DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 41
VẤN
ĐỀ CẦU SIÊU CÚNG CƠM
THÂN
NHÂN QUÁ VÃNG CÓ ĐƯỞNG HƯỞNG KHÔNG
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa
quý thính giả,
Chúng
tôi nhận được mấy câu hỏi của quý thính giả gửi về
yêu cầu giải đáp, xin trích đọc sau đây:
Thưa
quý Ban Biên Tập,
Gia
đình tôi theo đạo Phật từ xưa, trong nhà có bàn thờ Phật,
mẹ tôi ăn chay mỗi tháng bốn ngày. Nhưng bản thân tôi và
các anh chị em, kể luôn cả cha tôi nữa, đều không biết
gì nhiều về đạo Phật, ngoại trừ bàn thờ Phật và chiếc
áo tràng màu khói hương của mẹ tôi.
Hôm
nay anh chị em chúng tôi có mấy thắc mắc muốn hỏi quý Ban
Biên Tập vì chúng tôi không thỏa mãn với câu trả lời của
mẹ tôi, là người Phật tử hiểu đạo nhất trong nhà.
Thắc
mắc thứ nhất:
Chúng
tôi thường thấy những gia đình đạo Phật đến chùa làm
lễ cầu siêu cúng cơm cho thân nhân đã chết hoặc những
dịp đám giỗ, vân vân. Vậy xin hỏi rằng những vụ cầu
siêu cúng cơm như thế, thân nhân đã chết có được hưởng
gì không?
Thắc
mắc thứ hai:
Nếu
nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm các
điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao có
nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu là
sẽ được siêu độ, được không ạ.
Mẹ
chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự
độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng
kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần,
cho là khi chết sẽ có các thầy lo.
Chúng
tôi không nghĩ như mẹ, nhưng cũng không hiểu rõ, nên gửi
thư này xin Ban Biên Tập Thư Viện giải thích.
Xin
cảm ơn quý vị.
Thưa
quý thính giả,
Về
thắc mắc thứ nhất, chúng tôi xin nhắc lại phần trình bày
của chúng tôi trong một kỳ phát thanh trước đây, như sau:
“Theo
Phật giáo, cái chết là sự chấm dứt của đời sống tâm-vật
lý của cá nhân. Chết là sự diệt tắt của sinh lực, tức
là đời sống tâm linh và vật lý, cùng với hơi nóng và thức.
Chết
không phải là sự tiêu diệt hoàn toàn của một chúng sanh,
mặc dầu kiếp sống chấm dứt. Cái tiềm lực làm sống chúng
sanh không bị tiêu diệt.
Cũng
như ánh sáng đèn điện là biểu hiện bề ngoài mà ta có
thể thấy của luồng điện vô hình, chúng ta là biểu hiện
bề ngoài của luồng nghiệp vô hình. Bóng đèn có thể vỡ
và ánh sáng có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn tồn tại,
và ánh sáng có thể phát hiện trở lại nếu ta đặt vào
đấy một bóng đèn khác. Cũng như thế, sự tan rã của thể
xác không làm xáo trộn luồng nghiệp lực, và sự chấm dứt
của thức hiện tại dẫn đến sự phát sanh mới. Tuy nhiên,
không có gì trường tồn bất biến, như một thực thể đơn
thuần, “chuyển” từ hiện tại sang tương lai.
Trong
trường hợp nêu trên, nếu người chết tái sanh trở lại
vào cảnh người, chập tư tưởng cuối cùng tất nhiên là
một loại tâm thiện. Thức-tái-sanh là từ tâm thiện ấy
phát sanh, tự nhiên chuyển đến cái trứng và tinh trùng tương
xứng trong cảnh người.
Như
thế có nghĩa là cho đến lúc chết, luồng nghiệp lực vẫn
luôn luôn trôi chảy, không có một điểm thời gian gián đoạn.
Ngay lúc chết những chập tư tưởng vẫn liên tục kế tiếp
như trong đời sống.
Hiện
tượng chết và tái sanh diễn ra tức khắc, dầu ở bất cứ
nơi nào, cũng như làn sóng điện phát ra trong không gian
được thâu nhận tức khắc vào bộ máy thâu thanh. Luồng
nghiệp lực trực tiếp chuyển từ cái chết ngay đến tái
sanh, không trải qua một trạng thái chuyển tiếp nào. Phật
giáo thuần túy không chủ trương có linh hồn người chết
tạm trú ở một nơi nào, chờ đến khi tìm được một nơi
thích hợp để đầu thai.”
