TÔN GIẢ QUANG MINH
Toàn Không
1)- LÒNG ĐỐ KỊ:
Một thời đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan
Đà thuộc thành Vương Xá, nước Ma Kiệt. Bấy giờ, ở trong thành có một Trưởng giả
tên Thiện Hiền rất giàu có, nhưng tin theo ngoại đạo Ni Kiền.
Một hôm, đức Phật vào thành khất thực lần
lượt từ đầu thành đến nhà Trưởng giả Thiện Hiền, lúc ấy, Trưởng giả thấy đức
Phật đến gần nhà, liền nói với vợ: “Chúng ta nên hỏi chuyện Sa Môn về cái thai
(cái bầu). Rồi khi đức Phật vừa tới, Trưởng giả liền nói:
–
Thưa Sa Môn Cù Đàm, tôi là Thiện Hiền, còn đây là vợ tôi đang mang thai sắp đến
ngày sinh, xin Sa Môn cho biết vợ tôi sẽ sanh trai hay gái?
Đức Phật bảo:
–
Trưởng giả, trong bụng vợ Ông chắc chắn là con trai. Sau khi đứa bé sinh ra
rồi, gia đình được giàu có thịnh vượng, ở trong loài người được hưởng phúc
Trời, sau đó xuất gia học đạo trong giáo pháp của tôi, dứt các phiền não, chứng
quả A La Hán.
Khi ấy, Trưởng giả liền đặt vào trong bình
bát đầy thức ăn ngon. Đức Phật nhận thức ăn rồi nói:
–
Nguyện cho người thí thức ăn này phúc báu an lạc.
Nói xong, đức Phật mang bình bát thức ăn
đi. Lúc ấy, có Ni Kiền Đà ngoại đạo là người đã được Trưởng giả Thiện Hiền kính
trọng lâu năm, ông ta tình cờ nhìn thấy đức Phật từ nhà Trưởng giả đi ra, bèn
nghĩ: “Không biết Sa Môn có làm mất lòng tin của Trưởng giả đối với ta không?”
Nghĩ vậy, ông bèn vào nhà Trưởng giả và nói:
–
Trưởng giả, Sa Môn Cù Đàm đến nhà Ông cầu gì nói gì, Ông nên cho tôi được biết.
Trưởng giả đáp:
–
Thưa Thánh giả, Thầy con! Vì vợ con mang thai, nên con hỏi Sa Môn Cù Đàm đứa
con sắp sinh là trai hay gái. Ông ấy bảo rằng: “Chắc chắn sẽ sinh trai, sau khi
sinh ra rồi, gia đình được giàu có thịnh vượng. Ở trong loài người được hưởng
phước Trời, sau đó sẽ xuất gia học đạo trong giáo pháp của tôi, dứt các buồn
khổ, chứng quả A La Hán”
Ni Kiền Đà là người đoán tướng rất giỏi,
nghe nói xong liền lấy đá sắp bày tính toán xem việc ấy thật hay giả; bày tính
rồi, biết lời Phật nói là thật, nhưng ông ta lại nghĩ: “Nếu ta bảo lời Sa Môn
Cù Đàm là đúng, thì Trưởng giả sẽ tin Sa Môn, ta không nói thế được”. Nên Ni
Kiền Đà bảo Trưởng giả cho mời người vợ ra gặp để xem chỉ tay và tướng mặt.
Trưởng giả nói:
–
Thưa Thánh Thầy, Ngài đã tính rồi, còn xem chỉ tay tướng mặt làm gi?
Ni Kiền nói:
–
Vì ta thấy lời Sa Môn có phần chân thật có phần giả dối, nên muốn xem chỉ tay
và tướng mặt cho chắc chắn hơn.
Khi nghe nói thế, Trưởng giả liền gọi vợ
ra, Ni Kiền liền xem chỉ tay và tướng mặt người vợ, xong bảo hai vợ chồng
Trưởng giả:
–
Lời Sa Môn Cù Đàm nửa đúng nửa sai, tại sao?
+
Vợ Ông sanh con trai đó là đúng.
+
Sinh rồi gia đình giàu có cũng là đúng.
+
Nhưng khi sanh con có chút ánh sáng lửa hội lại, nên người con này về sau chắc
chắn sẽ hại gia đình.
+
Ở trong loài người được hưởng phúc Trời, việc này giả dối, Ông có thấy hay nghe
ai nói loài người được hưởng phước Trời hay chưa?, việc này chẳng thể tin.
+
Nói xuất gia trong giáo pháp của Sa Môn Cù Đàm là nói đúng, vì sao? Vì do nhu
cầu cơm áo thiếu thốn nên xuất gia theo Sa Môn Cù Đàm.
+
Nói dứt phiền não, chứng quả A La Hán là giả dối.
Lúc ấy, Trưởng giả Thiện Hiền đâm ra nghi
ngờ bối rối, không biết thật hay giả nên sinh buồn phiền, bèn nói với Ni Kiền:
–
Thưa Thánh Thầy, việc này con phải làm thế nào đây?
Ni Kiền Đà nói:
–
Trưởng giả, Ông nên làm cho đứa bé xuất gia tu học trong giáo pháp của ta, tuy
nói vậy, nhưng ông tự tính lấy.
Ni Kiền Đà nói rồi, liền đứng dậy đi về,
Trưởng giả Thiện Hiền ngồi suy nghĩ: “Nay ta không thể nào tiếc mà phải bỏ,
phải bày kế phá bỏ thai nhi”.
Nghĩ xong, ông tìm thuốc độc đem bôi vào
bụng vợ để giết bào thai. Khi bôi xoa bên phải bào thai chuyển qua bên trái,
khi bôi xoa bên trái bào thai chuyển qua bên phải, khi bôi xoa khắp hết bụng
bào thai nằm im; vì bôi xoa quá nhiều thuốc độc, nên người vợ chết.
Thiện Hiền nghĩ: “Mẹ chết con cũng chết
theo, sẽ không còn phá hoại gia đình ta nữa”. Nghĩ xong, ông làm bộ khóc rống
lên để mọi người biết vợ ông chết, người xóm giềng, bà con tới hỏi:
–
Vì sao vợ ông chết?
Ông nói:
–
Do bào thai hại, bỗng nhiên chết.
Ông mua sắm đồ tang lễ đầy đủ, xong cùng
quyến thuộc bà con đưa xác vợ đến rừng Thi Đà.
Ni Kiền Đà nghe tin ấy rất vui mừng, liền
đi đến các chỗ ngã tư đường có đông người nói lớn lên những điều Sa Môn Cù Đàm
đã nói trước về con của Trưởng giả Thiền Hiền, và Ni Kiền cho biết những điều
Sa Môn Cù Đàm nói đều là giả dối, vì nay vợ của Trưởng giả đã chết, con cũng
chết theo. Các ngoại đạo nghe những lời nói ấy đều vui mừng phấn khởi, và từ
miệng người này truyền sang người khác, nên ai cũng nghe biết như thế.
LỜI BÀN
Qua đoạn Kinh trên, chúng ta thấy lúc đầu
Trưởng giả Thiện Hiền đã tạo được điều lành do lòng vui vẻ cúng thí đức Phật.
Phúc đức này sẽ được quả báo tốt đẹp, nhưng sau đó, do lòng đố kị, sự ghen ghét
của Ni Kiền Đà đưa đến việc thêu dệt thêm những điều không đúng, làm cho người
nghe là Trưởng giả Thiện Hiền trước có tâm lành sau đổi thành tâm ác, gây nên
việc giết con hại vợ, quả báo này không phải là nhỏ.
Rồi khóc rống lên để che đậy tội lỗi của
mình, thật là nước mắt cá sấu của kẻ ác muốn chạy tội, nhưng chỉ che đậy được
với kẻ ngu, chứ làm sao che nổi người Trí, làm sao che nổi chính mình, làm sao
che nổi nghiệp báo? Khi bà con hàng xóm đến hỏi về cái chết của người vợ, vì để
tránh trách nhiệm của mình, nên Thiện Hiền đổ thừa cho tại cái thai làm chết
người vợ, miệng lưỡi độc hại là ở điểm đó.
Thiết nghĩ, về sau Thiện Hiền chết không
tránh khỏi đọa địa ngục vì giết vợ hại con. Sau khi ra khỏi địa ngục được sinh
lại cõi ngưòi, có thể là người giàu có vì đã cúng thí Phật với tâm vui vẻ, nhưng
sẽ không có con, vì cố ý giết đứa con trong bụng vợ. Thiện Hiền còn một điểm
nữa là lúc đầu tin lời Phật, sau không còn tin nữa, mà tin lời tà của Ni Kiền,
nên quả báo của Thiện Hiền khá phức tạp, chứ không đơn giản đâu.
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân
thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở
lại làm người, sinh lên cõi Trời, cõi Thần, sanh làm Ngạ quỷ, Súc sanh hay đọa xuống
Địa ngục. Chỉ có đức Phật mới làm cho chúng sinh chưa trồng căn lành làm cho sẽ
trồng căn lành; chỉ có Ngài mới làm cho chúng sanh đã trồng căn lành cho được
thành thục; chỉ có Ngài mới làm cho chúng sinh đã thành thục làm cho được giải
thoát; còn các người ngoại đạo nghe lời tà kiến vui mừng, lại khinh khi bậc
Thánh, khi chết tất cả đều phải lãnh quả báo chứ đừng tưởng là không có tội.
Chúng ta tiếp tục theo dõi câu chuyện diễn
tiến ra sao?
2)- PHẬT ĐỘ CHÚNG SINH:
Bấy giờ, đức Phật xét biết mọi việc xảy ra,
từ miệng Ngài phóng ra ánh sáng ngũ sắc (năm màu: xanh (dark blue), vàng
(yello), đỏ (red), trắng (white), cam (orange), cũng là màu cờ Phật giáo). chiếu
xuống 8 loại Địa ngục nóng, 8 loại Địa ngục lạnh. Khi ánh sáng chiếu tới các
Địa ngục nóng liền được mát mẻ, khi chiếu tới Địa ngục lạnh liền được ấm áp; ở
các Địa ngục liền được dứt khổ sinh tâm vui vẻ, liền thoát khỏi địa ngục sinh
đến cõi lành Trời Người Thần.
Chiếu xong Địa ngục, miệng Phật hướng lên
chiếu khắp 6 tầng Trời Dục giới và 18 tầng Trời Sắc giới và 4 tầng Trời Vô Sắc
giới. Trong ánh sáng phát ra tiếng “vô thường, khổ, vô ngã”, và trong ánh sáng
ấy có lời kệ vang lên:
Như voi lớn trong bùn,
Dùng sức liền ra khỏi,
Như lai có sức lớn,
Phá tan giặc sinh tử,
Khéo điều phục chính pháp,
Xa lìa các lỗi lầm,
Chấm dứt cảnh luân hồi,
Diệt hết khổ chúng sinh.
