Thân tặng Tuổi trẻ, Lý tưởng & Tình yêu
Cư sĩ Liên Hoa
Một thưở đó, mây hỏi cùng cỏ lá
gió chướng mùa, đời vắng lạc về đâu
bàn tay mỏng, soi mòn tâm mưa nắng
thu réo nguồn, lá cỏ có bâng khuâng?
lối chiều nghiêng, khép lại bóng ưu phiền
sờn tà áo, bụi đời trên vai cỏ
có gì đâu, mảnh trăng vô lượng kiếp
một giọt trăng, em- hơi thở vô cùng
lúc trống vắng, ta nằm yên trên cỏ
bàn cùng nhau, lời vô tận mùa thu
cánh chim bay, chở ngày tháng vi vu
tình trở giấc, nổi buồn theo cánh gió
mây hỏi cỏ, có bao giờ em biết
con phố mềm, văng vẳng tiếng chuông xa
hỏi tâm em, sao vất vưởng hao mòn
đồng lúa mộng, trăng vẫn còn soi bóng…
Trên
con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon
ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không
đủ để chở qua cơn giá lạnh. Ôi thời gian, tưởng chừng đã như quên mất, để chạy
theo đời sống, nghe vi vu gió thổi. Mây đã từng vụng về, mang mộng đẹp, ôm cả
sơn hà, trời đất, để rồi vô tình rớt vào vùng nhỏ nhen gói trọn của một khoảng
không gian cạn hẹp, cánh cửa lưng chừng của bụi đời..
Khi mây
hỏi cỏ, có biết đến con phố mềm, có tiếng chuông ngân, có vất vưởng hao mòn
suối lòng, có đồng lúa mộng, và ánh trăng non vẫn tròn trịa trong cõi vô cùng
tận của tâm. Cũng lúc là mây đã xao xuyến, rộn ràng nổi bâng khuâng, cảm thấy
mình đã đi quá xa, không thực trong cuộc nhân sinh, chỉ còn lại đôi tay nhỏ bé,
ôm chất phù du lãng mạn, đã bỏ quên cái sơ tâm trong góc tối cuộc đời, nên tự
mình đi tìm đáp án để trả lời đến từng câu hỏi quay cuồng cho cuộc sinh tử..
Vén lại muôn trùng, em ngồi đó
thời gian huyền thoại, chốn sơ tâm
trời mây réo rắc từng hơi sóng
thu vẫn ngọt ngào, cốm lúa bông
ai người ước nguyện vào gió cát
lặng lẽ hồ sen, tịnh sáng chiều
ánh mắt từ bi, còn mở ngõ
tình trong, em vẫn ngọt môi hồng
ánh trăng rủ sáng, chân trời mới
chớ bỏ sơ tâm, đón cội nguồn
chiếc áo ta bà, em quên khoác
làm sao gót đỏ bước thong dong…
Ánh
mắt dò hỏi của mây, như van lơn lời tình tự, soi bước in bóng về, tìm một bóng
trăng lặng lẽ trong tâm. Tại sao mây đã từng biến hình đổi dạng, lang thang tự
do trên bầu trời, mang nụ cười hóm hỉnh, làm đẹp, làm tươi mát lòng người, với
các hình dung kỳ thú, che mưa chở nắng, hong đầy tình tự, rọi xuống chân trời,
đem hơi thở đẹp yêu đời cho nhân gian trong cơn bĩ cực của nội tâm, mà giờ sao lại
thả hồn theo trường thiên mơ mộng, ảo huyền, chỉ còn chăng là áng mây vô hồn,
loạn thinh, vọng niệm … mất hút trong cuộc đời, biến thành vô vị, vô nghĩa.
Trên
mặt đất mềm dại nầy, cỏ cũng có mặt, cùng tồn tại, hoà cùng mây trong “duyên
sinh duyên hợp”. Nếu không có mây trời, không có suối tóc dài tung bay theo
gió, có hương thơm làm chết lặng cõi lòng và có những nước nguồn từ mây đổ
xuống, tưới tẩm, thì cỏ đã không còn, khô cứng, vỡ nát dưới bước chân non..
ta, thân mền cỏ dại
nằm chót ở đỉnh đồi
nơi ngàn trùng gió bụi
lắng nghe tiếng gió thu
em, miền hoang suối vắng
xõa tóc hồng thiên thu
lời chim non gọi tổ
bờ cát phủ sa mù..
