AN CƯ , NUÔI LỚN TÂM BỒ ĐỀ
Thích Trí Quảng
Mùa An cư ba tháng, một
tháng đã trôi qua rồi, quý vị tự kiểm điểm lại xem đã làm được gì và hai tháng
còn lại sẽ làm gì. Một năm Phật dành chín tháng để chúng ta đi giáo hóa, ba
tháng an cư tĩnh tâm để trưởng dưỡng đạo tâm, tăng cường đạo lực; vì chín tháng
đi giáo hóa, tiếp cận với xã hội có nhiều điều phức tạp làm đạo tâm chúng ta bị
sa sút. Thật vậy, khi đi giáo hóa gặp việc này việc khác, gặp người tin Phật,
cũng gặp người chống phá Phật, khiến chúng ta phải đối phó, làm tâm Bồ-đề chúng
ta bị suy yếu. Vì vậy chúng ta cần nuôi lại tâm Bồ-đề cho vững. Trong ba tháng
an cư, chúng ta ngồi yên coi chín tháng mình đã làm gì, ở đâu, tiếp xúc với ai
và cách đối phó của chúng ta có thích hợp với đạo hay không. Thích hợp với đạo
là giữ được tâm thanh tịnh, còn không thích hợp với đạo thì phiền não sanh
khởi, kiểm điểm lại thấy điều nào còn kém, phải sửa đổi.
Trên bước đường du hóa, có đụng chạm với cuộc đời tất nhiên
có phiền não sanh ra. Đụng chạm với cuộc đời nghĩa là sáu căn tiếp xúc với sáu
trần, tức mắt thấy tai nghe. Làm việc, có điều mình thấy và nghe thì bằng lòng,
nhưng cũng có việc nghe thấy điều bất bằng mà ta thường gọi là chướng tai gai
mắt, chắc chắn phiền não nhân đó phát sanh. Nếu ta không tận diệt nó, mỗi lúc
nó tăng trưởng thêm, đến lúc còn mặc chiếc áo tu, nhưng Bồ-đề tâm chúng ta đã
bị chết mất và lòng chúng ta còn tham chấp phiền não nhiều hơn thì bị đọa. Vì
vậy, người thấy ta không phát tâm nữa và chính quyền cũng không ủng hộ, dẫn đến
Phật giáo bị suy đồi.
Ba tháng an cư, Phật dạy chúng ta dừng tất cả mọi việc và
kiểm điểm việc tu hành để xóa bỏ những sai lầm, phiền não nổi lên, ta rút kinh
nghiệm diệt sạch thì lần thứ hai, việc tương tự xảy ra, ta có phiền não nữa hay
không. Lần thứ nhất, gặp người nói xấu, tâm ta khởi lên thế nào. Nói việc không
thiệt là nói xấu, còn họ nói đúng thì không phải là nói xấu. Họ đổ cho mình
việc sai quấy, luật nói rằng đem việc ác không có căn cứ để vu khống. Gặp như
vậy, ta có buồn giận hay không. Nếu nổi giận thì phản ứng của chúng ta thế nào,
thường là chúng ta nói trả lại, hay đính chính rằng mình không có lỗi đó. Nhưng
nặng hơn nữa, chúng ta tìm cách nói xấu lại họ. Bây giờ mùa tu, chúng ta kiểm
chứng lại thấy có lần mình đã nói xấu lại họ, nghĩa là chúng ta đã tổn giảm tâm
Bồ-đề thì cần nuôi nó lại cho mạnh. Kiểm điểm thấy người có quyền vu khống ta,
nhưng ta không có quyền vu khống, nói xấu lại họ, hay không có quyền đính
chính. Vì nếu cứ nói xấu qua lại, cãi nhau là người đời. Phật dạy rằng tu hành
không được nói xấu, mà mình đã phạm như vậy là đã tổn giảm đạo tâm. Nếu đạo tâm
bị tổn hại mà mình không bồi dưỡng, thì người thấy ta đã hiện tướng phiền não,
kết quả là trước kia họ nói xấu ít, nhưng nay họ nói xấu nhiều hơn, khiến chúng
ta càng bực tức, chẳng những chửi mắng họ, thậm chí còn đánh họ; đó là do phiền
não tích tụ lâu trong lòng không chịu được.
