CÁC CẤP ĐỘ NHẬN THỨC
Thích Trung Định
Nhận thức (tiếng Anh: cognition) là hành động hay quá trình tiếp thu kiến thức và những am hiểu thông qua suy nghĩ, kinh nghiệm và giác quan, bao gồm các qui trình như tri thức, sự chú ý, trí nhớ, sự đánh giá, sự ước lượng, sự lí luận, sự tính toán, việc giải quyết vấn đề, việc đưa ra quyết định, sự lĩnh hội và việc sử dụng ngôn ngữ. Theo “Từ điển Bách khoa Việt Nam”, nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người tư duy và không ngừng tiến đến gần khách thể. Sự nhận thức của con người vừa ý thức, vừa vô thức, vừa cụ thể, vừa trừu tượng và mang tính trực giác. Quá trình nhận thức sử dụng tri thức có sẵn và tạo ra tri thức mới.[1] Thông qua nhận thức con người có sự nhận biết, phân biệt và đối xử. Từ đó nảy sinh sự yêu – ghét… đến các sự vật hiện tượng.
Theo Phật giáo, có ba cấp độ nhận thức được Kinh Pháp Môn Căn Bản, thuộc Trung Bộ giới thiệu đó là: tưởng tri, thắng tri và liễu tri. Ba cấp độ nhận thức này đức Phật giới thiệu đi từ thấp lên cao. Cấp độ nhận thức đầu, tưởng tri đó là nhận thức của phàm phu chúng sinh; thắng tri và liễu tri là cấp độ nhận thức của Bồ tát, Phật.
Tưởng tri (sannājānāti): Là sự nhận biết thông qua hình dạng của sự vật.[2] Tưởng tri là cái thấy biết của tri thức thường nghiệm, cái thấy có hạn cuộc, mang đầy ngã tính, nhị nguyên có phân biệt chủ thể và đối tượng. Tưởng tri được mô tả là sự nhận thấy “đất như là đất”, vẫn là cái thấy biết thông thường dựa trên hình dạng, tính chất đặc thù của nó (nhậm trì tự tánh quỷ sanh vật giải). Mục đích của thiền tuệ Phật giáo là nhìn nhận sự vật không chỉ đơn thuần dựa trên hình thù và tính chất mà nhìn sâu vào bản chất thật tại của sự vật, bấy giờ ‘đất vẫn là đất’, nhưng đất không phải là một thực thể cố định bất biến. Mà đất là sự hòa hợp của các yếu tố sắc, thậm chí trong đất vẫn có nước, lửa, và gió. Tức thấy bằng tuệ giác duyên sinh, tương tức và tương nhập. Các nhà bình luận giải thích rằng, những người thường nắm bắt khi biểu thức thông thường ‘nó là đất’, và áp dụng điều này đến các đối tượng, sự nhận thức này được gọi là ‘nhận thức sai lầm’ (saññāvipallāsa). Vì thật chất của chúng nếu suy xét kỹ thì chúng luôn biến chuyển, thay đổi. Nhưng với tưởng tri thì luôn nghĩ rằng: vô thường là thường, đau khổ là vui, vô ngã cho là ngã, cấu uế bất tịnh như tịnh… [3], đây là nhận thức sai lầm, vọng tưởng do đó dẫn đến khổ đau.
Thắng tri (Abhijānāti): Là sự thấy biết rõ ràng với tuệ giác. Đây là cấp độ thấy biết trực tiếp các sự vật thông qua thiền định, và qua trí tuệ, mà không qua quá trình đối đãi của tư duy, thấy rõ tâm lý và vật lý là một chuỗi duyên sinh vô ngã. Với nhận thức này không có giới hạn, tách biệt, không chủ thể và đối tượng. Thắng tri còn được giải thích là cái thấy biết đặc biệt, cái biết tận sâu vào bản chất của mọi sự vật hiện tượng là vô thường, khổ và vô ngã.[4]
Liễu tri (Parijānāti): Trên cơ sở thắng tri dẫn đến đoạn trừ tham ái, sân hận, si mê không còn vướng mắc với tất cả pháp. Hiểu biết hoàn toàn, trọn vẹn về mọi sự vật; hiểu biết như thật sự vật. Thánh hữu học hành thiền quán vô ngã, vô thường thì có thể cắt đứt 10 kiết sử, đoạn tận các lậu hoặc, thấy rõ được sự thật như thật của các hiện hữu (hữu vi và vô vi). Với các Thánh vô học, do đoạn tận tham mà liễu tri các pháp; tương tự, do đoạn tận sân, đoạn tận si mà liễu tri các pháp. Chỉ có các bậc A la hán, Bích chi và A la hán Chánh đẳng giác mới liễu tri sự vật.