Mây vô tình hỏi cỏ về nguồn căn tâm
nguyện cạn khô khi đã trải qua năm tháng vào đời… cỏ cũng lặng lẽ hỏi mây, khi
tình tự phủ đầy cơn sóng. Tại sao trên thế gian nầy, cỏ nhiều hơn lúa, để cho
nhân loại phải vươn mình, cật lực, vất vả trong trọt để mưu sinh trong cuộc tồn
vong, vì có được thân người thật là sự hy hữu? Tại sao cỏ không bị hủy diệt để nhường
lại cho đất có thêm nhiều đất đai mầu mỡ, có đủ chỗ canh tác, trồng trọt, tạo
ra lương thực, lúa gạo để nuôi sống sống muôn loài ? tại sao mây đã thả rong
mình đi nơi đâu đâu để cho cát mềm sông cạn, quên mất bao nhiêu nguyện lực của
cõi lòng ? Trên cuộc đời nầy, có gì là tồn tại riêng biệt, mà lại không
nương vào nhau để cùng hiện hữu. Cỏ là mây, hay ngược lại, là bản giao huởng
tuyệt đẹp kỳ diệu, khởi đầu.
Bước đi của nhân loại là bước chân đi
vào đời, nơi hoang sơ để trưởng thành, vươn cao để đạt đến Chân Thiện Mỹ, trở
về nguồn cội tâm linh chia sẻ, tiếp cận và sống an lạc, hoà bình… nơi đó, có
tánh Phật phổ quát tuôn chảy, lung linh sống động làm con người gần với con
người hơn, biết thương yêu, che chở cho nhau. Con người không phải là động vật
để chỉ vì duy nhất là nhu cầu như lo ăn, lo mặc, lo cuộc sống riêng tư … mà còn
cái gì cao hơn nữa, đó là đời sống tinh thần, là tình người với những sẻ chia
từ tinh thần đến vật chất… đến lẫn nhau.
Sự thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu thốn
tinh thần v.v.., làm con người tự vực dậy, và vì nhu cầu sinh tồn, nên vươn cao
trên cuộc sống, không muốn mình là những linh hồn vất va vất vưởng, cầu xin,
van vái Thần linh để được ban ân, ban cho hạnh phúc, cho đầy đủ …, nhưng chính
con người, và vì con người, đã tự rèn luyện, bồi đắp, khai phá, phát triển và
tạo dựng đời sống … do thể nhập vào cõi Chân tâm, làm bùng phát trí tuệ, tình
thương, đem lại lợi ích xây dựng cuộc đời và hành tinh xanh nầy.
Bước chân vào cội nguồn Tánh Phật cũng
là khởi nguồn sự sống chia sẻ, với những phát minh tinh thần và vật chất, hữu
hình hoặc vô hình, để kiến tạo cuộc sống, nền văn minh, đem lại nhân bản đích
thực, một tinh thần tích cực vô giá khởi phát vì tâm lượng của con người, với
Bi Trí Dũng, đến từ suối nguồn của tự tâm thanh tịnh.
« Nếu muốn hiểu thấu được ba đời chư Phật, hãy quán về Tánh của Pháp
giới. sẽ thấy rằng tất cả đều do và từ tâm tạo ra » ( Nhược nhân dục
liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm
tạo )1
Cỏ nhiều hơn lúa gạo, thiếu đất đai
canh tác, trồng trọt v.v.. nên đã từng gây ra sự thiếu thốn lương thực trên thế
giới, để cung cấp cho con người được no đủ … thế mà, cũng chính con người lại vẫn góp phần hủy hoại, tàn phá, phung
phí đất đai, thực phẩm, tài nguyên, môi sinh qua những tham vọng, gây chiến
tranh, làm đổ máu, giết hại bao nhiêu là sinh vật, loài vật, hữu tình hoặc vô
tình.
Khi
mà sự thiếu thốn có mặt, gây nên nhiều bất hạnh, khổ cảnh … cho nhân loại, do
những cuồng vọng, hoang tàn, tham sân, đố kỵ từ con người gây nên còn dày xéo
trên thân thể con người, trái đất còn khủng khiếp đến như vậy …. thì chúng ta khó
có thể nào mơ tưởng, tin chắc rằng khi trái đất nầy không có cỏ, chỉ hoàn toàn là
đất đai để canh tác, tạo tràn ngập lúa gạo, lương thực cung cấp cho con người được
no đủ, thì nhân loại sẽ thoát khỏi hiểm họa nhân tai, hay sự tàn phá, hũy hoại,
phung phí của con người … trong khi mà con người vẫn còn đầy đủ tham sân si, tâm
còn đầy dục vọng, tham vọng, bỉ thử, ái ngã ?..