Vì vậy, mùa tu, chúng ta kiểm điểm, hạn chế sai phạm này,
thực tế họ nói xấu ta là họ có lỗi, nhưng kiểm điểm theo Phật là chúng ta có
lỗi, vì ta không được quyền giận, không được ham muốn. Giận phát xuất từ ham
muốn được người cung kính. Ta nghĩ rằng họ không cung kính thì cũng không được
xúc phạm ta, phải để yên cho ta tu. Trước kia, có lần tôi cũng phạm sai lầm
này, không cần người cung kính, nhưng cần để yên cho mình tu. Họ không cung
kính và không để yên cho ta tu là bước thứ hai nặng hơn rồi, nếu ta không điều
chỉnh thì bước thứ ba, ta sẽ bị đọa, khó cứu được.
Vào cuối thập niên 50, khoảng năm 1958, 1959, tôi lên Đồng
Xoài thuyết pháp. Bấy giờ họ không cho chúng ta yên để tu, vì chính quyền Diệm
muốn tận diệt Phật giáo, nếu để yên ta tu, họ sợ đạo Phật sẽ phát triển mạnh
lên. Họ không để yên cho tôi tu thì tôi xuống đường tranh đấu, tổ chức sinh
viên học sinh biểu tình chống chế độ Diệm. Họ bắt tôi nhốt vô khám và chụp mũ
là cộng sản nên bị biệt giam. Ở tù bị bỏ đói khát, tôi biết mình đã rơi vô địa
ngục A-tỳ. Nhưng khi đọa địa ngục rồi, nhờ căn lành đời trước, mới phát tâm Bồ-đề,
tự kiểm điểm việc mình đã làm, thì nhận thấy mình hoàn toàn làm trái lời Phật
dạy, thấy sự sai lầm của mình. Vì vậy, tôi mới điều chỉnh lỗi đó thì bấy giờ
con người tôi có suy nghĩ hoàn toàn khác. Khi họ không cho tu, tự nghĩ mình hết
phước nên không được tu. Bây giờ, các thầy còn có phước hơn tôi lúc 1963, vì
hiện tại Nhà nước để yên cho mình tu, đó là điều tốt mà chúng ta phải thấy. Hết
phước, muốn tu, muốn lạy Phật, tụng kinh trong ngục giam cũng không được. Cho
nên khi ra tù, tôi nghĩ mình có điều kiện tụng kinh, lạy Phật, học hành, nên
tôi dồn tất cả nỗ lực cho việc tu học. Ở Nhật Bản trong suốt tám năm tôi chuyên
tu, chuyên học cảm thấy an lạc vô cùng. Nhờ tám năm thực tập lời Phật dạy, tâm
tôi đổi khác thì hoàn cảnh cũng đổi khác. Đó là kinh nghiệm mà tôi muốn chia sẻ
với quý thầy. Tôi nhiếp tâm tu học, nên chuyển đổi được nghiệp là phước sanh
thì người không cấm mình tu, mà còn tạo điều kiện giúp đỡ mình tu.
Người ta không cho tu là biết mình hết phước, nhưng do mình
làm gì mà hết phước. Kiểm tra suy nghĩ từ lòng mình, mình ghét họ, chống họ,
thì chắc chắn hiện tướng không dễ thương, có lời nói không chấp nhận được.