Với những vị thánh đệ tử được đào luyện cao hơn, đức Phật khuyến khích rằng không nên an trú, bằng lòng với những trạng thái tinh thần mới đạt được. Mà phải thực hành hạnh xả ly, ly tham và đoạn diệt. Với thánh quả Dự lưu, do mới đoạn trừ được ba kiết sử đầu là thân kiến, nghi và giới cấm thủ. Nhưng những kiết sử sâu nặng khác như tham dục, mạn…chỉ có thể được đoạn tận ở đạo quả A la hán, vì vậy thánh hữu học vẫn thường dễ bị chi phối, thoái đọa. Trong khi đó, thắng tri và liễu tri thuộc đạo quả A la hán, vì nó liên quan đến việc loại bỏ hoàn toàn mọi phiền não.[5]
Chư Phật thì đã liễu tri vạn pháp do vì thấy rõ ‘dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu mà sinh khởi lên, và già chết đến với hữu tình’, đã ‘diệt trừ hoàn toàn các ái, hoàn toàn ly tham, hoàn toàn xả ly’ nên đã ‘chân chánh giác ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’.
Như vậy, trí tuệ chân thật đó là thắng tri (abhijānāti) và liễu tri (parijānāti). Trí tuệ chân thật được ví như thuyền bát nhã vượt qua đại dương sanh tử luân hồi, là ánh sáng rọi soi vô minh đen tối, là lương dược cho người tật bịnh. Trong Mahāvedalla Sutta cũng định nghĩa về trí tuệ cũng có nghĩa là thắng tri, cũng có nghĩa là liễu tri và cũng có nghĩa là đoạn tận.
Ba cấp độ của Trí tuệ
Có ba cấp độ của trí tuệ đó là: Nhất thiết trí (一切智) của hàng Nhị thừa (Thanh Văn), là trí hiểu biết tất cả những khía cạnh khác biệt của chư pháp; Đạo chủng trí (道種智) của hàng Bồ Tát, trí biết được những con đường tu tập khác nhau; là trí hiểu biết khía cạnh toàn vẹn của chư pháp và, Nhất thiết chủng trí (一切種智) của chư Phật, trí huệ toàn hảo biết được tất cả khía cạnh của các pháp. Trí thông đạt tất cả những loại trí huệ khác.
Đầu tiên, Nhất thiết trí là sự hiểu biết đúng đắn về danh nghĩa, hoặc bản chất của vũ trụ. Đó là trí tuệ hiểu biết các khía cạnh chung của tất cả những kiếp sống, trí tuệ của hàng Thanh văn. Thứ hai, Đạo chủng trí là trí tuệ hiểu biết một cách chính xác về các sự vật hiện tượng, trí này có thể thấu hiểu tất cả những hiện tượng vô hạn của vũ trụ, là trí nhận biết tất cả các khía cạnh phân biệt đối xử của mọi sự hiện hữu, trí tuệ của Bồ tát. Trí này thấu hiểu được các hiện do đâu phát sinh? Và bằng cách nào để chúng sinh khởi? Và kết quả cuối cùng của nó là gì? Thứ ba Nhất thiết chủng trí là trí tuệ nhận thức đầy đủ và hoàn hảo, trí này hiểu về sự thật của cuộc sống con người và vũ trụ mà không có sự nghi ngờ nhỏ hoặc lỗi, đó là trí tuệ của chư Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sở hữu tất cả ba loại trí tuệ này, Ngài hoàn toàn hiểu được chân lý của cuộc sống con người và vạn pháp.[6]
Ba con mắt
Trong Tiểu Bộ Kinh đức Phật dạy có ba con mắt đó là: Nhục nhãn, Thiên nhãn và Tuệ nhãn.[7]
Nhục nhãn là mắt thường của người đời, thấy được màu sắc và hình tướng, như chúng ta thường thấy.