Rồi từ miệng Phật, ánh sáng chiếu khắp ba
nghìn Đại Thiên thế giới (khắp giải Ngân Hà của chúng ta), xong ánh sáng ấy
xoay chuyển đi vào miệng Ngài. Chư Thiên các tầng Trời thấy thế, liền trong
khoảnh khắc đều đến chỗ Phật. Lúc ấy Tôn giả A Nan Đà, Thị giả của Ngài thấy
thế liền hỏi:
–
Bạch Thế Tôn, ánh sáng từ miệng Ngài sáng rực như thế là do nhân duyên gì?
Đức Phật bảo:
–
A Nan, nếu không có nguyên nhân Như Lai không
phóng ánh sáng. Nay Ta muốn đến rừng Thi Đà, Ông bảo đại chúng Tỳ Kheo theo Ta
đến rừng Thi Đà.
Tôn giả A Nan Đà nghe lời đức Phật nói
liền đi đến chỗ các Tỳ Kheo nói sự việc Phật phóng hào quang từ miệng và Ngài
muốn đại chúng theo Ngài đến rừng Thi Đà.
Lúc ấy, đức Phật như voi chúa, là một vị
Phật, có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thanh tịnh, trang nghiêm, vô sở úy (không
sợ hãi). Ngài dẫn đầu đoàn Tỳ Kheo đông đảo ra khỏi rừng Ca Lan Đà đến rừng Thi
Đà.
Khi ấy, trong thành Vương Xá có hai thanh thiếu niên đang chơi đùa bên đường, một
tên Thọ Mạng, một tên Đồng Tử. Thọ Mạng đã có lòng tin Phật chân chính, còn
Đồng Tử không có lòng tin. Lúc ấy Đồng Tử nói rằng có lời nói về những điều Sa
Môn Cù Đàm nói trước về đứa con trong bụng vợ Trưởng giả Thiện Hiền. Nói xong,
Đồng Tử bảo những điều Sa Môn nói là sai, vì người vợ đã chết, đứa con trong
bụng cũng chết luôn, xác người chết đã đưa ra rừng Thi Đà rồi. Nhưng Thọ Mạng
không đồng ý và nói kệ:
Mặt trời, trăng, sao có thể rơi,
Núi đất, núi đá có thể bay,
Nước biển, vực sâu có thể cạn,
Lời Cù Đàm nói quyết không dối.
Nói kệ rồi, Thọ Mạng bảo Đồng Tử:
–
Nếu bạn không tin, hãy cùng tôi đến rừng Thi Đà xem rõ sự việc này.
Bấy giờ Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt,
trước đã nghe nói về việc ấy, lúc ấy lại nghe quần Thần báo cáo việc Trưởng giả
Thiện Hiền đã đưa xác vợ đến rừng Thi Đà, và nhất là đức Phật và đại chúng Tỳ
Kheo cũng đang đến rừng ấy. Vua liền nghĩ: “Đức Thế Tôn nếu không vì lợi ích
chúng sinh thì đến rừng Thi Đà làm gì? Ta nên đến xem việc này”, nghĩ rồi Vua
liền ra lệnh quần Thần dùng xe cùng ra khỏi thành nhanh chóng đến rừng ấy.
Trong đại chúng đông đảo Trời Quỷ Thần
Người có cả Ni Kiền Đà và quyến thuộc, đang ở bên cạnh Trưởng giả Thiện Hiền và
quyến thuộc với xác người vợ đã được để trên dàn củi, có các đồ tang lễ chung
quanh.
Khi đức Phật vừa tới nơi, Ngài liền phóng
ánh sáng chiếu khắp đại chúng. Ni Kiền Đà thấy thế liền nghĩ: “Sa Môn Cù Đàm
hiện tướng ánh sáng cùng khắp, lẽ nào con Trưởng giả còn sống?” Nghĩ xong, ông
ta nói với Trưởng giả Thiện Hiền:
–
Trưởng giả, ta thấy Sa Môn Cù Đàm hiện tướng ánh sáng, ắt là con Ông không
chết.
–
Thưa Thánh Thầy, nếu như vậy, con phải làm sao?
–
Trưởng giả, nếu con Ông còn sống thì nên cho vào học trong giáo pháp của ta.
Lúc ấy, Trưởng giả Thiện Hiền bèn châm lửa
đốt dàn củi, khi lửa đang cháy, từ giữa bụng người chết tự nhiên sinh ra một
hoa sen lớn, trong hoa sen có một hài nhi ngồi ngay thẳng. Ni Kiền Đà thấy thế,
trong lòng buồn rầu, đứng yên lặng nhìn, Đức Phật đến gần dùng tay phải nâng
hài nhi ra khỏi ngọn lửa đặt trên một tang lễ gần đó, rồi Ngài bảo Thiện Hiền:
–
Ông đem đứa bé này về giữ gìn nuôi nấng.
Ni Kiền Đà nhìn Trưởng giả rồi nói:
–
Trưởng giả, trong ngọn lửa đốt xác chết bỗng dưng sanh ra đứa bé, việc này
không an lành, Ông không nên mang đứa bé này về nuôi.
Nghe lời Ni Kiền, Thiện Hiền lắc đầu không
nhận đứa con mình. Đức Phật bảo thanh thiếu niên Thọ Mạng:
–
Anh có muốn nhận đứa bé này về nuôi không?
Thọ Mạng suy nghĩ rồi thưa:
–
Trong nhà con không có chỗ chứa, vả lại việc này không phải việc của con.
Đức
Phật lại bảo Trưởng giả:
–
Đứa bé này là con của Ông, Ông nên đem về gìn giữ nuôi dưỡng.
Thiện Hiền quay qua nhìn Ni Kiền Đà, ý
muốn hỏi ý kiến, Ni Kiền liền nói:
–
Trưởng giả, Ông nên suy xét, đứa bé này là di vật của lửa, rất xui xẻo. Tuy lửa
không đốt, nhưng tướng sao tốt được, nếu Ông đem về gia đình Ông sẽ bị phá
hoại, gây nhiều tổn hại, không được thuận lợi, sau hối hận không kịp.
Thiện Hiền đã có tà kiến, lại nghe Ni Kiền
nói vậy, thấy hợp ý, bèn từ chối không nhận đứa con; bấy giờ, đức Phật bảo Vua
Tần Bà Sa La:
–
Đại Vương! Ông nên mang đứa bé này về cung nuôi dưỡng.
Vua vâng lời Phật, liền bồng đứa bé lên,
và thưa:
–
Con xin vâng, đem đứa bé này về cung nuôi dưỡng, nhưng xin Thế Tôn đặt tên cho
đứa bé này.
Đức Phật bảo:
–
Đức bé này được sinh ra từ trong lửa, nên đặt tên là Hỏa, là Quang Minh.
Lúc ấy Vua Tần Bà Sa La giao đứa bé cho
tùy tùng bồng giữ. Khi về tới cung, Vua giao Quang Minh cho 8 Cung nữ làm 8
người mẹ như sau:
+
Hai người làm Dưỡng Mẫu dạy dỗ nuôi dưỡng.
+
Hai người làm Nhũ Mẫu bú mớm cơm nước.
+
Hai người làm Tịnh Mẫu tắm rửa giắt giũ.
+
Hai người làm Hý Mẫu vui chơi học tập.
Tám Cung nữ luân phiên ngày và đêm trông
coi từ bấy giờ cho tới khi Quang Minh trưởng thành, thương yêu, chăm sóc, dạy
dỗ, chiều chuộng, không để thiếu sót; dần dần đến khi trưởng thành, Quang Minh
trang nhã đẹp đẽ như một hoa sen từ ao trong mát mọc lên.
LỜI BÀN:
Trước hết, chúng ta nên biết: “Vô sở úy” của đức Phật là gì? Là những
điều Đức Phật không sợ mà người thường như chúng ta lại sợ, đó là:
–
Không sợ lửa, Ngài có thể vào lửa không sao.
–
Không sợ nước, biển, Ngài có thể vào trong nước trong biển không sao.
–
Không sợ thú dữ rắn rết v.v… các loại dữ độc to nhỏ, Ngài không sợ bị hại.
–
Không sợ Vua Chúa, dù Vua hiền Vua dữ, đều phải kính phục Ngài.
–
Không sợ giặc cướp người ác, vì họ không thể hại được Ngài.
–
Không sợ Trời, Quỷ, Thần, Ma, vì tất cả đều quy phục Ngài.
–
Không sợ khổ não do bệnh, vì bệnh không làm Ngài buồn rầu.
Như chúng ta đã biết, đức Phật có đủ thứ
thần thông siêu việt, không việc gì chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng biết, nên
những việc xảy ra trong nhân gian, Ngài đều thấy nghe biết hết thảy.
Vậy lúc ấy đức Phật thấy gì?, Ngài thấy
thế gian: có nhiều người ác độc quá, mà họ không biết sẽ bị quả báo khổ về sau.
Ngài thương cho chúng sinh ngay từ khi đang tạo nghiệp ác, vì thương chúng sinh
đang khổ nơi Địa ngục, nên Ngài phóng ánh sáng từ bi cứu khổ cho vui chúng
sanh. Ngài phóng ánh sáng lên các cõi Trời và cõi người để cảnh giác phải xa lìa
lầm lỗi.
Thiết nghĩ, trong lần phóng ánh sáng ấy,
ngoài việc cứu khổ cho các chúng sinh ở Địa ngục và cảnh giác Trời Người, còn
có mục đích là bảo vệ hài nhi trong bụng người chết.
Tại rừng Thi Đà có vô số Trời, Người,
Thần, Quỷ, khi Đức Phật vừa tới nơi, Ngài lại liền phóng ánh sáng nữa, chiếu
khắp xung quanh, để làm gì? Đây là Ngài trải lòng từ bi giữa hàng Trời Người
Thần Quỷ ban điều không sợ hãi, ban điều lành.
Khi đang đốt xác chết, tự nhiên có hoa sen
mọc từ giữa bụng xác chết mọc lên, rồi trên đài sen có hài nhi ngồi ngay thẳng.
