tỉ mỉ và nhắc đi nhắc lại nhiều lần vấn đề gạn lọc
tâm ý để thiện hoá con người và xã hội. Ngài thường
dùng hình ảnh so sánh hoặc ví dụ và chọn lọc những gì
mà chúng sanh đang cần dạy và liên quan đến cuộc sống hiện
tại của người nghe, để giúp cho người nghe dễ dàng lãnh
hội những ý tưởng sâu sắc trong những ngôn ngữ rất mộc
mạc, bình dân. Ví như trong Kinh Tiễn Dụ số 221,(2) Tôn giả
Man Đồng Tử đặt ra mười câu hỏi siêu hình để hỏi Thế
Tôn: “Thế giới thường hay vô thường? Như Lai có tồn tại
sau khi chết? v.v…” Thế Tôn đã im lặng không trả lời. Ngài
nói cho Man Đồng Tử nghe câu chuyện một người bị mũi tên
độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẫu để giải độc
ngay, chứ không phải là vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi
tên và người bắn mũi tên, bởi lẽ người trúng tên độc
sẽ có thể chết trước khi biết được tông tích của hung
thủ. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ
mũi tên “khổ đau” chứ không phải đi tìm những câu trả
lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực. Một lần
khác ở Kosambi (Tương Ưng Bộ Kinh V), Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo:
“Những gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những
gì mà Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng
đây là những phương thức thoát khổ.” Đấy là tính chất
thực tiễn, thực tế, rất thiết thực hiện tại của những
lời giảng dạy của Thế Tôn. Chúng ta còn thường thấy ở
các kinh khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại được Thế Tôn
cắt nghĩa: quán sát tự thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân,
si mà đoạn trừ. Chẳng hạn như pháp Tứ Đế, khi nào còn
con người tham dục- còn đau khổ thì chân lý Tứ Đế vẫn
còn tồn tại giá trị nghìn đời. Đó là một trong các ý
nghĩa thiết thực nhất của bốn chân lý này.
PHONG
CÁCH DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Như
đã nói ở trên, Đức Phật là người đầu tiên trong lịch
sử nhân loại, phủ bác các chế độ tập cấp xã hội. Ngài
luôn luôn nâng cao tinh thần tự do và bình đẳng. Ngài không
bắt buộc người học trò rập khuôn theo Ngài, cũng không
bắt buộc học trò nô lệ giáo lý hoặc nô lệ chính Ngài.
Những ai học với Ngài đều được quyền tự do tư tưởng.
Đức Phật thường dạy các đồ đệ đừng vì kính nể,
tôn trọng Ngài mà nhắm mắt tin theo lời Ngài dạy. Hãy thực
hành lời ngài dạy nếu tự mình tư duy, kiểm nghiệm và cảm
thấy có lợi ích. Phong cách dạy của Đức Phật đặt trên
nền tảng trí tuệ và giải thoát làm căn bản. Bởi vậy,
khi tiếp nhận lời dạy của Đức Phật phải suy tư, phải
tìm hiểu một cách kỷ thì mới có thể lãnh hội hết ý
nghĩa thâm sâu chứa đựng bên trong, và dĩ nhiên lợi ích
của nó lại càng to lớn hơn nữa. Trong kinh Kitagini (Trung Bộ
II) Đức Phật dạy người học trò chơn chánh phải:”có lòng
tin; đến gần; tỏ lòng tôn kính; lắng tai; nghe pháp; thọ
trì pháp; suy tư ý nghĩa các pháp; chấp nhận các pháp; ước
muốn sanh khởi; nỗ lực; cân nhắc và tinh cần.”
Đức
Phật vừa là một vị Thầy vừa là một vị Cha (Thiên Nhơn
chi Đạo Sư, Tứ Sanh chi Từ Phụ) của loài người và loài
thần linh. Ngài luôn thể hiện lòng từ mẫn thương tưởng
đến tất cả chúng sanh. Ngài dẫn dắt, an ủi, nâng đỡ
những bà mẹ bạc phước như Patàcàrà và Kisàgotami. Tự
tay Ngài chăm sóc cho những người bịnh hoạn, cô đơn như
Patigatta Tissa Thera. Ngài giúp đỡ người nghèo đói và người
bị bỏ rơi như Rujjumàlà và Sopàka. Đức Phật nâng đời
sống đạo đức của những hạng người tội lỗi sát nhân
như Angulimàla và hạng gái gian hồ hư hỏng như Ambapali. Ngài
khuyến khích kẻ yếu hèn, đoàn kết lại những người chia
rẽ .Tất cả đều hưởng được những lời dạy đầy trí
tuệ của Ngài. Đức Phật là một vị Thầy bao giờ cũng
thể hiện tình thân thiện đến những người học trò. Ngài
thường sinh hoạt bên cạnh người học trò, theo dõi từng
dòng tư tưởng của học trò, ví như người bác sĩ từng
sống cùng bịnh nhân, nên hiểu từng căn bịnh của bịnh
nhân mà cho thuốc.
Đức
Phật là vị Thầy không độc quyền, không độc đoán và
không độc tài lãnh đạo giáo hội. Ngài khuyên các đệ tử
lớn, như Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên . . . thu nhận đệ
tử. Đức Phật ân cần truyền trao kinh nghiệm phong cách một
vị thầy cho các đệ tử. Đó là những mối tương quan, ảnh
hưởng qua lại giữa thầy và trò. Đối với người Thầy
đức Phật dạy phải:
– Có
lòng thương tưởng đến người học trò.
– Rèn
luyện phẩm hạnh và tư cách đạo đức cho học trò.