Thiên nhãn (dibba-cakku) là loại mắt thanh tịnh thấy xa, song Thiên nhãn mới chỉ kiến đạo mà chưa đạt đạo.
Huệ nhãn (pãnnã-cakku) là loại mắt vừa thấy đạo vừa đạt đạo.
Cấp độ nhận thức bằng tưởng tri và thức tri là thấy biết bằng nhục nhãn; cấp độ thắng tri và liễu tri đó là pháp nhãn và huệ nhãn. Cái biết của tưởng và thức còn mang nặng ngã tính, vọng tưởng nên cái thấy biết đó dễ đưa đến nhận thức sai lầm, như Duy thức học nói: nhìn dây hóa rắn.
Tuệ nhãn là cái thấy biết đúng như thật, thấy rõ ba pháp ấn: Khổ (dukka), Vô thường (anicca) và Vô ngã (anatta) thể hiện trong cuộc đời không chấp thủ, sai lầm, và sống theo tám chánh đạo (Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Đặc biệt, do đặc tính thâm nhập vào bản chất của các pháp, nên trí tuệ mới có khả năng tấn công vào tận hang ổ cuổi cùng của bản ngã, như lập luận của ngài Acharya Buddharakkhita: ‘Ở đây, nếu có sự sáng suốt hoàn toàn, nhất thiết sẽ đặt cái gọi là ‘Ta’ đó là ánh sáng của những thật tại vô thường, khổ, vô ngã, như vậy mới tỉnh ngộ khỏi những ảo tưởng do sự suy đoán đó tạo ra.’[8] Với cái nhìn trí tuệ, thông qua Thiền Minh Sát (vipassanā) chắc chắn sẽ thấy rõ cái bản chất thật của tự ngã là vô thường, khổ và vô ngã (không có thực thể), do đó thực hiện được giải thoát qua bốn quả vị Niết bàn: Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn và Giải thoát (Alahan).
Tóm lại, việc giới thiệu các cấp độ nhận thức cho chúng ta thấy rõ tiến trình nhận thức từ phàm phu đến thánh quả. Khi nhìn nhận sự vật mở ra cho hành giả một lối thoát, không vướng kẹt vào các khái niệm phạm trù dẫn đến hoang tưởng, khổ não. Tập nhìn đời bằng con mắt thiên nhãn và huệ nhãn để thấy xa trong rộng, mở mang sự hiểu biết, rộng mở cõi lòng. Chánh niệm trong cái thấy biết của tưởng tri để điều chỉnh nhận thức, an trú trong cái thấy biết của thắng tri và liễu tri để thấy như thật sự vật, tâm trong sáng thuần tịnh, an nhiên và tự tại.
Ghi chú:
[1] Nhận thức, https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADn_th%E1%BB%A9c
[2] See, Maurice Walshe (trans.), Digha nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 594.
[3] See, Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majhima nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, (2009 fourth ed), p. 1162.
[4] Ibid, pp. 1166-67.
[5] Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikhu Bodhi, (trans.), Majhima Nikāya, The Middle Length Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, (2009 fourth ed), p. 1167.
[6] Dr. Ch. Venkata Siva Sai, Buddhist Education Theory and Practice, Prashant Publishing House, Delhi, 2014, p. XIX.
[7] Ṭhānissaro Bhikkhu, Itivuttaka, This Was Said By The Buddha, Printed For Free Distribution, Revised edition, 2013, p. 40.
[8] Acharya Buddharakkhita, Mind Overcoming Its Cankers, Buddhist Publication Society, Kandy Srilanka, 2004, p. 109-10.
Discussion about this post