Trên
đây là quan điểm của Phật giáo Nguyên Thủy, hay còn gọi
là Nam Tông, trích trong cuốn Đức Phật và Phật Pháp
do Hòa Thượng Narada biên soạn.
Về
phía Phật giáo Bắc Tông, hay còn gọi là Đại Thừa, thì
quan niệm rằng không hẳn là tất cả mọi người sau khi
chết đều tái sinh ngay lập tức. Trường phái này cho
là những người có nghiệp rất thiện thì ngay sau khi chết
sẽ sanh vào các cõi Tịnh, thí dụ cõi Tây Phương Tịnh Độ,
Đông Phương Tịnh Độ, vân vân, và những người có nghiệp
rất ác thì sau khi chết sẽ sanh ngay vào các cảnh giới ác,
như Địa Ngục, Ngạ Quỷ hoặc tái sinh thành các loài súc
sinh. Trường hợp đó gọi là “chết đây sinh kia”. Ngoài
các trường hợp đó, sau khi chết, người ta có thể còn lưu
tâm thức lại một thời gian trong trạng thái gọi là Thân
Trung Ấm, và mơ màng trong cảnh giới này từ 1 lần 7
ngày, cho tới 7 lần 7 ngày, là 49 ngày. Trong thời
gian đó, nhất là 21 ngày đầu, người đã qua đời vẫn còn
có ấn tượng mạnh mẽ về kiếp sống vừa qua. Và chính
từ niềm tin này, người ta coi trọng sự cầu nguyện để
giúp chuyển hóa tâm trạng người chết khiến cho thần thức
của họ hòa nhập được vào các cõi an lành.
Như
vậy thì cả hai truyền thống Phật giáo, Bắc Tông và Nam
Tông đều không nói đến những hình thức cúng kiếng cho
người đã chết từ lâu, hàng năm trời, mà chỉ có thể
giúp cho người mới chết, qua những lời khai thị, những
bài kinh, thốt lên từ tấm lòng chí thành thanh tịnh của
chư vị chân tu và thân nhân, hy vọng thần thức của Thân
Trung Ấm cảm được, mà tiêu dung được các tâm niệm xấu,
cởi mở được các nỗi oán hờn.
Nhà
Phật quan niệm rằng các loài hữu tình chúng sinh tiếp xúc
được với thế giới bên ngoài là nhờ ở ba thành phần,
gọi là “bộ ba Căn, Trần cảnh và Thức”.
Căn,
là bộ phận cơ thể,
Trần
cảnh, là đối tượng nhận thức của Căn
Thức,
là phần tâm thức vô hình, vốn từ Chân Tâm vọng khởi mà
chuyển thành, cũng tràn ngập khắp không gian như Chân Tâm,
là cầu nối giữa Căn và Trần cảnh, tức là cầu nối giữa
bộ phận cơ thể của chúng sinh và thế giới mà chúng sinh
nhận thức, “cảm” hoặc “thấy” được.
Đối
với một cơ thể đã chết, bộ phận cơ thể, là Căn, đã
ngưng hoạt động, có nghĩa là bộ ba đã mất một phần,
thế thì những sinh hoạt về vật chất như ăn uống, hiển
nhiên là không thể tiếp tục.
Có
người cho rằng sau khi đã qua đời, người chết vẫn còn
ăn, gọi là Thức thực. Như chúng ta đã biết, Thức vốn
vô hình, nếu có Thức thực thì cũng chỉ là “cảm” được
những tâm niệm thương ghét, an ủi, v.v… không thể “ăn”
được món ăn vật chất. Nếu quả thật là còn có sự thèm
ăn, thấy thân nhân bầy những món ngon, mà thần thức lại
không thể ăn được, thì chỉ thêm thèm thuồng đau khổ mà
thôi!
Sau
đây là câu hỏi thứ hai:
“
Nếu nhờ cầu xin mà được, vậy thì không cần siêng làm
các điều thiện, cứ thoải mái làm các việc ác, miễn sao
có nhiều tiền, khi chết nhờ quý tăng ni làm lễ cầu siêu
là sẽ được siêu độ, phải không ạ.