Nhưng khi lòng mình hết nghiệp này rồi, ý thức chống đối, căm ghét, nói xấu
không còn, thì người chấp nhận mình. Trước kia, tôi không ưa đạo Thiên Chúa,
nhưng tu hành, dẹp bỏ được nghiệp ác này rồi thì phước sanh ra. Chúng ta thấy
Phật tại thế có sức cảm hóa ngoại đạo, chuyển hóa họ thành người đồng hành đồng
sự với Ngài. Thật vậy, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên theo đạo thần lửa, nhưng đã trở
thành đại đệ tử của Phật. Ba anh em Ca Diếp theo đạo thần rắn, họ đã từng hại
Phật, nhưng được Phật cảm hóa, họ trở thành người nhiệt tình nhất trong một
ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo theo Phật. Đức Phật đã làm như thế, ngày nay
ta tu pháp Phật, tại sao không làm theo Phật, mà lại làm khác. Ta ghét ngoại
đạo thì làm sao họ thương ta được, tạo thành thế đối kháng. Thực tế tôi thương
họ thì họ cũng thương được tôi. Điển hình là trong lần họp quốc tế, tôi gặp Đức
Tổng Giám mục người Nhật ở Ý, ông biết tôi tốt nghiệp ở Nhật, nên ông mời tôi
có dịp sang Nhật thì đến nhà thờ của ông. Vì tôi có thiện cảm với ông, nên ông
cũng có thiện cảm với tôi, nghĩa là chấp nhận nhau được, nên có thể trao đổi
với nhau, tôi học được điều hay của ông là cầu nguyện và ông cũng học được ở
tôi về tu Thiền. Được như vậy là tôi có thêm bạn. Khi sang Nhật, các thầy mời
tôi về chùa ở, nhưng tôi nói rằng ở chùa nhiều rồi, vô nhà thờ của vị Tổng Giám
mục ở, một đêm nói chuyện đạo với ông, tôi đã biết thêm sinh hoạt của ngoại
đạo.
Khi tâm ta dẹp bỏ được sự thương ghét thì cuộc đời này không
có ai đáng ghét nữa. Còn ta không kiểm lại tâm, cứ nghĩ ta đúng, người khác là
người đời, là ngoại đạo không đúng, thì như vậy ta sẽ bị cô lập, không tồn tại
được. Một số vị theo Phật giáo Nguyên thủy đã rơi vô cái chấp sai lầm này, vì
cứ nghĩ rằng nguyên thủy là gốc, là đúng, phải quấn y Ấn Độ mới đúng. Còn Phật
giáo Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam
mặc khác là không đúng, nên chỉ có Nguyên thủy đúng thôi. Rút kinh nghiệm sai
lầm đó, ngày nay có sự thay đổi là tạo được mối quan hệ giữa Phật giáo Việt Nam
với Phật giáo thế giới, tức xóa bỏ được ranh giới Nguyên thủy và Đại thừa; nhờ
vậy chúng ta mới có những diễn đàn của Phật giáo thế giới để các vị tu theo
Nguyên thủy, Mật tông, Đại thừa cùng ngồi lại với nhau để trao đổi đưa tới
những điểm chung nhất làm lợi lạc cho nhân loại. Vì vậy, Phật giáo ngày nay đã
có mối quan hệ mật thiết với nhau, bắt đầu hiểu nhau. Phật giáo Campuchia, Lào,
Thái Lan, Sri Lanka là Phật giáo Nguyên
thủy, tôi đã gặp các vị tôn túc của các nước này và trao đổi với nhau, có được
mối quan hệ sâu sắc. Hòa thượng Viện trưởng Đại học Mahachulalongkorn đã trao
cho tôi bằng cấp Tiến sĩ danh dự về Hoằng pháp, tức là họ đã chấp nhận Phật
giáo Việt Nam, hiểu được việc làm của Phật giáo Việt Nam. Và tôi cũng
mời vị này sang Việt Nam
để cấp bằng Tiến sĩ danh dự. Có thể khẳng định rằng Phật giáo Nguyên thủy và
Phật giáo Đại thừa là một, không khác và không có gì chống nhau. Chúng ta cùng
có trách nhiệm đem lời Phật dạy truyền bá cho thế giới hiểu biết và áp dụng
được lợi lạc trong cuộc sống.