Mượn hình ảnh của Mây và Cỏ khi đối
đáp lẫn nhau, để tìm ra lẽ sống, tìm ra sự duyên sinh, và cũng tìm đến tấm lòng
hay cội nguồn của cõi sơ tâm.
Chúng ta có tuổi trẻ, có lý tưởng và
tình yêu, bởi vì chúng ta là con người bằng xương bằng thịt, biết cảm xúc, biết
lương tri, và muốn vươn lên trong cuộc đời, không phải chỉ cho riêng mình, mà
còn vì là mà cho con người với ý thức được lý Duyên Sinh
(paticcasamuppada): « Cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu; Cái này
không hiện hữu thì cái kia không hiện hữu. Cái này sinh thành thì cái kia sinh
thành. Cái này hủy diệt thì cái kia hủy diệt » (Thử Hữu tắc bỉ Hữu. Thử Vô tắc bỉ Vô. Thử
Sinh tắc bỉ Sinh. Thử Diệt tắc bỉ Diệt)2 trong Amaga Sutra.
Khi
rời xa cha mẹ trong lúc tuổi còn nhỏ, tôi đã bị cha mẹ hỏi rằng: « Sao con
lại muốn rời xa cha mẹ trong lúc còn nhỏ quá ? ». Tôi đã trả
lời: « Con muốn làm một cái gì đó có ích lợi cho đời.. ». Lời
nói ngây ngô, khờ dại, chất phát của đứa con nít nghĩ và được thốt ra, nghe
thấy mà tức cười quá, nhưng khi lớn lên, suy ngẫm lại, điều đó cũng nói lên một
tấm lòng, một ước nguyện.
Đạo Phật vẫn thường bị những người không
hiểu, cố tình gán ghép cho là một tôn giáo bi quan, yếm thế, chán đời khi nhìn
cuộc đời, cõi nhân sinh. Coi cuộc đời là phù du, ảo ảnh…nên thường hay lẩn trốn
hồng trần, thoát tục. Như vậy, chính những người nầy có nhản quan tiêu cực khi
nhìn đạo Phật với thái độ như vậy, nên bị giới hạn tầm nhận thức, mà quên đi
tinh thần dấn thân tích cực của đạo Phật hay những con người theo đạo Phật, qua
sự tu tập, tiếp cận xây dựng cuộc đời, xây dựng nhân sinh.
Do nhận thức được thân phận con người
chỉ chiếm một vị trí nhỏ bé và chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn, so với
không thời gian của vũ trụ. Và sự hiện hữu của một hữu tình, cũng có nghĩa là mỗi
người đều mang theo mình những gì tích lũy của quá khứ (biệt nghiệp) để có mặt
trên trần gia nầy (cộng nghiệp), vốn dĩ, đó là gốc rễ của vô minh, do ba độc
tham sân si chi phối, nên tạo thành hạnh phúc hoặc đau khổ, trong cuộc hiện
sinh.
Hy hữu được có thân người. Hy hữu được
gặp, được nghe và được tu tập theo đạo Phật (Nhân thân nan đắc, Phật Pháp nan văn). Trong cuộc đời, chúng ta may
mắn, hạnh phúc được tiếp cận đến đạo Phật, tiếp cận gia tài vô giá, với nguồn
giáo lý phong phú, nhân bản, siêu thoát, thực dụng, và là khu vườn dược thảo có
thể cung ứng tất cả mọi phương dược tùy theo tâm bệnh của mỗi người, tuỳ theo
căn cơ, trình độ ( khế cơ, khế lý ) để
được chửa trị, được lành bệnh, đưa đến an vui và hạnh phúc.
Đến với đạo Phật, không phải đến để tin
với cái tin mù quáng, nhưng đến để nghe (Văn) Suy nghĩ, quán chiếu (Tư), áp
dụng tu tập (Tu) trong đời sống, và những gì đạt được khi thực hành, có thể đem
lại cho mình được sự an lạc, thanh thản … thì hãy tin theo.