Mẹ
chúng tôi thì tin tuyệt đối vào khả năng “làm Phật sự
độ chúng sinh” của các thầy, nên không niệm Phật tụng
kinh, chỉ đến chùa làm công quả những ngày cuối tuần,
cho là khi chết sẽ có các thầy lo”.
Thưa
quý vị,
Để
hiểu rõ hơn về vấn đề “làm Phật sự độ chúng
sinh” và niềm tin “làm lễ cầu siêu là sẽ
được siêu độ”, chúng tôi xin gửi tới quý vị
lời giải thích ghi trong bộ Giáo Khoa Phật Học cấp 2, do
Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam ấn hành, như
sau:
…”
… Về tập tục tụng kinh siêu độ
cho người chết, theo hòa thượng Đạo An, vốn không phải
là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục
này chỉ bắt đầu có ở Trung Quốc từ đời nhà Đường.
Điều này có thể đúng vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường
Huyền Tông đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận
đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai Nguyên
(Khai Nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền Tông). Đó
là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm
nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, cầu quốc thái dân an.
Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến
quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền
trung ương. Năm 755, An Lộc Sơn nổi loạn, kéo binh về chiếm
kinh thành, khiến vua Huyền Tông phải chạy vào Tứ Xuyên lánh
nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn.
Trong một năm chiến tranh này, số người chết — chiến sĩ
của cả hai bên và thường dân –, nhiều vô kể. Triều đình
bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai Nguyên trong toàn quốc,
thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu
độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến
vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân.
Dân
chúng thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm
theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư
tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho
người chết trở thành một tập tục trong dân gian.”
Nhân
đây, chúng tôi cũng xin kính gửi tới quý thính giả quan điểm
của lão pháp sư Tịnh Không về vấn đề “làm
Phật sự độ chúng sinh” và niềm tin “làm lễ
cầu siêu là sẽ được siêu độ” này.
Lão
hòa thượng Tịnh Không là một vị cao tăng Trung Hoa đương thời, rất có uy tín, với một quá trình giảng kinh thuyết
pháp gần năm chục năm. Ngài là người đi tiền phong trong
việc sử dụng hệ thống truyền thanh, truyền hình vệ tinh,
mạng lưới thông tin toàn cầu và những phương tiện truyền
thông hiện đại khác trong việc truyền bá Phật pháp trên
khắp thế giới. Trong giới tu hành, nhiều người suy tôn ngài
như một vị Tổ của tông Tịnh Độ. Ngài nói:
“Trong
Phật pháp, nói Phật sự là giúp đỡ tất cả chúng sinh phá
mê khai ngộ, lìa khổ được vui, những sự việc này đều
gọi là Phật sự.
Vậy
còn hiện nay thì sao?
Hiện
nay thì thời gian tiếp xúc với kinh điển cơ hồ ít hơn,
nhìn thấy trong cửa Phật phần nhiều đều là lấy kinh sám
“Phật sự siêu độ người chết”, cho rằng đây là Phật
sự. Cho nên vừa nghe nói đến tiếng “Phật sự” là rất
dễ sinh ra hiểu lầm. Những việc siêu độ vong linh này ở
trong Phật giáo xuất hiện rất trễ …, rất trễ. Thời xưa
ở Ấn Độ chẳng có. Khi Phật giáo được truyền đến
Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có. Vậy sự việc này
xảy ra như thế nào?
Năm
trước, trong buổi Phật học giảng tọa tại trường Đại
Học ở Đài Loan do lão pháp sư Đạo An chủ trì, đã có một
sinh viên nêu vấn đề này ra để hỏi lão pháp sư. Hôm đó
tôi cũng có mặt nên cũng đã có nghe. Lão pháp sư nói rằng
sự việc này có thể là bắt nguồn từ giữa niên hiệu Khai
Nguyên triều đại nhà Đường. Vào thời gian đó, có loạn
An Lộc Sơn tạo phản, giặc giã nổi lên khắp nơi. Nhờ có
danh tướng Quách Tử Nghi tài giỏi mới bình định được
nội loạn.