Trên bước đường tu, nếu thực sự tu hành thì kiểm điểm thấy
được sự sai trái của mình và điểm tốt của người. Đức Lục tổ Huệ Năng cũng dạy
rằng nếu là người chân tu thì không thấy lỗi người, chỉ thấy lỗi của mình để
sửa đổi cho tốt thì cuối cùng tất cả mọi người đều tốt. Người thấy ta mà họ
không cung kính, phải biết ngay rằng mình có điều gì sai trái nên họ mới không
cung kính, nghĩa là tự tìm được lỗi của mình rồi thì ta cần khắc phục khuyết
điểm này. Trong thập niên 40, 50, phần nhiều tu sĩ Phật giáo thất học, ít có
người học đến tú tài; trong khi đó các Linh mục xuất thân từ đại chủng viện đều
có bằng cấp đại học. Như vậy, họ xem thường mình là điều tất yếu. Nhận thức sự
kém cỏi này, tôi khắc phục nhược điểm bằng cách nỗ lực học và khi mình cũng có
bằng cấp bằng họ hay hơn họ, chắc chắn họ không dám khinh thường ta nữa.
Đạo Phật được mệnh danh là đạo trí tuệ, vì vậy, mình dốt là có
lỗi. Ngày nay, giới Phật giáo chúng ta tương đối ở tầng cao mới, cho nên tôi cố
nâng cao trình độ học vấn của Tăng Ni bằng cách quy định rằng nếu không học hết
lớp 12 thì không cho thọ Cụ túc giới. Còn các vị tu sĩ lớn tuổi khi thi khảo
hạch cũng phải trả lời được 160 câu hỏi mới được thọ đại giới. Và hiện nay, số
Tăng Ni trẻ có văn bằng thạc sĩ, tiến sĩ cũng tương đối nhiều. Vì vậy, đạo
Thiên Chúa chẳng những không xem thường mình mà còn mời các tu sĩ Phật giáo qua
nói chuyện ở đại chủng viện. Trình độ ngang nhau thì mới có thể tương kính lẫn
nhau được. Đừng phạm sai lầm một cách ấu trĩ như một số người nói ngang bướng
rằng “tôi dốt kệ tôi”. Nếu không có điều kiện học ở trường lớp, thì cũng phải
cố gắng tự học, tự đọc sách để nâng trình độ kiến thức của mình. Một số người
cũng phạm sai lầm không cho đệ tử đi học vì sợ nó giỏi hơn mình sẽ không dạy
được nó. Đệ tử giỏi hơn thì về sau họ mới dễ dàng phát triển được sự nghiệp của
mình, làm rạng danh mình chứ.
Ngoài việc kiểm điểm để nâng cao tri thức, việc thứ hai chúng
ta thường nghe bên ngoài phê phán rằng người tu là lực lượng ăn hại, phi sản
xuất, không làm gì cho xã hội. Nghe nói vậy, cũng bực tức chứ. Riêng tôi bình
tâm suy nghĩ nhận thấy họ nói vậy cũng đúng. Suy nghĩ của người ngoài phê phán
Phật giáo như đã nói cũng không phải mới lạ gì, mà điều này chư vị Tổ sư xưa
kia cũng đã từng suy nghĩ như vậy. Phật giáo Ấn Độ giữ đúng theo luật thì cấm
chư Tăng không được làm gì. Nhưng Phật giáo truyền sang Trung Hoa, Nhật Bản,
Việt Nam là Phật giáo Đại thừa; nếu giữ đúng như Phật giáo Nguyên thủy, chắc
chắn Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam không thể có đạo Phật. Thật vậy, lịch sử cho
thấy Phật giáo Nguyên thủy đã vào các nước này trước, nhưng không tồn tại được,
vì xã hội không chấp nhận người tu không làm gì, chỉ đi khất thực. Khi Phật
giáo truyền sang Trung Hoa, họ gọi tu sĩ Phật giáo là người rợ Hồ, tức là
“người mọi”, họ không thể chấp nhận các thầy khỏe mạnh mà lại theo đạo đi xin.
Bấy giờ, các nhà truyền giáo kiểm điểm thấy pháp khất thực không thích hợp với
phong tục tập quán của Trung Hoa và các ngài cũng hiểu rõ rằng đến đây, cần
phân biệt ý nghĩa của pháp Phật dạy Thanh văn khác với pháp của Bồ-tát. Ở đâu,
khi nào và đối tượng là ai thì nên áp dụng pháp Thanh văn.