Con người theo đạo Phật là những con
người yêu đời, vì do sự tu tập giáo lý yêu thương, sáng suốt, chuyển hoá tâm
bệnh của mình, nên lòng trong, tâm tịnh và thấy cần chia sẻ với mọi người về
nguồn sống nầy, với mục đích duy nhất là đồng cùng nhau được thoát khổ, an vui,
giải thoát.
Khi ánh sáng trí tuệ có mặt ( tuệ nhật phá chư ám)3, sẽ nhìn thấy các pháp như thực tướng, như
thực tánh… thì những hệ lụy, phiền não, khổ đau giảm thiểu, thấy được chân
thường trong vô thường, cảm nhận được nét đẹp trong lành, kỳ diệu tự tâm, trước
những biến hoại, hư dối, phù du, sanh diệt của các pháp, để không bận tâm hay
lo âu, hốt hoảng, sợ hãi.
Khi mình tìm thấy hạnh phúc, giảm thiểu
khổ đau do sự thực hành giáo pháp, người hành giả tự nhiên ước nguyện dấn thân
vào đời, để xây dựng cuộc đời với tâm tư thư thái, an vui, giảm thiểu bỉ thử,
nhân ngã, và chia sẻ với mọi người về niềm an lạc nầy, vì chính mỗi người là
hành giả trên bước đường tâm linh có thể đem lại hạnh phúc hay bất hạnh của
chính mình..chứ không phải một ai khác.
Hỡi tuổi trẻ và lý tưởng, tình yêu của
tôi, khi ý thức được thân phận con người với những gì tồn tại khiếm khuyết của
thân tâm, của vô lượng sinh mạng trong cái thân hữu hạn nầy….chúng ta đi vào
đạo Phật, được Thầy Tổ hướng dẫn, từng tu tập, chuyển hoá và lập nguyện với
chính mình, trước đức Phật của tự tâm, là làm được gì đó cho cuộc đời, cho xã
hội, cho con người… với lòng trọng đức Bốn Ân, nên với tâm nguyện « phụng sự chúng sinh là cúng dường chư Phật ».
Đó là tiếng nói sống động, trực tâm, hy hiến của tuổi trẻ, của lý tưởng, của
tình yêu… dù chúng ta trong thời hạn tuổi tác nào hay trong một thân thể hoàn
hảo hoặc khiếm khuyết, thì chính nguyện lực đó vẫn là nguồn sáng, lý tưởng của
con người hành giả.
Đọc trong Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn:
« Tôi từng nghe, cửa chính yếu để
nhập đạo thì sự phát tâm đứng đầu, việc khẩn cấp để tu hành thì sự lập nguyện
đứng trước. Nguyện lập thì chúng sanh độ nổi, tâm phát thì Phật đạo thành được.
Cái tâm quảng đại không phát, cái nguyện kiên cố chẳng lập, thì dẫu trải qua
đời kiếp nhiều như cát bụi, cũng y nhiên vẫn ở trong phạm vi luân hồi. Tu hành
dẫu có, cũng toàn là lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Do đó mà kinh Hoa nghiêm
đã nói, quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp thì gọi là hành động theo
ma vương. Quên mất còn thế, huống chi chưa phát. Nên muốn học Như lai thừa thì
trước phải phát bồ đề nguyện, không thể chậm trễ »4
Đó chính là « cõi sơ tâm »
thật đẹp của biết bao nhiêu con người, bao nhiêu thế hệ, bất kể tuổi tác hoặc
nam hay nữ, với biết bao nhiêu là tâm lượng vô úy, hùng dũng, sáng suốt, tràn
đầy khí lực sinh khởi trong tâm, chấp nhận thiếu thốn như « tam thường bất
túc », hoặc giảm thiểu, tri túc « tài sắc danh thực thụy » …
nhưng dám đối diện, cam đảm đi vào đời gánh vác và mong thực hiện được những
lời nguyện, các hoài bão nào đó được nuôi duỡng từ gốc rễ của cõi sơ tâm, đem đến
cho con người, cho cuộc đời, cho xã hội v.v… và cũng là hoàn nguyện cho chính
con người mang cõi sơ tâm của giao ước vào lúc buổi ban đầu.
Chúng ta có thể gọi cõi sơ tâm nầy là
sức sống mãnh liệt, hùng dũng, nguyện lực, mang tâm hồn của Ba Pháp Ấn ( Khổ
Không Vô thường Vô ngã ) nầy là năng lượng sinh động của Tuổi trẻ, Lý tưởng và Tình yêu, vì đó nội hàm
kỳ diệu của tâm, chứ không phải được đo lường bởi không thời gian.