Về điểm kỳ đặc này, người không biết Phật
pháp không thể hiểu được sự nhiệm mầu, vì sự việc nằm ngoài sự suy nghĩ, trái
với Khoa học, chúng ta không thể giải thích được; nhưng chúng ta có thể hiểu
rằng các cõi siêu hình, thế giới vô hình như các vị Trời, Thần, Quỷ, Ma có thể
làm được một số việc mà chúng ta không thể làm, và chúng ta không thể hiểu tại
sao họ có thể làm được. Vì vậy việc hài nhi ngồi trong hoa sen từ trong bụng mẹ
đã chết, hoa mọc lên, là điều có thể xảy ra đối với cõi vô hình. Nói vô hình,
đây chỉ là đối với mắt con người bình thường mà nói, chứ chẳng phải đối với mắt
Phật, mắt của các vị có Thiên nhãn, mắt của chư Thiên, Thần, Quỷ; vì các cõi ấy
đang hiện diện, nhưng với mắt người bình thường chúng ta không thể nhìn thấy họ
được, nên nói thế giới siêu hình, cõi vô hình là vậy.
Những điều khó hiểu ấy, chúng ta lấy thí
dụ về ảo thuật là tầng bậc thấp; trong Đại Tạng Kinh thỉnh thoảng có nêu ra khi
đức Phật còn tại thế, có Bà La Môn thấy Ngài hiện thần thông nên khen ngợi Ngài
làm ảo thuật hay, Ngài liền quở người ấy rằng Ngài không làm ảo thuật và Ngài
bảo người ấy phải bỏ tà kiến ấy. Ngày nay, chúng ta đã thấy có người làm ảo
thuật như chui qua cửa kính, đi trên mặt nước, đi trên không v.v…trước mắt
nhiều người; chẳng ai hiểu tại sao họ làm được như vậy, như thế thì những việc
xảy ra nói trong Kinh chúng ta chẳng nên nghi ngờ.
Cũng vì sự đố kị của Ni Kiền ngoại đạo đối
với đức Phật, nên ông ta đã tìm cách chỉ bảo cho Trưởng giả Thiện Hiền không
nhận đứa bé. Sự từ chối ấy cũng là “số” đứa bé sung sướng, không bị khổ chết,
tại sao? Vì nếu Trưởng giả Thiện Hiền nhận đứa bé đem về nuôi, sau đó Ni Kiền
Đà mới gièm pha, sẽ làm người cha ác ấy tìm cách giết đi, sẽ khổ cho đứa bé.
Nhưng đó chỉ là bàn cho có chuyện, chứ một đứa bé có phước báu, khó mà hại được
vậy.
Đứa bé thực sự có phúc, nên đã được Vua
nhận nuôi chứ không phải là thanh thiếu niên Thọ Mạng, vì được Vua nhận nuôi,
nên Quang Minh có tới 8 bà Mẹ chứ không phải một Mẹ. Trong đời có ai được như
thế không? Thông thường, chỉ có cha mẹ và một hai người giúp việc thôi, còn
Quang Minh có tới tám bà Mẹ luân phiên ngày đêm nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy bảo,
đó là người có đại phước mới được như vậy.
3)- DUYÊN NỐI CHA CON:
Mẹ ruột của Quang Minh có một người anh
ruột đi buôn bán xa nhiều năm không về, một hôm nghe người ta nói: về chuyện
người em gái đã chết và người cháu được Vua nuôi dưỡng như thế. Người ấy bèn
thu xếp công việc để trở về, và đến gặp người em rể Thiện Hiền, khi gặp, ông
liền nói:
–
Việc Chú làm là sai trái tội lỗi, em gái tôi làm sao chết, tôi đã biết rõ, Chú
tin theo lời gièm pha đố kị của Ni Kiền Đà nên muốn giết con mà hại vợ; Quang
Minh có oai đức lớn nên ngồi trong hoa sen từ lửa mà ra, lại có phúc báu nên
được Vua chăm sóc dạy dỗ.
Nay Chú phải đến xin Vua đem con về nuôi
để bớt phần nào tội lỗi Chú đã làm, nếu Chú không làm, tôi sẽ đi cùng khắp
thành này nói cho mọi người biết việc làm ác của Chú. Chẳng những mang tiếng
xấu mà còn bị vào tù, lúc ấy Chú có hối cũng không còn kịp nữa; cứ tự tính lấy
thân phận của Chú đi, tôi không cần nói nhiều lời nữa, nói rồi, người Anh vợ bỏ
ra về.
Thiện Hiền nghe người Anh vợ nói xong,
lòng sinh buồn não, nghĩ rằng: “Như Anh nói không phải sai, nếu ta không làm theo
lời, sẽ bị xấu hổ nhục nhã hơn muôn phần”. Nghĩ rồi, liền đến cung xin được yết
kiến Vua, khi được gặp, bèn quỳ gối cung kính tâu:
–
Thưa Đại Vương! Tôi quá hồ đồ đã từ chối nhận con Quang Minh, Ngài thật cao cả
nên đã mang Quang Minh về cung cho người chăm sóc dạy dỗ cho đến khôn lớn; bây
giờ nghĩ ra lỗi của việc hồ đồ ấy, nên đến xin Đại Vương cho phép tôi được đưa
Quang Minh về nhà cho có cha con đoàn tụ gia đình.
Vua bảo:
–
Trưởng giả! Ta sẵn sàng trao Quang Minh lại cho Ông, nhưng do Thế Tôn giao phó
cho ta. Nếu muốn đưa Quang Minh về nhà, Ông phải đến thưa với đức Thế Tôn, nếu
Ngài cho phép, Ông sẽ được toại lòng.
Trưởng giả Thiện Hiền liền vái chào Vua
rồi rời khỏi cung, đi đến chỗ đức Phật. Khi gặp, vái lễ rồi thưa:
–
Con có người Anh vợ ở xa về bảo: “Con đã làm việc ác, rồi không nhận con của
mình để Vua phải nuôi trong bấy lâu nay, nếu không đem Quang Minh về nhà, người
Anh này sẽ tố cáo việc làm ác trước mọi người. Do đó, con nghĩ đến tội lỗi đã
gây ra và không muốn tiếng xấu, nên con đã đến cung Vua xin cho Quang Minh được
về nhà. Nhưng Vua bảo con phải đến xin Ngài chấp thuận trước mới được. Vậy xin
Ngài xót thương con, chấp thuận cho Vua giao Quang Minh lại cho con”.
Đức Phật biết việc này rồi nghĩ: “Nếu
người này không làm được việc này, ông ta có thể khổ não đến thổ huyết mà
chết”, Ngài vì đại từ đại bi thương xót chúng sinh, liền bảo Trưởng giả:
–
Trưởng giả, Ông sẽ được toại nguyện, và cứ ra về, Ta sẽ cho người đến nói với
Vua.
Trưởng giả liền vái lạy, rồi lui về, Đức
Phật liền bảo Tôn giả A Nan Đà là Thị giả của Ngài rằng:
–
A Nan! Ông đến cung Vua nói như lời của Ta:
“Như Lai hỏi Đại Vương có được khỏe không? Nay Trưởng giả Thiện Hiền đến xin
lại Quang Minh, nếu không được, lòng bị ép buồn khổ sẽ thổ huyết mà chết, vì
vậy, Vua nên trao Quang Minh lại cho Trưởng giả Thiện Hiền, đó là lời Phật
dạy”.
Tôn giả A Nan Đà vâng lời Phật, liền đến
cung Vua, sau khi chào hỏi xong, Tôn giả nói y như những lời Phật đã dăn bảo.
Vua Tần Bà Sa La vâng lời đức Phật, liền
cho người đi triệu Trưởng giả Thiện Hiền, khi tới nơi, Vua bảo:
–
Trưởng giả, Quang Minh được giữ gìn, nuôi dưỡng, dạy dỗ trong cung từ đã lâu,
tám bà Mẹ chăm sóc mọi mặt. Lòng tôi thương yêu Quang Minh hơn cha con, tuy
vâng lời đức Thế Tôn trao lại cho Ông, nhưng Ông cũng sẽ như tâm ý của ta, mỗi
ngày đưa Quang Minh vào cung, vì ta muốn gặp mặt cho đỡ nhớ.
Trưởng giả tâu Vua:
–
Tôi vâng lệnh, không dám trái lời Vua, xin Vua đừng nghi ngờ.
Vua Tần Bà Sa La cho Quang Minh các thứ
vàng bạc, châu báu và con voi lớn để cưỡi và người hầu làm bạn đưa đến nhà
Trưởng giả. Từ đó, hàng ngày Trưởng giả dùng con voi ấy để đưa Quang Minh đến
cung Vua, Vua đích thân xem kỹ, hỏi han, trò chuyện hàng ngày với Quang Minh.
Ít lâu sau Trưởng giả Thiện Hiền bệnh rồi
chết, Quang Minh làm chủ gia trang, tin theo Tam Bảo (Phật, Pháp, Tỳ Kheo);
Quang Minh biết người cha đã tạo tội ác, nên thường vì cha làm phúc, bố thi,
cúng dường đầy đủ.
LỜI BÀN:
Nhân duyên do người Anh vợ khiến cha con
đoàn tụ, cũng do lòng từ bi của đức Phật, và sự khéo léo của Vua, nên người cha
Thiện Hiền và người con Quang Minh cởi bỏ được sự xa cách mười tám năm dài suốt
từ ngày chào đời tới ngày trưởng thành; nhưng đây cũng là nhịp cầu nối tiếp gia
tài của Quang Minh đối với gia đình ông vậy.
Có một điểm cần để ý, đó là việc người cha
xin người con trở về, đối với đức Phật không có nghi ngờ, vì Ngài biết rõ tâm
chúng sanh; nhưng Vua Tần Bà Sa La vẫn còn nghi đối với người cha, nên Vua đã
ra điều kiện mỗi ngày phải đưa Quang Minh đến gặp mặt. Thậm chí Vua bắt phải
đưa Quang Minh mỗi ngày 3 lần đến cung Vua! Người viết xin phép đã đơn giản bớt
xuống mỗi ngày còn có một lần, như vậy, chứng tỏ Vua còn nghi ngờ người cha của
Quang Minh vậy.
4)- BÁT BÁU:
Bấy giờ có một khách buôn trước kia là bạn
cũ của Trưởng giả Thiện Hiền ở phương xa về nghe những chuyện về Thiện Hiền làm
ác thì thương thầm cho bạn; lại nghe chuyện về Quang Minh liền vui mừng, nên
sai người mang một cái bát lớn bằng gỗ Đầu Chiên Đàn chứa đầy báu vật đem đến
biếu Quang Minh.