Muốn diệt tận dục nhiễm, cần cắt bỏ tất cả mọi việc bên ngoài
để đắc quả A-la-hán, sống với Niết-bàn tức là không lệ thuộc trần gian, tuy còn
sống trên cuộc đời nhưng không cần đến ăn uống, ngủ nghỉ. Tuy nhiên, đối với
hàng Bồ-tát, Phật dạy phải cứu nhân độ thế, không dạy người ta trở thành người
ăn hại. Vì vậy, theo Bồ-tát thừa hay Đại thừa, đạo Phật muốn tồn tại, tu sĩ
phải là lực lượng hữu ích cho xã hội. Từ đó, các nhà truyền giáo Đại thừa triển
khai bộ kinh Pháp hoa thay cho kinh Nguyên thủy.
Kinh Pháp hoa có hai phần, phần một chuyển từ Nguyên
thủy sang Đại thừa và phần hai thuần Đại thừa. Phần một gọi là Tích môn, chuyển
từ Nguyên thủy sang Đại thừa; cho nên trước khi nói kinh Pháp hoa, Phật
nói kinh Vô lượng nghĩa, hay nói cách khác, trước khi nói Đại thừa, Phật
nói kinh Nguyên thủy. Thật vậy, trước khi nói Pháp hoa, Phật nói rõ rằng
Ngài xuất hiện trên cuộc đời này là vì lợi ích cho số đông, tức là việc của
Bồ-tát, không phải xuất hiện để ôm bình bát đi xin; nhưng vì lòng từ bi đối với
những người căn tánh hạ liệt, nếu bảo họ cứu đời thì họ không theo Phật được.
Vì vậy, Phật phải khai phương tiện bằng cách nói kinh Vô lượng nghĩa là
nói tất cả các pháp môn để thích ứng với từng chỗ, từng người, từng lúc khác
nhau giúp cho mọi người thăng tiến theo Phật được. Bấy giờ, đối với hàng Tỳ-kheo
là người nhàm chán sanh tử, hướng tâm đến Niết-bàn, Phật bảo họ phải bỏ hết để
đi khất thực và trở về thiền định. Mục đích của pháp môn này nhằm rèn luyện con
người trở thành người đức hạnh là người không ham muốn, không bực tức và quyết
định sáng suốt, không si mê. Chính vì vậy mà Tỳ-kheo bắt đầu bỏ thế duyên để
tâm thanh tịnh, còn lo xây chùa, phải nghĩ đến tiền bạc, sắt thép, thợ thuyền…
làm sao giải thoát được. Muốn giải thoát, phải bỏ hết, đi xin, ngủ ở gốc cây,
tâm hoàn toàn thanh thản; như vậy họ là người đạo đức, không làm tốt cho cuộc
đời cũng không làm cuộc đời xấu hơn, thì cũng tiêu biểu cho mẫu người dễ
thương. Còn người khất thực được cho thì vui, không cho thì mắng người ta, đó
là sai lầm.
Hàng đệ tử nhỏ của Phật cũng có điểm dễ thương là có đạo đức;
nhưng nếu cứ ăn rồi chờ chết thì không phải là đệ tử Phật. Vì vậy, phẩm thứ hai
của kinh Vô lượng nghĩa đề cao trí tuệ, nghĩa là hàng Thanh văn không
vướng bận việc cơm ăn chỗ ở để còn rộng thì giờ làm việc cao hơn. Ý thức lý
này, tôi luôn tâm niệm rằng nhường tất cả cho mọi người, nhưng việc học thì
không nhường ai, phải học bằng hay hơn người. Học tới già vẫn học, năm nay tôi
đã 75 tuổi, có thì giờ vẫn đọc sách, vì sợ hiểu biết của mình bị đóng khung.
Như vậy, các thầy không làm để thì giờ học, không vướng bận việc lặt vặt để còn
suy nghĩ giáo pháp; đó là việc thứ hai của kinh Vô lượng nghĩa.