Với cõi sơ tâm, ta chịu làm cỏ nằm dưới
chân người, để bước chân con người dẫm lên, tiến về cái Đẹp, cái Toàn Thiện,
trở về với Tánh Phật. Và với cõi sơ tâm, ta cũng có thể vươn cao lên, đứng trên
đầu ngọn cỏ, nhìn trời đất bao la, mang hài rách vượt qua biển đại dương của
tâm, dấn thân vào đời vì cái đẹp sắc son, chung tình với con người, vạn hữu..
Em đẹp quá, cánh
hoa lời muôn thuở
lòng sắc son, bên
cuộn sóng vỗ về
là hạt nước, ánh
mắt tình bản thể
cỏ mây vờn, mở vô
lượng hoa đăng …
Nhưng rồi với thời gian, với ngoại cảnh
ảnh huởng, với nhiều cám dỗ … thì hỏi rằng cõi sơ tâm đó có còn lại trong ta
chăng, khi bản ngã được ve vuốt, nằm ngủ yên bên bờ bụi với chút hư danh, tài
sắc, uy quyền … để cho tấm lòng đẹp bị chôn vùi, mỏi mòn chờ đợi theo năm tháng.
Chúng ta biện minh là vì lý do nầy hay lý do khác, với những luận giải là mà
vì…. với những mỹ từ thật kiêu sang, thật đẹp và để rồi cõi sơ tâm bị quên lãng
một cách vi tế dưới biết bao nhiêu là hào nhoáng phủ lấp lên trên.. Mây và Cỏ
đã vô tình xa nhau, đau đớn, tức tưởi trước các ngọn gió phù hoa của cuộc đời..
Chúng ta không dám rời xa nơi được ấm
êm, sung túc, vui sướng, thoả mãn … vì nơi đó, mới có con người cần đến ta để
thực hiện cõi sơ tâm; còn những nơi khác nơi vùng xa, vùng khô cằn sỏi đá v.v…
nơi mà con người thực sự đang khát pháp, nghèo khổ, thất học, cần mái trường, cần
tình người, cần những tấm lòng xây dựng, bàn tay cứu giúp, chỉ dạy, chỉ hướng chuyển
tâm … để biết làm lành lành dữ, thì đó là nơi mà chúng ta sợ, không dám đến vì
nhiều lý do …. Cho nên, « bịnh khổ
không còn là thuốc hay. Hoạn nạn không
còn làm giải thoát. Chướng ngại thì nên xa lánh, v.v và v.v …… »4.
Chúng ta đã đánh rơi lời nguyện ban đầu của cõi sơ tâm
của chính mình, bên con đường đi, bên cuộc đời và rồi trong ta còn lại
gì ?
Trong một buổi nghe Nhạc Thính Phòng với Chủ đề
« Tình ca muôn thưở » được Tổ chức vừa qua, vì là người mang tâm hồn
yêu âm nhạc, sống nhiều về nội tâm, nhạy cảm với từng cơn sóng của cõi tâm …
tôi đã ngồi lắng nghe những bản nhạc được trình diễn. Thật là tuyệt vời, khi
được thả hồn theo lời ca, tiếng nhạc… quên đi những ưu tư, phiền muộn của đời
sống.
Âm nhạc, thi ca, văn hoá không thể thiếu trong đời sống
của con người, tạo thành nét đẹp êm dịu, thanh cao, ý nghĩa, thanh bình trong
cuộc sống văn hoá của con người.
Trong Phật giáo, đức Phật là người rất yêu thích thiên
nhiên. Cây, lá, rừng, núi, sông, biển, bầu trời, không gian rộng, con người
v.v… đều có tiếng nói riêng biệt, nếu ai biết lắng nghe. Do từ sự chứng đắc,
nên lời nói của Ngài trở thành trường thiên thơ nhạc, thật kỳ diệu, cao đẹp,
phong phú … mà chưa có một tôn giáo nào có được rừng Kinh sách đồ xộ như vậy; có
thể chuyển hoá tâm người, như những giọt mưa cam lồ tưới xuống tâm hồn khô cằn,
khổ đau của những người lữ hành lê bước qua vùng sa mạc của vọng mê. Do đó, tùy
theo địa phương, tùy theo quốc độ, lời Ngài dạy đã được ghi chép thành Kinh,
được chuyển biến đa dạng tùy theo ngôn ngữ, trở thành những bản Kinh vô cùng
phong phú, có thể chuyển hoá tâm người đến cõi lành, sống thực, nối lại tình
người…
Ngồi lắng nghe nhạc, với từng người ca sĩ, lòng tôi thật
vui. Niềm vui của hỷ lạc, nhẹ nhàng… Có một bản nhạc được trình diễn, có đem
lại cho tôi vài suy tư. Bản nhạc « Khúc Thụy Du », thơ của Thi sĩ Du
Tử Lê được phổ nhạc….