Trưởng giả Quang Minh nhận bát rồi, đọc
câu Thần chú ủng hộ cho người tặng, xong lại nghĩ: “Bát này nên biếu tặng cho
ngưòi có oai lực Thần thông”. Nghĩ rồi, liền mang bát ra ngoài thành Vương Xá,
Trưởng giả Quang Minh cho trồng một cây trụ lớn bên đường, rồi trang sức dây
lụa, treo phướn và cái bát báu ở trên đầu cột. Các ngoại đạo đi ngang qua thấy
vậy hỏi:
–
Ông treo cái bát trên đầu cột trụ để làm gì?
Trưởng giả Quang Minh đem nguyên nhân nói
lại, và bảo:
– Người nào có oai lực Thần thông sẽ nhận bát
ấy.
Các ngoại đạo nói:
–
Các Sa Môn Thích tử có thể lấy bát ấy.
Nói rồi bỏ đi, sau đó, một số Tỳ Kheo đi
tới cũng hỏi giống như thế, và Trưởng giả cũng trả lời tương tư. Các Tỳ Kheo
nói:
–
Trưởng giả, bát ấy, chúng tôi không thể nhận, nên đem dâng đức Thế Tôn để thêm
lợi lớn.
Các Tỳ Kheo nói rồi theo đường của họ đi
khỏi, lúc ấy Tôn giả Thập Lực Ca Diếp đi đến chỗ ấy, Tôn giả cũng hỏi và cũng
được trả lời tương tự. Nghe rồi, Tôn giả nghĩ: “Trước kia người cha làm ác vì
nghe lời ngoại đạo, nay người con làm việc lành, ta không nên bỏ bát này, ta
nên hiện sức Thần làm cho Quang Minh được tròn đầy chi nguyện”. Nghĩ xong, Tôn
giả Thập Lực Ca Diếp dùng Thần lực duỗi cánh tay chỉ trong khoảnh khắc, lấy bát
ấy đem về chỗ minh.
Các Tỳ Kheo thấy Thập Lực Ca Diếp mang bát
báu, liền hỏi:
–
Tôn giả, Ngài được bát này ở đâu?
Tôn giả đem việc trước nói lại, các Tỳ
Kheo lại hỏi:
–
Tôn giả, Ngài vì bát này mà hiện Thần lực, như vậy có đúng nghi pháp không?
Tôn giả đáp:
–
Ví như nghi pháp, không như nghi pháp. Ta đã làm rồi, vậy biết làm sao đây?
Khi ấy, các Tỳ Kheo đem việc ấy thưa đức
Phật. Ngài bảo:
–
Nếu không đúng lúc, không đúng nơi, không lợi ích, không được hiện tướng Thần
lực, hiện không đúng pháp sẽ sinh lỗi lầm.
Bấy giờ, đức Phật dùng Thần lực hóa ra bốn
bát:
1- Bát bằng vàng,
2- Bát bằng bạc,
3- Bát bằng lưu ly,
4- Bát bằng pha lê.
Ngài hóa bốn bát rồi, lại hóa ra bốn bát
nữa, đó là:
1- Bát thứ nhất bằng đá hoa cương (granite),
2- Bát thứ hai bằng đồng đỏ (copper),
3- Bát thứ ba bằng đồng thau (brass),
4- Bát thứ tư bằng gỗ quý.
Hóa xong, Ngài hóa hiện 8 bát thành hàng ở
một chỗ, trong mỗi bát có đầy thức ăn thơm ngon hảo hạng, các Tỳ Kheo tùy ý mà
lấy, nhận thức ăn. Xong, Ngài thu Thần lực, các bát biến mất.
LỜI BÀN:
Đoạn Kinh trên cho chúng ta thấy Trưởng
giả Quang Minh là người nhân hậu, làm phước để cứu cha đã gây tội lỗi, tới lúc
ấy, danh truyền về Trưởng giả Quang Minh đã lan xa, nên được nhiều người biết
tiếng; đã làm phúc lại không có tâm tính toán tham lam, nên khi nhận được bát
báu, Ông không giữ làm của riêng mà cầu mong tặng cúng dường bậc Hiền Thánh.
Chúng ta cũng thấy rõ rằng các tu sĩ ngoại
đạo không thể có Thần lực vì lối tu của họ chỉ có cầu nguyện nhờ tha lực (lực
bên ngoài) của Thánh Thần, nên không thể có Thần thông để làm bất cứ việc gì,
nên họ đã nói: “Trưởng giả, các vị Sa Môn
Thích tử thanh tịnh, có thể nhận bát kia, người không năng lực không thể kham
nhận”
Việc Tôn giả Thập Lực Ca Diếp (là vị trước
khi theo Phật tu hành, là người thờ Thần lửa, sau khi thấy đức Phật thâu phục
Rắn dữ và nhiều phép khác nên ông đã mang 500 đệ tử quy y Phật), đệ tử của đức
Phật dùng Thần lực lấy bát, sau bị các Tỳ Kheo cật vấn, nên Tôn giả nói rằng đã
làm rồi, không biết làm sao. Khi các Tỳ Kheo thưa với đức Phật về việc ấy, Ngài
bảo: “Dùng Thần lực phải đúng lúc, đúng
chỗ, được lợi ích mới đúng pháp”, không biết việc làm của Tôn giả Thập Lực
Ca diếp có đúng pháp không? Thiết nghĩ: “Tôn giả nên mang bát ấy đến cúng dường
đức Phật, hoặc xin Phật chỉ dạy, có lẽ tốt đẹp hơn vậy”.
Việc đức Phật hóa hiện ra 8 bát có đầy các
món ăn thơm ngon, chứng tỏ sự biến hóa của Ngài là vô cùng, muốn làm gì cũng
làm được, và chứng tỏ dù cái bát của Quang MInh là quý, nhưng đối với Phật
chẳng có cái gì gọi là quý vậy.
5)- HƯỞNG PHÚC TRỜI:
Bấy giờ tại nước Chiêm Bà có Bà La Môn Mạn
Ninh Đát Mộ, làm nghề mua bán, một hôm vợ bảo chồng:
–
Tiền bạc của Anh làm chỉ đủ tiêu dùng, không khá được, chẳng lẽ cứ như vậy mãi
sao, Anh nên đi mua loại sợi bông thứ thượng hảo hạng để em dệt thành vải đẹp
quý cho Anh đem bán sẽ có nhiều tiền.
Bà La Môn nghe lời vợ làm theo, người vợ ở
nhà sau một thời gian dệt được một tấm vải mềm mại đẹp đẽ không đâu có, liền
giao cho chồng đem bán với giá nghìn tiền vàng. Nhưng không ai trả đến giá ấy,
nên chồng bảo vợ rằng mình sẽ mang sang nước Ma Kiệt bán.
Khi Bà La Môn mang vải tới chợ thành Vương
Xá nước Ma Kiệt, cũng không có ai trả tới giá nghìn tiền vàng, Bà La Môn thấy
thế nói to lên rằng: “Thành Vương Xá này không có người nào biết giá trị tấm
vải tốt đẹp quý giá này”.
Lúc ấy, Trưởng giả Quang Minh cưỡi voi đi
ngang qua nghe nói như thế, bèn dừng voi, hỏi Bà La Môn:
-Ông nên nói rõ nguyên nhân, vì sao Ông nói lời chê bai thành này?
Bà La Môn nói:
–
Tôi từ nước Chiêm Bà đem hai tấm vải một mới một cũ quý giá này đến đây, nhưng
không ai biết giá trị của vải, nên không trả đúng giá của nó, giá mỗi tấm một
nghìn tiền vàng.
Trưởng giả Quang Minh nói:
–
Ông có thể đem đến nhà cho tôi xem.
Ba La Môn mang vải đi theo tới nhà. Trưởng
giả cầm vải đem lên lầu quăng vải xuống để xem vải nặng hay nhẹ, tốt xấu ra
sao, khi Bà La Môn thấy thế liền sinh lòng tôn trọng là người hiểu biết, nên
nói:
–
Trưởng giả, Ông có oai đức lớn, hai tấm vải cũ mới, tôi đều biếu ông, không lấy
giá ấy, Ông nên nhận lấy cho.
Trưởng giả nói:
–
Nhà tôi không nghèo, Ông đã vất vả đi xa, tôi không vô cớ nhận biếu của Ông,
nay tôi trả cho Ông mỗi tấm một nghìn tiền vàng.
Trưởng giả lấy tiền trả, Bà La Môn nhận
tiền, cám ơn Trưởng giả rồi ra về. Trưởng giả cho người giúp việc tấm vải cũ,
chỉ dùng tấm vải mới; sau đem giặt phơi nắng, khi ấy Vua Tần Bà Sa La đang chơi
ở sân cung điện ngắm cảnh, bỗng thấy tấm khăn ở đâu bay tới. Vua nhìn ngắm tấm
vải một lúc, rồi hỏi người tùy tùng:
–
Tấm khăn vải này ở đâu bay tới đây?, chỉ có người giàu có mới dùng loại vải đẹp
đẽ quý giá này.
Người tùy tùng thưa:
–
Tâu Đại Vương, có lẽ Trời ban tấm vải này cho Đại Vương đó.
Vua nói:
–
Ngươi không biết, ta nghe đức Thế Tôn thọ ký: “Quang Minh ở trong cõi Người
hưởng phước Trời”. Tấm vải đẹp quý này phải là của Quang Minh, gió bay đến đây,
mau đi mời Quang Minh tới đây ta muốn gặp.
Khi Trưởng giả Quang Minh vừa tới nơi, Vua
liền nói:
–
Quang Minh, trước kia đức Thế Tôn thọ ký cho con “ở cõi Người hưởng phúc Trời”.
Tấm vải đẹp quý này do gió bay đến đây, ta trả lại cho con.
Trưởng giả Quang Minh nhận vải nhìn kỹ
đúng là của mình, liền tâu Vua:
–
Đây là tấm vải dùng để choàng bên ngoài, con mới cho giặt phơi nắng, gió bay
đến đây là đúng sự thật.
Vua nói:
–
Con hưởng phước Trời, lời Như Lai rõ ràng, việc tốt của con như vậy, sao không
mời ta đến chơi cho biết nhà con?
Trưởng giả tâu:
–
Con thật may mắn được thỉnh Vua tới nhà.
Vua nói:
–
Con nên về trước chuẩn bị.
–
Trưởng giả tâu:
–
Thưa Đại Vương, người hưởng phúc Trời. không cần làm mà tự nhiên có, mời Đại
Vương đi cùng.
Vua Tần Bà Sa La kêu người hầu đi theo
cùng đến nhà Trưởng giả, khi Vua đến cửa ngoài, thấy có người con gái đẹp đẽ,
liền dừng lại. Trưởng giả nói:
–
Vì sao Đại Vương dừng lại?
–
Ta thấy vợ của con nên dừng lại.
–
Đây là người hầu gái giữ cửa ngoài, không phải vợ con.