Việc thứ ba của kinh Vô lượng
nghĩa, sau khi có được đạo đức và hiểu biết thì phải giúp cuộc đời, phải
làm lợi ích cho chúng sanh, không phải để ăn hại. Vì vậy, phẩm thứ ba nói về
mười điều công đức của Vô lượng nghĩa, hay của Pháp hoa. Điều thứ
nhất là người chưa phát tâm Bồ-đề, ta phải làm cho họ phát tâm, người chưa an,
ta phải làm họ an, là cứu đời; nhưng muốn cứu đời, như trên vừa nói phải xây
dựng cho mình có đạo đức và trí tuệ.
Đi vào cuộc đời làm lợi ích cho
người thì cuộc đời mới quý trọng chúng ta. Phật giáo thời Lý Trần còn lưu danh
thơm trong sử sách cho đến ngày nay là nhờ những đóng góp to lớn cho xã hội
thời ấy. Vào thời Lý, Phật giáo chúng ta có được Sư Vạn Hạnh, ngài đào tạo được
Lý Công Uẩn làm vua nổi tiếng là bậc minh quân nhân từ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Làm lợi ích cho cuộc đời là như thế. Ông làm vua, đã xây dựng biết bao nhiêu
ngôi chùa để người phát tâm, nghĩa là người chưa phát tâm thì làm cho họ phát
tâm.
Đến đời Trần, Phật giáo mạnh hơn
nữa, xuất hiện cứu đời. Điển hình là vua Trần Nhân Tông chống giặc ngoại xâm,
hết lòng vì nước vì dân. Lúc ngài mới trên 40 tuổi, cái tuổi sung mãn mà ngài
nói một câu khiến người tu chúng ta phải suy nghĩ, rằng quân Nguyên Mông không
dám xâm lăng nước ta nữa, nên ngài đi tu. Như vậy, xã hội không an thì ngài làm
cho an; nếu không, để quân Nguyên Mông cai trị thì nhân dân ta phải khổ; vì
vậy, ngài phải lãnh đạo chống giặc, nhưng thắng giặc xong, ngài rũ áo lên núi
Yên Tử ẩn tu. Rõ ràng ngài đã thể hiện công đức thứ hai của Vô lượng nghĩa
kinh là người không an thì làm cho an.
Phật giáo ở thời đại ngày nay,
chúng ta tổng hợp Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa, hình thành Giáo
hội Phật giáo Việt Nam, ai ở vị trí nào thì phát huy mặt đó. Hành giả muốn cầu
giải thoát phải tu theo Nguyên thủy, buông bỏ tất cả để tâm được giải thoát,
nghĩa là chứng cho được pháp không và sanh không, tức chúng sanh nhẫn, cuộc đời
có làm gì thì chúng ta coi đó là đối tượng để tu. Làm sao ta hóa giải tất cả
đều không, họ chống, ta vô hiệu hóa thì họ không chống được ta và ta cũng không
hại họ. Ngoài ra, hành giả không lệ thuộc cuộc sống, không vướng bận việc ăn ở,
hiện hữu để làm đạo là việc chính và phấn đấu cho đạt được những pháp căn bản
của Phật giáo Nguyên thủy.
Đối với người chưa phát tâm,
chúng ta xuất gia tu hành, làm biểu tượng cho họ thấy được rằng Đức Phật là
thái tử bỏ ngai vàng đi tu khiến cho Trời người phải cung kính quy ngưỡng hàng
ngàn năm. Thấy như vậy, họ cũng phát tâm sống theo lời Phật dạy. Tuy nhiên,
người phát tâm tu được cũng phải có căn lành.
Tóm lại, Đức Phật và chư vị Tổ sư
đã thành tựu quả vị giác ngộ giải thoát, bước theo dấu chân các Ngài, chúng ta
phấn đấu làm theo, nếu không được như các Ngài, nhưng trong tương lai, hay
trong các kiếp sau, chúng ta cũng sẽ được. Trong mùa cấm túc an cư, cầu nguyện
cho tất cả hành giả xóa phiền não, nuôi lớn tâm Bồ-đề để sau mùa an cư, dùng
tâm thánh thiện này cảm hóa người, khiến cho họ phát tâm và được an lành.
Discussion about this post