– Truyền
dạy cho học trò đến nơi đến chốn những kiến thức khoa
học và trí tuệ của người xưa.
– Ngợi
khen học trò trước mặt các bạn bè, và người thân.
– Bảo
vệ học trò khỏi những nguy khốn của cuộc đời.
Ngược
lại, người học trò phải thể hiện đúng bổn phận của
mình:
– Phụng
dưỡng Thầy chu đáo.
– Đứng
dậy chào khi Thầy đi tới và hầu hạ khi thầy cần đến.
– Lắng
nghe lời Thầy dạy với lòng tôn kính.
– Thực
hành những bổn phận cần thiết đối với Thầy.
– Hết
lòng thực hiện những điều Thầy dạy (nếu những điều
đó đúng Chánh Pháp).
Những
gì Đức Phật dạy đều phát xuất từ đời sống kinh nghiệm
và chứng đắc của bản thân. Sau khi thực hành có hiệu quả,
đức Phật đã truyền dạy lại cho chúng sanh. Trong Kinh Tăng
Chi I,(3) Đức Phật đã tán dương và xác nhận Tôn giả Xá-lợi-phất
là đệ tử trí tuệ đệ nhất. Cũng trong kinh này, một lần
khác Đức Phật dạy: “Các Tỷ-kheo mong cầu một cách chơn
chánh, sẽ mong cầu như sau: “Mong rằng ta sẽ như Xá-lợi-phất
và Mục-kiền-liên.” Đây là cán cân, này các Tỷ kheo, đây
là đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của ta,
tức là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.”(4) Tôn giả Xá-lợi-phất
và Mục-kiền-liên thường thay mặt Đức Phật giảng dạy
hoặc hướng dẫn trực tiếp đại chúng và các Tỷ-kheo trẻ
tuổi.
Tóm
lại, Đức Phật là một vị Thầy giàu lòng bi mẫn và rộng
lượng khoan hồ?g hơn tất cả. Đức Phật đã truyền dạy
cho chúng ta những ý chí sắt đá, trí tuệ cao siêu, đức
vị tha phục vụ, sự thoát ly chưa từng có, hãy sống đời
gương mẫu, làm lợi lạc cho mình và người và cả hai. Phương
pháp toàn thiện mà Đức Phật đã truyền bá cho chúng ta có
nhiều kết quả mỹ mãn. Con người vĩ đại đó, tấm lòng
trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức
Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng
về Ngài và tôn kính Ngài như một đạo sư siêu việt nhất
trong lịch sử nhân loại, như Sri Radhakrishnan nói: ” Nơi Đức
Phật Cồ-dàm ta nhận thấy một tinh hoa toàn thiện của phương
Đông. Ảnh hưởng Ngài trong tư tưởng và đời sống nhân
loại là một kỳ công hi hữu, cho đến ngày nay không thua
kém của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử.”(5)
III. KẾT LUẬN
Đức
Phật là nhà giáo dục vĩ đại, phương pháp giáo dục của
Ngài không chỉ khế cơ, khế lý mà còn khế thời, phù hợp
và đáp ứng được những gì mà chúng sanh, hôm qua, hôm nay
và ngày mai mong đợi. Ngài là người đem lại ánh sáng trí
tuệ giác ngộ cho cuộc đời và diệt trừ nhưng nguyên nhân
gây khổ đau cho cuộc đời. Đức Phật xuất hiện trên thế
gian này, không ngoài mục đích chính là chỉ bày cho tất cả
chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Hay nói
đúng hơn là “Vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc,
vì an lạc cho Chư thiên và loài người.” Vì mục đích tốt
thượng đó, suốt bốn mươi lăm năm, Đức Thế Tôn phục
vụ cho tất cả chúng sanh không ngừng nghỉ.
Hôm
nay, chúng ta ôn lại giáo lý của Đức Phật, không phải để
đánh giá, nhận xét hay để thưởng thức như một bức tranh
toàn hảo, mà nhằm cùng chiêm nghiệm để thực hành trên
con tu tập của chúng ta. Hình ảnh đầu trần, chân đất,
một bình bát và ba y đi khất thực hằng ngày, có thể chúng
ta không thực hành được như Ngài. Những điều giác ngộ
cao siêu như Ngài, chúng ta cũng có thể chưa đạt được.
Nhưng phong cách một vị thầy và lời dạy của Ngài, chúng
ta sẽ thực hành được. Vì những điều Đức Phật dạy
không vượt ngoài khả năng con người.
Khi
viết bài này, chúng tôi cốt chỉ khái quát vài nét nhỏ về
phương pháp và phong cách giáo dục của đức Phật như một
vị Thầy vĩ đại. Chúng tôi cố giắng trình bày, nhưng không
thể nào diễn tả hết sự kỳ diệu của phương pháp giáo
dục của ngài, chẳng khác nào như con muỗi uống nước đại
dương. Mặc dù vậy con muỗi cũng cảm nhận được vị nặn
của dòng nước đại dương ấy.
Chú
thích:
(1)
Đại Tạng Kinh Việt Nam Aa1, Kinh A Hàm I, Viện Nghiên cứu
Phật Học Việt Nam, 1991, tr. 566-574.
(2)
Đại Tạng Kinh Việt Na, Kinh Trung A Hàm IV , Viện Nghiên cứu
Phật Học Việt Nam, 1992, tr 738-747.
(3)
Kinh Tăng Chi I, bản dịch của HT Thích Minh Châu, 1980, tr.30.
(4)
Kinh Tăng Chi I. tr.102.
(5)
Gautama the Buddha, tr.1
Discussion about this post