Đi đến cửa giữa, cũng tương tự như thế,
Vua tiếp tục đi, rồi thấy óng ánh nước trước mặt, Vua dừng lại, Trưởng giả hỏi:
–
Sao Đại Vương không tiếp tục đi.
–
Ta thấy cái ao trước mặt, có cả cá đang bơi, làm sao đi được?
–
Thưa Đại Vương, nơi đây không có ao nước, chỗ đất này bằng báu Ma Ni óng ánh
phản chiếu nên thấy như vậy.
Vua liền rút chiếc nhẫn đang đeo nơi tay
ra, ném xuống phát ra tiếng, Vua mới tin là thật.
Vào nhà rồi, Vua ngồi trên tòa Sư tử, vợ
Trưởng giả ra vái chào Vua, và đang nói chuyện với Vua, bỗng nhiên chảy nước
mắt, rồi cáo từ vào trong. Vua hỏi Trưởng giả:
–
Quang Minh! Vì sao vợ con thấy ta lại khóc?
Trưởng giả thưa:
–
Đại Vương, vợ còn bái chào Ngài, đâu có khóc, vì Đại Vương mặc áo có hơi khói
củi sưởi ấm tại cung, nên mắt vợ con bị cay mà chảy nước mắt; tâu Đại Vương, ở
đây vì hưởng phúc Trời, nên muốn ăn uống gì đều được như ý muốn, các thứ đều tự
nhiên hiện ra cả, mong Đại Vương tự nhiên.
Vua ở trong nhà Trưởng giả quên cả ngày
giờ, Quần Thần thấy Vua lâu không về, liền đến gặp nhờ Thái tử A Xà Thế đến nhà
Trưởng giả thỉnh Vua về lo viêc nước bề bộn. Thái Tử đến nhà Trưởng giả tâu
Vua:
–
Sao Phụ Vương không trở về cung?, vì chính sự bị bỏ phế.
Vua bảo Thái tử:
–
Ta mới đến đây chưa được bao lâu, mới có một hai ngày, Ngươi há không giải
quyết công việc được sao?
–
Phụ Vương nên biết, đã ở trong nhà này 7 ngày rồi.
Vua nghe nói thế, nhìn Trưởng giả hỏi:
-Có thật vậy không?
Trưởng gia thưa:
–
Đúng vậy Đại Vương, đã qua 7 ngày rồi.
Vua hỏi Trưởng giả:
–
Con xem hiện tượng gì để phân biệt ngày đêm ở đây?
Trưởng giả đáp:
–
Con xem hoa khép, hoa nở để phân biệt này đêm, cũng nghe tiếng chim hót, cũng
xem ánh sáng Ma Ni báu hiện hay ẩn để phân biệt ngày đêm.
Vua nghe rồi, bảo Trưởng giả:
–
Ta tin lời đức Như Lai chân thật không hư dối, con ở trong loài Người hưởng
phước Trời, việc này loàn toàn thật.
LỜI BÀN:
Cũng là “cái số” Trưởng giả Quang Minh
được dùng tấm vải tốt quý, nên đã khiến gặp được Bà La Môn Mạn Ninh Đát Mộ. Lại
“số không mất của”, nên khiến gió bay vải ấy đến trước mặt Vua, nếu gió bay vải
đến chỗ khác thì đã mất rồi. Kể cũng lạ! Nói “số” chứ chẳng phải số, chẳng phải
may rủi, mà là “nhân duyên”, “nhân quả” tạo nên vậy.
Khi Vua Tần Bà Sa La muốn đến thăm nhà
Trưởng giả Quang Minh để xem lời thụ ký của đức Phật thực hư thế nào. Trong
Kinh chỉ nói sơ qua một vài điều, chúng ta được biết cảnh sống của cõi Trời quả
là đẹp đẽ quý hóa khác xa lối sống bon chen dành giật, có đủ thứ tính hư tật
xấu của cõi Người; đúng là một trời một đất, khác xa nhau như trời với đất vậy.
Bởi vậy, Vua ở 7 ngày rồi mà tưởng rằng
mới chỉ ở có một hai ngày thôi, điều này chứng tỏ chư Thiên dù có đời sống rất
lâu dài so với cõi Người, nhưng vì sự hưởng lạc sung sướng làm cho quên đi ngày
tháng, quên thời gian trôi nhanh, đến khi qua đời mới thấy quá ngắn ngủi.
Sau chót của đoạn Kinh trên, có một nhân
vật mới xuất hiện, đó là Thái tử A Xà Thế, chúng ta tiếp tục theo dõi đoạn Kinh
sau đây để xem nhân vật này hành xử ra sao?
6)- NGƯỜI GIAN ÁC:
Nói xong, Vua Tần Bà Sa La ra về. Thái tử
A Xà Thế lúc sắp theo Vua ra về, lén lấy một hạt châu Ma Ni đưa cho tùy tùng
giữ. Khi về cung, Thái tử hỏi người giữ hột châu ấy, người ấy mở bàn tay ra,
nhưng không còn, hạt châu biến mất lúc nào không biết, Thái tử A Xà Thế bèn
đánh đập người ấy.
Trưởng giả Quang Minh vì được hưởng phúc
Trời nên hiểu biết việc ấy, nên vào cung hỏi Thái tử:
–
Sao Thái tử lại đánh đập người tùy tùng của mình như vậy?
Thái tử đáp:
–
Lúc sắp từ nhà Trưởng giả ra về, tôi lén lấy một hột châu đưa cho hắn cầm, khi
về đây tôi hỏi, hắn nói không còn; tôi đã lấy trộm, hắn còn trộm lại, nay bỗng
mất đi, nên phải đánh đập.
Trưởng giả nói:
–
Thái tử lấy châu của tôi không gọi là trộm, vì sao? Vì hạt châu ấy đã trở lại
nhà tôi, chỉ có người được hưởng phúc Trời mới dùng được thôi, nếu Thái tử muốn
điều gì, tôi sẽ biếu tặng không tiếc đâu.
Thái tử A Xà Thế sinh lòng nghi ngờ lời
nói của Trưởng giả Quang Minh, Thái tử bèn nghĩ: “Hiện ta chưa muốn lấy gì cả,
sau khi cha ta chết, ta mới cần tài sản báu vật”.
Sau đó ít lâu, Thái tử A Xà Thế nghe lời
Đề Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt Đa là con Ông Chú của đức Phật, A Xà Thế ra lệnh bắt
Vua cha giam giữ không cho ăn và ra lệnh cho người giết cha mình. Sau khi hại
Vua cha, A Xà Thế cho triệu Trưởng giả Quang Minh đến và nói:
–
Trưởng giả là Anh ta, ta muốn đến nhà Ông, và hễ có chỗ nào cần, Ông nên cung
cấp cho ta.
Trưởng giả nghĩ: “Người này hung ác bạo
ngược, giờ ở trước ta nói lời kiêu căng ngã mạn. Muốn ở nhà ta cũng nên thuận
theo, nếu trái ý, người này sẽ nhân đó mưu hại gia tộc quyến thuộc của ta”.
Nghĩ rồi đáp rằng:
–
Đại Vương, tôi biết ý Ngài mong muốn, mong Ngài đến nhà tôi, hễ cần gì tùy ý
lấy dùng, tôi sẽ vào cung Vua ở.
Vua A Xà Thế nói:
–
Nếu được như vậy rất tốt.
Khi Vua A Xà Thế đến nhà ở, Trưởng giả
liền vào cung Vua. Vì Trưởng giả có phúc Trời, nên đi đến nơi nào, các kho báu
đi theo tới đó. Vua A Xà Thế thấy kho báu xuất hiện rồi biến mất, như thế 7
lần, nên Vua không ở đó nữa, bèn trở về cung, Trưởng giả thấy thế, liền trở về
nhà mình.
Sau Vua cho người đem xe đến nhà Trưởng
giả lấy trộm trân bảo, những người này bị những người hầu của Trưởng giả phát
giác chế riễu, nên cảm thấy nhục nhã, trở về tâu Vua. Sau Vua sai người đến nói
với Trưởng giả:
“-
Vì sao Trưởng giả khinh chê người đến lấy trân bảo như thế?”
Trưởng giả biết ý Vua, liền đuổi đi các
người ấy, Trưởng giả nghĩ: “Vua A Xà Thế rất ác, giết hại Phụ Vương, có thể làm
việc ác hại này đối với ta”. Nghĩ rồi, Trưởng giả nhớ lời đức Phật đã nói trước
kia: “Ở trong loài Người hưởng phúc Trời, Ở trong pháp Phật xuất gia học đạo,
dứt các phiền não, chứng A La Hán. Ta nên xuất gia bây giờ là đúng lúc, nếu
không sẽ không kịp nữa”, nghĩ rồi, liền sắp xếp mọi việc, đem kho báu làm việc
từ bi bố thí lợi ích chúng sinh. Xong âm thầm đến chỗ đức Phật, cúi lễ rồi
thưa:
–
Xin đức Thế Tôn cho con được xuất gia, ở trong giáo pháp thụ cụ túc giới, làm
Tỳ Kheo tu phạm hạnh (khuôn phép).
Đức Phật bảo:
–
Lành thay, hãy vào trong giáo pháp của Ta, siêng tu phạm hanh.
Lúc đức Phật vừa nói xong, râu tóc Quang
Minh tự nhiên rụng sạch, thành tướng Tỳ Kheo, thân mang áo Tăng Già Lê, tay
bưng bình bát.
Đức Phật dạy cách tu, Tỳ Kheo Quang Minh
thu nhận đầy đủ. Qua 7 ngày đêm, tâm trụ trong chính niệm, tịnh tu phạm hạnh,
đủ phép tắc oai nghi như bậc Trưởng lão, các căn tịch lặng, nhất tâm chánh trụ,
Đức Phật thấy thế đem áo Tăng Già Lê của Ngài che lên đỉnh đầu Tỳ Kheo Quang
Minh.
Tỳ Kheo Quang minh quán chiếu xem xét các
đường sinh tử luân hồi xoay vòng không lúc nào ngừng, thấy rõ bốn đế, xa lìa phiền não, chứng quả A La
Hán, đầy đủ ba Minh sáu Thông, rồi bay lên đi trên hư không,
tự tại như ý, chư Thiên đều đến cúng dường.