« Hãy nói về cuộc
đời. Khi tôi không còn nữa. Sẽ lấy được những gì. Về bên kia thế giới. Ngoài
trống vắng mà thôi. Thụy ơi, và tình ơi !
Như loài
chim bói cá. Trên cọc nhọn trăm năm. Tôi tìm đời đánh mất
Trong vũng nước cuộc đời. Thụy ơi, và tình ơi !
Đừng bao
giờ em hỏi. Vì sao ta yêu nhau. …. Thụy bây giờ về đâu ? ».
Lời thơ được phổ nhạc hay quá, gieo réo rắc lòng người,
để nói lên một cảm xúc, một quan điểm, một nhận thức về đời người. Thụy có thể
là tên một người con gái nào đó, được người yêu thầm gọi tha thiết khi đánh
mất, chia lìa hoặc giả, Thụy cũng có thể là một giấc mơ, một thoáng chốc vô
thường của đời người, mà người đi qua, bước trên cầu sinh tử, cảm thấy trống
vắng, hối tiếc, bâng khuâng, ưu tư trên bước đường đi về nhà, để thấy có sự
ngăn cách giữa hai đời sống và không mang theo được gì về bên kia thế giới, có
chăng chỉ là sự trống vắng…
Chúng ta đồng cảm với lời bản nhạc, tâm trạng bồi hồi,
xao xuyến và điều đó, cái cảm xúc nầy đem đến sự suy tư về cuộc đời, cảm thấy
thật đáng buông lời tiếc nuối, thấy chỉ toàn là ảo ảnh…
Nhưng, với một chút nhỏ nhoi về học Phật và thực tập tu
theo giáo Pháp của đức Phật, có được một ít nhận thức về cuộc đời, chúng tôi
lại nhìn thấy được một khiá cạnh khác, hay thái độ tích cực khác của tinh thần
của người con Phật, nhìn về cuộc đời.
Thưa bạn, khi có mặt trên cuộc đời
nầy, chúng ta sinh ra với hai bàn tay trắng, với cái thân vài cân lượng, với
cái nghiệp lực của quá khứ đem vào đời sống hiện tại. Ân cha mẹ, ân quốc gia,
ơn của biết bao nhiêu người tạo ra : người thầy, người nông phu, người tạo
ra những vât thực v.v.. trong sự liên hệ duyên sinh, để cho chúng ta lớn lên,
trưởng thành cả thân và tâm. Hình như, chúng ta thu được về được nhiều quá, cho
chính chúng ta và cũng có nghĩa là đang mang những ân nặng.
Khi có mặt trên hành tinh xanh nầy,
chúng ta đã vô hình chung tự làm nguyện ước với trái đất, vũ trụ và con người.
Có một nhà thơ nào đó đã nói rằng : « Em ơi ! khi yêu nhau, là chúng ta đã cưới nhau rồi … ».
Không phải là chúng ta đã thành hôn với trái đất nầy, đã lặn lội qua bao nhiêu
sương gió, băng rừng lội núi, treo non vuợt biển, với bao nhiêu là kiếp sống đã
qua, hiện giờ, chịu nhiều thống khổ trong vòng trầm luân, để đi tìm người yêu
của chính mình- đó con người và vũ trụ.
Thụy là giấc mơ, là ngăn đôi giữa hai
làn nước …, nhưng, chúng ta chưa từng bao giờ ngăn cách, dù là phù du, hư ảo.
Với cái thân năm ấm, khi trưởng thành,
nhận thức đầy đủ về thân phận con người thì tình yêu nẩy nở. Từ lời nguyện của
cõi sơ tâm, đi vào cuộc đời với cái tâm nguyện khởi phát, mong làm đuợc một
điều gì đó có ý nghĩa, có đóng góp cho con người. Mỗi chập tư tưởng, mỗi sát na
là mỗi đời sống có mặt, đi qua. Giấc ngủ là tiếp nối của đời sống, với những tế
bào sinh diệt, diệt sinh và chưa từng bao giờ, sự vô thường không có mặt trong
mỗi con người và trái đất.