LỜI BÀN:
Khi nói đến Vua A Xà Thế, trong Kinh Quán
Phật Vô Lượng Thọ kể rằng:
“Khi
đức Phật du hóa tại núi Kỳ Xà Quật nước Ma Kiệt, bấy giờ Thái tử A Xà Thế thuận
theo lời bảo của Đề Bà Đạt Đa, nên âm mưu giết Vua cha Tần Bà Sa La để chiếm
ngôi, nhưng việc bị bại lộ, A Xà Thế bị bắt quả tang. Vua Tần Bà Sa La hiệu
Bình Sa Vương là người Phật tử đầy lòng nhân từ, không những không xử phạt A Xà
Thế như quần Thần đề nghị, mà còn nhường ngôi cho con vì thấy con thèm muốn làm
Vua quá.
Để trả ơn, Thái tử A Xà Thế vừa lên ngôi
xong, liền ra lệnh hạ ngục cha, nhốt trong ngục tối 7 tầng cửa, không cho ăn
cho chết dần, cấm các Quan không ai được vào, trừ Hoàng Thái Hậu được vào thăm.
Hoàng Thái Hậu tên Vi Đề Hi thương Vua,
nên mỗi khi đi thăm, Bà giấu thức ăn trong túi áo, xách tay đem Vua ăn, A Xà
Thế hay được trách mẹ. Sau Bà dùng kế hoạch khác, Bà tắm rửa sạch sẽ, lấy tô,
mật, và mì sợi trét lên thân, trong hột chuỗi đeo đựng nước nho, Bà đi vào thăm
Vua, kín đáo dâng Vua.
Vua ăn uống rồi chắp tay cung kính hướng
về núi Kỳ Xà Quật lễ lạy đức Phật mà nói rằng: “Xin Thế Tôn chấp thuận cho Tôn
giả Đại Mục Kiên Liên là thân hữu của tôi, nguyện từ bi truyền thọ Bát Quan
Trai Giới cho tôi”
Lúc đó, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên như chim
bay mau đến chỗ Vua truyền thụ Bát Quan Trai Giới cho Vua, ngày ngày đều như
vậy; Đức Phật cũng sai Tôn giả Phú Lâu Na đến thuyết pháp cho Vua nghe.
Thời gian trải qua 21 ngày, A Xà Thế hỏi
người giữ cửa ngục: “Hôm nay Phụ Vương ta vẫn còn sống ư?” Người giữ ngục tâu
việc xảy ra như thế, nên chẳng thể cấm được, A Xà Thế giận mẹ mình tìm gặp rồi
la lên: “Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc giúp giặc, Sa Môn ác nhân dùng chú
thuật huyển hoặc khiến ác Vương nhiều ngày chẳng chết” A Xà Thế bèn cầm gươm
muốn chém người mẹ.
Lúc ấy, có đại Thần Nguyệt Quang là người
thông minh, nhiều trí cùng với Vương tử Kỳ Bà đến vái Vua và tâu: “Thưa Đại
Vương, chúng thần nghe nói từ Tỳ Đà Luân Kinh nói từ sơ kiếp đến nay, có ác
Vương vì tham ngôi giết cha đến một vạn tám nghìn, chưa từng nghe nói có kẻ vô
đạo hại mẹ. Nếu Đại Vương làm sự sát nghịch ô uế dòng Sát lợi, chúng thần chẳng
dám nhìn. Chúng tôi chẳng nên ở lại đây nữa, nói rồi, hai người vỗ tay lên kiếm
rồi lui đi.
A Xà Thế kinh sợ, bảo Vương tử Kỳ Bà: “Còn
Anh cũng chẳng vì ta chăng?”
Kỳ Bà nói: “Đại Vương nên cẩn thận, chớ có
hại mẹ”.
A Xà Thế nghe lời ấy biết lỗi, liền bỏ
gươm không hại mẹ mình nữa, rồi truyền lệnh cho nội Quan nhốt mẹ trong thâm
cung, không cho ra; Bà Vi Đề Hi bị nhốt sầu lo tiều tụy, Bà hướng về núi Kỳ Xà
Quật lễ lạy Phật mà nói: “Đức Thế Tôn oai trọng không sao thấy được, cúi xin
Thế Tôn cho hai Tôn giả Đại Mục Kiền Liên và A Nan Đà đến cho tôi được thấy”
Nói rồi lễ lạy nữa, khi ấy đức Phật bảo hai Tôn giả đi cùng, Ngài dùng Thần
biến đưa hai Tôn giả vào cung.
Nhân dịp này, Bà Vi Đề Hi thưa Phật về sự
quá khổ sở của gia đình mình, quá chán ngán cõi ô trọc Sa Bà này. Bà thỉnh Phật
được đến nơi nào an tịnh không có kẻ ác, không có ba đường ác, được mọi sự tốt
lành. Do đó đức Phật đã hiện thần lực làm cho Bà thấy được các cảnh thanh tịnh
của vô số cõi Phật trang nghiêm. Và sau cùng Ngài bảo Bà hãy chọn cõi A Di Đà,
rồi Ngài nói 16 phép quán tưởng và nói cách thực hành cho bà thực hành. Đó là
“Kinh Quán Phật Vô Lượng Thọ”
Đức Phật cũng dùng Thần lực từ miệng Ngài
phóng ra ánh sáng ngũ sắc đến đỉnh đầu Vua Tần Bà Sa La. Dù bị giam cầm trong
ngục tối, tâm nhãn Vua không chướng ngại, xa thấy đức Phật, đầu mặt lễ Phật, tự
nhiên tăng tiến đạo lực đạt quả Tu Đà Hoàn là bậc thứ nhất của Tứ Thiền.
Bình Sa Vương cam chịu đói, nhưng lòng
không oán trách con, vì đã chứng nghiệm bậc thứ nhất, nên Vua vẫn vui vẻ, an
nhiên không buồn phiền. A Xà Thế được tin: Vua cha vẫn bình thản, nên nhất định
giết cho khuất mắt, bèn hạ lệnh cho người thợ cạo (hớt tóc cạo mặt) vào trong
ngục.
Khi người thợ cạo vào khám, người cha thấy
người thợ cạo đến thì mừng thầm rằng con mình đã biết lỗi, cho người thợ cạo
đến cắt râu tóc cạo mặt để rước về!
Trái với sự ước đoán của Ngài, người thợ
cạo đến, trói Vua lại, lấy dao sắc bén gọt gót chân Vua cha, sát dầu muối vào,
rồi hơ trên lửa nóng cháy cho đến chết! Một cái chết vô cùng thê thảm của một
người cha đáng kính đáng thương!
Cùng ngày ấy, vợ A Xà Thế sinh một hoàng Nam,
con trai. A Xà Thế vui mừng sung sướng. Tình thương của người cha đối với con
tràn đầy. A Xà Thế cảm thấy vậy rồi sực nhớ tới người mẹ bị nhốt trong cung,
liền vội đến gặp hỏi:
–
Mẫu hậu, khi con còn nhỏ xưa kia, phụ Hoàng có thương yêu con không?
–
Tại sao lại hỏi lạ vậy? Mẹ nghĩ trên thế gian này không tìm đâu ra người cha
lành như cha con, để mẹ kể:
Lúc mẹ mang thai con, mẹ thèm mút vài giọt
máu ở bàn tay của cha con, mà mẹ không dám nói ra. Rồi càng ngày mẹ càng xanh
xao, càng ngày mẹ càng thèm mút máu ở tay cha con hơn, và sau cùng phải thú
nhận nói với cha con. Khi cha con nghe rồi vui vẻ lấy dao cắt tay cho mẹ mút
máu. Lúc ấy, các nhà chiêm tinh biết việc ấy nên nói: “Con sẽ là người thù của
cha con”, và vì vậy tên con là A Xà Thế (Ajatasattu, có nghĩa là kẻ thù chưa
sinh). Mẹ có ý định: giết con ngay từ khi còn trong bụng, nhưng cha con không
cho; khi sanh con ra, mẹ lại một lần nữa muốn giết con, một lần nữa cha con cản
mẹ.
Rồi một hôm, lúc con còn bé mới có vài ba
tuổi, con có cái nhọt trên đầu ngón tay, nhức nhối vô cùng, con khóc suốt ngày
đêm, thuốc men đủ cả cũng không khỏi. Cha con đang cùng bá Quan lo việc nước,
nghe con khóc cầm lòng không được, đến bế con trong lòng, và không ngần ngại
ngậm ngón tay có nhọt ấy nhè nhẹ mút cho con đỡ đau nhức. Đột nhiên cái nhọt vỡ
bể ra, máu mủ tuôn ra trong miệng cha con, lại sợ lấy tay ra con sẽ đau, nên
cha con nuốt luôn máu mủ ấy! Thật là gớm thay! Thật là cha con thương con đến
thế là cùng, có ai thương con được như cha con không?
Nghe đến đó, A Xà Thế đứng phắt dậy, kêu
lên như điên: “Hãy chạy mau, thả ra lập tức người cha yêu quý của ta”.
Nhưng than ôi! Người cha ấy đã ra người
thiên cổ trong cùng ngày, chỉ vài giờ đồng hồ trước đó mà thôi!
Chỉ khi nào làm cha mới biết được tình cha
thương con như thế nào vậy.
— :: —
Lại nói về Quang Minh, vì nhận thấy ác
tính của A Xà Thế thật là nguy hiểm, vả lại Trưởng giả Quang Minh đã nhận chân
lời Phật nói trước kia là đúng; lại là người biết suy nghĩ nên Quang Minh đã nhận
ra ngay lúc ấy là đúng thời nên đã sắp đặt mọi việc rồi xuất gia.
Khi Quang Minh tu hành, tới lúc: “thấy rõ Tứ Đế, xa lìa phiền não, chứng quả A La Hán, đầy đủ Tam Minh, Lục
Thông, rồi bay lên đi trên hư không, tự tại như ý, chư Thiên đều đến cúng
dường”.
Thế nào là Tứ Đế? Là bốn Thánh Đế, gồm: Khổ Thánh Đế (Khổ Đế), nguyên
nhân gây ra Khổ (Tập Đế), cách Diệt Khổ (Diệt Đế), và con đường Đạo quả (Đạo
Đế).
Thế nào là Tam Minh? Là Ba Minh mà người đạt đạo có được, đó là:
1-
Túc Mệnh Minh là biết các tiền kiếp của mình và của các người khác.
2-
Sinh Tử Minh là biết rõ chúng sinh chết do nghiệp gì, sinh do quả nào.
3-
Lậu Tận Minh: là biết rõ ô nhiễm của mình chấm dứt như thế nào.
Thế nào là Lục Thông? Là sáu Thần thông, chính ra phải nói bảy Thần thông,
gồm:
1- Thần Túc Thông: Là biến hóa một thân thành nhiều thân, hay
hợp nhiều thân làm thành một thân, biến hóa lớn nhỏ, hóa hiện vô cùng. Không bị
trở ngại bởi vách tường gạch đá sắt thép, có thể đi vào vách đá như đi chỗ hư
không, đi vào núi đất như đi trong nước; đi trên nước như đi trên đất bằng,
ngồi kết-già mà bay trong hư không giống như chim bay. Hiện thân cao lớn đến
cõi Trời Phạm-Thiên, dơ cánh tay ra sờ tới mặt trời, có đại như-ý-túc, có đại
oai đức, có đại oai thần như thế.
2- Thiên-nhãn thông:
Trông thấy
rất xa, ví như một người đứng trên lầu cao trong một ngày nắng nhìn xuống một
khoảng đất rộng có một nghìn gò đống rõ ràng. Nhìn lên trời cao chỉ trong chốc
lát thấy cả nghìn, vạn, ức thế-giới rất xa rõ ràng. (Có lẽ: còn rõ hơn kính thiên
văn rất nhiều). Có thể dùng Thiên nhãn thông để thấy người khác ở rất xa (giống
như vô tuyến truyền hình ngày nay), xem xét những sự việc hiện tại sáng suốt vô
ngại.
3- Thiên-nhĩ thông:
Nghe được
tất cả âm (tiếng nói) của loài người dù xa tới vạn dặm (Giống như máy vô tuyến
truyền thanh ngày nay); dùng Thiên nhĩ để nghe người khác nói, hoặc nghe người
khác cầu cứu (giống như vô tuyến điện thoại ngày nay) từ rất xa.
4- Tha-tâm thông:
Biết được
các người khác suy nghĩ những gì, biết được người khác có tâm dục hay không tâm
dục, có giận hay không giận, biết người khác có tâm tham hay không tham, có tâm
thiện hay có tâm ác. Đứng trước người kia thấy rõ người kia suy nghĩ những gì,
thí dụ thấy người kia đang có ý muốn ăn trộm, hoặc đang có ý muốn giết người
v.v.., đều thấy rõ hết, nghiã là biết hết tâm niệm các chúng-sanh dù xa hay
gần.
5- Túc-mạng thông:
Nhớ vô số
kiếp về trước, một đời, hai đời, trăm đời, nghìn đời, thành kiếp, trụ kiếp,
hoại kiếp. Biết đã có tên thế này, sinh ở chỗ nọ, sống như vậy, chịu khổ được
vui như vậy, chết như vậy; biết kiếp thứ bao nhiêu chết ở đây, sinh ở chỗ kia.
Nhớ kiếp kế trước sinh ở đâu, tên gì, là trai hay là gái, làm nghề gì, vợ
(chồng) con thế nào, sống sung sướng hay khổ cực ra sao, sống thọ bao nhiêu
tuổi v.v… Nghiã là biết rõ ràng từng đời từng kiếp của mình cho tới vô lượng
kiếp về trước như thế.
6- Sinh-tử thông:
Thấy người
này người kia chết chỗ này, sinh chỗ nọ, có sắc đẹp sắc xấu. Thấy người này
sinh lên cõi Trời, kẻ kia bị đọa xuống Địa-ngục, kẻ nọ sinh lại làm người. Thấy
rõ một người khi sống hành động như thế nào, khi chết rồi phải sinh vào loài
súc sanh, cũng thấy rõ ràng một người lúc sống hành động như thế nào khi chết
rồi phải sinh vào loài Ngạ-qủy v.v… Tóm lại, thấy tất cả mọi người qua lại
chỗ lành chỗ dữ đều do nghiệp (mà họ đã tạo ra) dẫn dắt họ, ngoại trừ những vị
đã đạt Đạo rồi thì mới không bị nghiệp dẫn dắt và mới có phần tự do lựa chọn
chỗ đến mà thôi.
7- Lậu-tận thông:
Biết như
thật về khổ, khổ tập (nguyên nhân gây khổ), khổ diệt (cách diệt khổ), và khổ
diệt Đạo (con đường tiến tới Đạo), Biết như thật về lậu (các điều sai quấy), lậu
tập, lậu diệt, và lậu tập Đạo; tri (nghĩ biết) như vậy, kiến (thấy) như vậy nên
được tâm giải thoát dục lậu, được tâm giải thoát hữu lậu, được tâm giải thoát
vô minh lậu. Khi giải thoát liền biết là giải thoát, biết như thật rằng: “Sự
sinh đã hết, phạm hạnh đã thành lập, điều cần làm đã làm xong, không còn tái
sinh đời sau nữa” (Biết được mình giải thoát khỏi luân hồi sinh tử khổ cực trầm
luân), còn biết vọng lậu của người khác đã hết hay chưa.
7)-
TIỀN KIẾP CỦA QUANG MINH:
Khi ấy, các
Tỳ Kheo thấy các sự việc của Tôn giả Quang Minh khác thường, trước được hưởng
phúc Trời, sau xuất gia làm Tỳ Kheo mới có 7 ngày đã đắc quả A La Hán, nên đến
hỏi đức Phật nhân duyên thế nào mà được như vậy?
Đức Phật bảo:
– Cách nay 91 kiếp về quá khứ xa xưa, có Phật Tỳ Bà Thi
ra đời. Khi ấy có Vua Mãn Độ Ma dùng chính pháp cai trị nhân dân sung sướng
giàu mạnh. Trong thành có một Trưởng giả Tích Tài giàu có tin tưởng chánh pháp,
khi biết đức Phật và đại chúng Tỳ Kheo đến, ông đến nghe Phật giảng pháp. Nghe
xong ông liền chắp tay hướng Phật thưa:
“- Bạch Thế Tôn, nay con thỉnh Ngài và chúng Tỳ Kheo đến
nhà con, con xin cúng dàng ba tháng thức ăn uống, thuốc men, vật dụng đầy đủ,
xin Ngài từ bi nhận cho”.
Đức Phật Tỳ
Bà Thi im lặng nhận lời, lúc ấy Vua Mãn Độ Ma cũng nghe tin đức Phật đến thành
nước mình, liền nghĩ: “Ta muốn thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo để cúng dường trong
ba tháng”. Nghĩ xong, Vua liền đến chỗ đức Phật Tỳ Bà Thi, cúi lễ rồi ngồi
xuống nghe Phật giảng pháp, sau khi nghe xong, Vua đứng dậy nói:
“- Thưa Thế Tôn: Thỉnh Ngài và chúng Tỳ Kheo đến cung,
để con cúng dàng đầy đủ trong ba tháng, xin Ngài nhận lời cho.”
Đức Phật bảo:
“- Ta đã nhận lời thỉnh của Trưởng giả Tích Tài rồi.”
Vua Mãn Độ
Ma vái lạy Phật rồi trở về cung, Vua sai sứ đến nhà Trưởng giả Tích Tài truyền
lệnh Vua: “Ông nên biết, Vua vừa thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo đến cung thụ sự
cúng dàng, Ông nên cúng dường vào dịp khác; vả lại, Ông ở trong nước của Vua,
Ông nên để cho Vua thỉnh trước.”
Trưởng giả
nói:
“- Xin Ông về tâu Vua xót thương cho, tôi đã thỉnh Phật
và chúng Tỳ Kheo trước rồi, Phật đã nhận lời thỉnh rồi; còn nói tôi ở trong
nước của Vua phải để Vua thỉnh trước thật không đúng, xin Vua không nên gây trở
ngại việc thỉnh mời này.”
Sứ giả về tâu
Vua, Vua lại bảo sứ giả đến nói với Trưởng giả:
“- Giả thử như Trưởng giả đã thỉnh rồi, Vua cũng không
gây trở ngại, nhưng nếu Trưởng giả có thể làm thức ăn ngon, Phật sẽ tự đến.”
Trưởng giả
nghe nói thế, liền cho dùng củi gỗ thơm chiên đàn nấu thức ăn, các món ăn đều
ướp thơm ngon; sắp xếp, nấu nướng xong, liền sai người đến thưa thỉnh Phật đến
giờ thọ trai. Phật Tỳ Bà Thi cùng đại chúng Tỳ Kheo tới nhà thụ nhận sự cúng
dàng; thọ trai xong, đức Phật thuyết pháp cho Trưởng giả và gia quyến nghe,
xong Phật và đại chúng Tỳ Kheo ra về chỗ cư ngụ.
Lúc ấy, Vua
Mãn Độ Ma ở trong cung, muốn làm thức ăn ngon hơn Trưởng giả, nên bảo quần
Thần:
“- Ở trong cung ta, phi tần rất đông, người nào nấu được
thức ăn ngon cúng dường Phật, ta sẽ trọng thưởng.”
Một cận Thần
tâu:
“- Đại Vương nên tạm thời cấm bán củi, Trưởng giả sẽ
không có củi để nấu thức ăn cúng dàng Phật”
Vua liền ra
lệnh cấm bán củi, Trưởng gia nghe lệnh cấm bán củi sinh lòng tức giận nói:
“Trong nhà ta thiếu gì củi, có cả gỗ thơm, cần gì củi để đốt thân mình hay
sao?” Rồi Trưởng giả cho dùng củi của nhà và gỗ thơm đốt nấu thức ăn, nên mùi
thơm bay cùng khắp thành. Vua ngửi được mùi thơm hỏi cận Thần:
“- Mùi thơm ở đâu bay tới vậy?”
Cận Thần tâu:
“- Mùi thơm từ nhà Trưởng giả Tích Tài, do ông ta cho
dùng gỗ thơm chiên đàn đốt nấu thức ăn, nên mùi thơm bay đến đây.”
Vua nghe vậy
sinh buồn não bảo cận Thần:
“- Trong cung của ta có gỗ thơm chiên đàn không?”
Cận Thần tâu:
“- Đại Vương đừng lo, Trưởng gia Tích Tài tuy giàu có
nhưng không có con, khi qua đời, của cải ấy sẽ thuộc về Đại Vương.”
Dù nghe nói
vậy, nhưng Vua vẫn không vui, lúc ấy có một hầu Thần tâu:
“- Đại Vương đừng nên buồn, Đại Vương nên thỉnh Phật vào
ngày khác, thần sẽ có cách làm hơn Trưởng giả kia.”
Hầu Thần nói
rồi ra lệnh: cho chuẩn bị trong nội thành, dọn dẹp, quét rửa lau chùi mọi chỗ
mọi nơi thật sạch sẽ; những thứ gì không cần thiết cho dẹp bỏ hết cho quang
đãng rộng rãi. Trang trí tràng phan, cờ xí rợp trời, giăng dây, kết hoa, treo
châu báu khắp; lại dùng nước thơm rảy khắp, rải hoa nơi vườn ngự uyển giống như
vườn hoan hỷ cõi Trời Đạo Lợi. Lại nữa, cho trang trí tòa ngồi rộng lớn trang
nghiêm, các món ăn đều là thượng hảo hạng thơm ngon hạng nhất.