Được học Phật, chúng ta cảm thấy mình
có được nhiều quá, một gia tài tâm linh vô giá, sáng chói không ngằn mé của tuệ
giác, có từ bi hỷ xả … do sự tu tập, quán chiếu và chuyển hoá tâm, nên có thể đi
về bất cứ nơi chốn nào trong các cõi. Có thể, chúng ta không có những tài sản
hay những sở hữu gì mang theo, vì đó là vật chất hữu hình, duyên hợp …Nhưng,
chúng ta đã được cung cấp rất nhiều trong suốt cuộc đời, nên khi buông tay ra
đi, có thể mang theo nghiệp lực : thiện hoặc ác nghiệp. Người con Phật do
tiếp cận với giáo Pháp của đức Phật, quán chiếu và chuyển hoá, thanh tịnh tâm,
với nguyện ước của cõi sơ tâm vào đời, sống trực tâm, thực hiện hạnh lành…,
chúng ta cảm nhận được Chân thường trong Vô thường, thấy được an lạc trong bất
an, vững vàng, tự tại, không sợ trước các biến động và quan trọng nhất, thấy biết được Tánh Phật trong tâm mình,
nơi đó là suối nguồn an lạc và hạnh phúc, chuyển mê khai ngộ, đem cho con người
vượt qua biển khổ của đời sống, sinh tử, và đó là điều tố ư quan trọng, có thể
thực sự cần chia sẻ đến mọi người nếu có duyên tiếp cận, để tạo hạnh phúc hoà
bình trên cõi đời nầy.
Với sức nguyện của cõi sơ tâm, có phải là chúng ta có
được và mang theo nhiều quá, phải không bạn ? vì những gì mà chúng ta mang
theo đó, là tâm bồ đề, rắn chắc hơn kim
cương, không bao giờ vỡ, thoái chuyển và theo ta như bóng với hình, luôn luôn
hằng sáng trong tâm, để đạt đến- đó là
Tánh Phật, nguồn cội của các pháp..
Bàn tay em mở, năm ngón phù du
từng ngọn bút, vẽ vời trăm năm cũ
có đi qua, từng bước ngọc thanh cao
lòng mở rộng, bầu trời sao đẹp quá
em vô cùng, trời đất mở lượng tâm
tình bay rộng để là thiên niên kỷ
em sẽ thấy vườn lòng hoa thật đẹp
hương thơm nồng, nét Đẹp của nhân sinh …
Mượn cảnh để nói lên những điều muốn nói, về nguyện lực,
về tuổi trẻ, lý tưởng, tình yêu, về con đường hoàn thiện mà những người con
Phật muốn thực hiện trong cuộc đời nhiều biến động, dối trá nầy … để mong trở
về cõi sơ tâm. Đó là cái tâm ban đầu khởi phát của lý tưởng mà một người nguyện
ước. Sự chia cách của Mây và Cỏ có chăng là do lòng người, khi lòng người
trong, biết hy sinh, biết nghĩ đến người… thì không gì có thể gây nên ngăn
cách, làm đánh mất cõi sơ tâm.
Dù vẫn biết rằng học hỏi còn kém cỏi, biết chút ít và có
áp dụng giáo Pháp của Đấng Cha Lành vào đời sống hàng ngày, tuy nhiên, lòng vẫn
còn nhiều tạp niệm, chưa thanh tịnh hoàn toàn, nên lời văn thơ vẫn thô thiển,
chất phát … Nhưng, với tất cả tấm lòng trân quí, xin kính tặng « cõi sơ
tâm » đến tất cả mọi người– dù bạn
có đồng ý hay không, cũng xin nhận nơi đây như một tấm lòng quí kính, chia sẻ..
Một
buổi chiều
lắng
nghe tiếng chân Thu về
Ngày
17.10.2010
___________________
1, 2 : Tư tưởng Kinh Hoa Nghiêm
3 : Phẩm Phổ Môn,
Kinh Pháp Hoa
: Khuyết Phát Bồ Đề Kinh Văn, Ngài Thất Hiền Đại sư, Thầy Trí
Quang dịch
Discussion about this post