Sắp xếp chuẩn
bị mọi thứ xong xuôi, hầu Thần tâu Vua:
“- Nay mọi thứ cúng dàng đã xong, xin Đại Vương thỉnh
Phật về thưởng thức”
Vua thấy việc
chuẩn bị chu đáo, nên trong lòng rất vui mừng, bèn sai đại Thần làm sứ giả đi
thỉnh Phật và đại chúng Tỳ Kheo. Đại Thần ấy đến chỗ Phật lễ xong thưa:
“- Vua Mãn Độ Ma cử con đến mời thỉnh đức Thế Tôn và đại
chúng Tỳ Kheo quá bộ đến cung Vua thọ thực, cúi xin Thế Tôn thương xót nhận lời
thỉnh của Vua; bữa cơm đã làm xong, nay là đúng lúc, xin Ngài đến cho.”
Lúc ấy, Phật
bảo đại chúng Tăng cùng đi đến cung Vua thọ sự cúng dường, khi tới nơi và an
tọa xong, Vua Mãn Độ Ma đến lễ Phật, rồi bưng bình báu đựng thức ăn thơm ngon
thượng hảo hạng dâng lên Phật và các Tỳ Kheo.
Trong lúc ấy,
đại Phu nhân của Vua trang sức lộng lẫy trang nghiêm cầm quạt bằng vàng đứng
hầu bên Phật, các Cung tần Mỹ nữ cũng cầm quạt báu đứng hầu bên các Tỳ Kheo.
Khi ấy,
Trưởng giả Tích Tài nghe người thưa việc Vua thỉnh Phật như thế, ông liền cho
người lén đến cung Vua xem việc sắp bày thức ăn uống ra sao. Người ấy đi rồi
không thấy trở lại, Trưởng giả liền sai người khác, người thứ hai cũng không
trở lại, cuối cùng, Trưởng giả đích thân đén cung Vua; đến nơi thấy việc sắp xếp
trang trí cúng dàng hết sức công phu đầy đủ, Trưởng giả bèn nghĩ: “Nhà mình
không có người nào đủ tài làm được như vậy”. Nghĩ rồi trở về nhà nói với người
chủ kho và người giữ cổng:
“- Các Ông hãy lấy vàng bạc châu báu đem treo ở trên
cửa, có người đến cần xin thì cho, chớ nên dẫn vào, ta không muốn gặp ai cả.”
Nói rồi,
Trưởng giả vào nhà ngồi âu sầu, buồn bã, thất vọng; bấy giờ Vua Đế Thích cõi
Trời Đạo Lợi thấy thế rồi nghĩ: “Nay ở thế gian, Trưởng giả Tích Tài là thí chủ
hàng đầu, có lòng tin thanh tịnh, ta nên giúp ông ấy.” Nghĩ rồi, Vua Trời biến
khỏi cung Trời tới nhà Trưởng giả, hiện thân tướng Bà La Môn đến nói với người
giữ cửa:
“- Ông vào nói với Trưởng giả: có Bà La Môn Kiều Thi Ca
muốn gặp Trưởng giả”.
Người giữ cửa
nói:
“- Trưởng giả dặn: “Nếu có người đến cần xin gì thì cho,
không nên dẫn vào, Trưởng giả không muốn gặp ai cả”; vậy Ông muốn gì cứ lấy
đi”.
“- Ta không xin các thứ đồ vật, chỉ muốn gặp Trưởng giả,
Ông nên vì tôi mau vào báo rõ”.
Người giữ cửa
vào thưa với Trưởng giả rằng:
“- Có Bà La Môn tên Kiều Thi Ca muốn gặp Ngài. Mặc dù đã
nói như Ngài đã bảo, nhưng người này không muốn vật báu, mà chỉ muốn gặp Ngài
thôi”.
Nghe nói vậy,
Trưởng giả bằng lòng để người ấy vào gặp mặt, khi gặp, Bà La Môn liền hỏi:
“- Vì sao Ông âu sầu không vui, có gì mà phải buồn rầu
như thế?”
Lúc ấy Trưởng
giả nói kệ:
“Ta không nói việc buồn,
Nói cũng không thể thoát,
Nếu làm tôi hết buồn,
Tôi sẽ nói với Ông”
Bà La Môn
nói:
“- Ông hãy nói nguyên nhân buồn rầu, tôi sẽ giúp giải
tỏa cho Ông.”
Trưởng giả
liền nói hết những việc ấy, Bà La Môn nói:
“- Tôi là Thích Đề Hoàn Nhân, Vua cõi Trời Đạo Lợi, tôi
sẽ sai Vua Tỳ Thủ Yết Ma đến giúp Ông làm thức ăn thơm ngon cúng Phật.”
Nói rồi biến
mất khỏi nhà Trưởng giả, về lại cõi Trời truyền lệnh cho Vua Tỳ Thủ Yết Ma (Tỳ
Sa Môn Thiên Vương một trong Tứ Thiên Vương?) đến giúp Trưởng giả Tích Tài.
Vua Tỳ Thủ
Yết Ma vâng lệnh Vua Đế Thích đến nhà Trưởng giả, biến nhà nhỏ thành lớn, làm
cho thành thanh tịnh trang nghiêm, sắp bày các thứ vật dụng trân bảo tốt đẹp
như cảnh Trời. Tòa báu cõi Trời, thức ăn uống cõi Trời, có Vua Rồng cầm lọng
báu đứng trong hư không che cho Phật, các Rồng khác đều cầm lọng mỗi mỗi che
cho các Tỳ Kheo; có Ngọc nữ báu cầm quạt vàng đứng quạt hầu Phật, lại có vô số
Ngọc nữ cầm quạt đứng hầu bên các Tỳ Kheo.
Bấy giờ
Trưởng giả bưng bình báu đựng các món ăn cõi Trời dâng lên Phật và các Tỳ Kheo.
Lúc ấy, Vua
Mãn Độ Ma bảo sứ giả đến nhà Trưởng giả lén xem sắp đặt bày biện thức ăn uống
ra sao rồi về thưa lại. Nhưng mãi không thấy người ấy trở về, Vua bèn sai người
khác, người thứ hai cũng không trở lại, Vua sai Thái tử đi, cũng không trở về,
cuối cùng, Vua tự đi, đến nơi, Vua đứng bên ngoài nhìn vào.
Đức Phật Tỳ
Bà Thi biết Vua đang ở bên ngoài, liền bảo Trưởng giả Tích Tài:
“- Trước Ông nói lời không tốt đối với Vua Mãn Độ Ma, ấy
là tội lỗi, nay Vua đang ở bên ngoài, Ông mau ra xin tạ tội.
Trưởng giả ra
ngoài thấy Vua liền rước Vua vào, Vua vào nhà thấy các thứ thơm ngon, thấy các
thứ trang nghiêm tốt đẹp lạ lùng của cõi Trời, thấy rồi, Vua quên hết mọi việc
trước kia. Vua nói với Trưởng giả:
“- Ông đã cúng Phật và đại chúng Tỳ Kheo các thứ cao tột
chưa từng có như vậy thì không có gì có thể so sánh được.”
Trưởng giả
Tích Tài lòng sinh thanh tịnh, lễ Phật phát nguyện rằng:
“- Xin cho con được phúc đức cúng dàng Phật và đại chúng
Tỳ Kheo sẽ được giàu có đầy đủ, tự tại, sinh nơi nào cũng được hưởng phước
Trời, không có lòng tham, được ở trong chính pháp của Phật và theo Phật xuất
gia.”
Phát nguyện
xong, đức Phật Tỳ Bà Thi và đại chúng Tỳ Kheo ở trong nhà Trưởng giả trong ba
tháng an cư.
Đức Phật
Thích Ca bảo các Tỳ Kheo:
– Ý các Ông thế nào? Lúc ở trong pháp hội Phật Tỳ Bà
Thi, Trưởng giả Tích Tài đâu phải người nào khác, nay chính là Tỳ Kheo Quang
Minh, vì khi nói lời không tốt đối với Vua Mãn Độ Ma, nên không mất quả báo, đã
bị nhiều đời (500 đời) cùng mẹ bị lửa đốt, cho đến đời này cũng vậy. Nhưng đã
trồng căn lành thời Phật Tỳ Bà Thi, và đã phát nguyện lớn, nay làm Trưởng giả
giàu có, đầy đủ tất cả, Ở trong cõi Người hưởng phúc Trời, làm việc thiện, và
cuối cùng xuất gia ở trong pháp Ta học đạo, dứt các phiền não, chứng A La Hán.
Tỳ Kheo! Do
duyên này, các Ông nên biết, tất cả chúng sanh, nếu tạo một nghiệp đen, sẽ phải
chịu một quả báo đen, nếu tạo một nghiệp trắng, phải chịu một quả báo trắng,
các Ông nên tu học như vậy.
LỜI
BÀN:
Phần cuối của
Kinh là Phần đức Phật giảng về nhân duyên tiền kiếp của Quang Minh đã cúng dàng
Phật Tỳ Bà Thi cách nay 91 kiếp về trước, tính ra đã tới 6.5 tỷ năm rồi. Một sự
cúng dường kỳ đặc do Vua Trời giúp!
Một điểm cần
để ý là khi Vua Mãn Độ Ma ra lệnh cấm bán củi, Trưởng giả Tích Tài nghe nói vậy
thì nổi sân giận nói ác là: “Trong nhà ta
thiếu gì củi, có cả gỗ thơm, cần gì củi để đốt thân mình hay sao?” Vì lời
nói đó, nên nhiều đời sinh ra bị tai nạn về lửa.
Chúng ta thấy
Trưởng giả đã quên lời Phật Tỳ Bà Thi bảo ra ngoài tạ tội Vua, nhưng Trưởng giả
đã quên xin lỗi Vua nên bị quả báo nhiều đời nhiều kiếp như thế.
Điều cần lưu
ý nữa là lúc nói ác dù có mặt hay không có mặt người khác cũng như nhau, tại
sao? Vì lúc Trưởng giả Tích Tài nói những lời ác ấy, không có mặt Vua Mãn Độ
Ma, mà vẫn bị quả báo; bởi vậy, điều đức Phật lưu ý chúng ta là nên thận trọng
lời nói, nhất là trong lúc bất mãn điều gì, lại càng phải giữ gìn lời nói, vì
trong những lúc ấy dễ nói lời ác nhất, và những tai họa của quả báo không sao
tránh khỏi ỏ những kiếp sau vậy.
Toàn Không
eʂ
Discussion about this post