Khi
an ninh đã được vãn hồi, nghĩ tới những linh hồn chết
thảm còn vất vưởng lang thang nơi đồng hoang cỏ cháy không
ai thờ cúng, triều đình cho xây tại mỗi bãi chiến trường
một ngôi chùa đều lấy tên niên hiệu Khai Nguyên để đặt
làm tên, rồi thỉnh quý vị cao tăng từ khắp các nơi về
các chùa Khai Nguyên này để tụng kinh cầu siêu độ cho các
vong hồn. Từ đó, tại mỗi bãi chiến trường lớn đều
có một chùa Khai Nguyên. Nguồn gốc Khai Nguyên Tự như lão
pháp sư Đạo An đã nói, là do triều đình đề xướng, mở
hội truy điệu, thỉnh những vị cao tăng đại đức tụng
kinh cầu siêu độ.
Từ
đó về sau, trong dân gian, khi gia đình có người qua đời,
thì cũng thỉnh mời tăng ni đến tụng kinh cầu siêu. Như
vậy là đối với Phật pháp, đây chính là việc phụ thêm,
chẳng phải là công việc chủ yếu của Phật môn, chẳng
phải !
Nhưng
hiện nay thì nó lại đã trở thành chủ yếu mất rồi ! Hiện
nay tại rất nhiều đạo tràng, người ta lấy việc này làm
công tác chủ yếu. Cho dù có giảng kinh thì thời gian làm
Phật sự chính yếu này cũng rất ngắn, rất ít. Có những
chùa một năm giảng kinh bốn lần, trong bốn mùa Xuân Hạ
Thu Đông, mỗi mùa giảng một tuần, một năm giảng bốn tuần,
chia cho bốn mùa. Cho nên Phật sự chính thức là giảng kinh
thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho dân chúng thì lại
đã biến thành việc phụ, còn việc bái sám, cầu siêu đã
biến thành “Phật sự” chủ yếu mất rồi.
Điều
này chúng ta phải có nhận thức rõ ràng, vào thời trước,
Phật sự là giảng kinh thuyết pháp”
Thưa
quý thính giả,
Đối
với việc cúng bái cầu siêu, chúng tôi xin nhắc lại ý kiến
mà chúng tôi đã đề ra trong một kỳ trước, rằng người
Đông Phương chúng ta, từ thời xa xưa, vốn đã có truyền
thống cúng bái người đã qua đời, nhất là cúng bái tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, coi như một hình thức báo hiếu, trước
là nói lên lòng thành kính tưởng nhớ chư vị đã khuất,
sau là nhắc nhở con cháu nên tiếp nối mỹ tục biết cảm
ơn các bậc sinh thành, cũng như mỗi quốc gia đều có những
ngày kỷ niệm Chiến Sĩ Trận Vong, để nói lên lòng nhớ
ơn các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước vậy. Chúng
ta có từ ngữ “Đạo Ông Bà”, nghĩa là theo truyền thống
từ thời xa xưa, khi ông bà, cha mẹ, thân nhân qua đời, gia
đình đem hình ảnh và bát hương bày lên bàn thờ, quanh năm
hương khói, đến ngày giỗ thì làm cơm cúng, đó là tập
tục của hầu hết những dân tộc Đông Phương, nhất là
tại những quốc gia ảnh hưởng đạo Khổng.
Như
vậy, theo phong tục cổ truyền, việc cúng giỗ cũng là điều
tốt, coi như là ngày kỷ niệm, tưởng nhớ người đã khuất.
Chúng ta có thể tổ chức cúng giỗ tại nhà, hoặc tại chùa.
Nếu đủ phương tiện để có thể làm lễ trên chùa thì
rất tốt. Trước nhất, đây là một duyên lành giữa thân
nhân người chết đối với nhà Phật, có dịp cho họ tiếp
cận với các vị Sư, nhân đó, có thể hiểu thêm về Phật
pháp. Thứ nữa là thân nhân người chết có thể tạo chút
phước qua việc cúng dường Tam Bảo, để nhà chùa có thêm
khả năng ấn tống kinh sách, phổ biến Phật pháp rộng rãi,
thêm phương tiện để hoàn thành các Phật sự. Các vị Sư
là những Trưởng Tử Như Lai, là những Đạo Sư, có nhiệm
vụ hoằng dương Chánh Pháp song song với việc tu tập bản
thân. Phật tử cũng vậy, cũng cần tu tập bản thân và giúp
phương tiện cho các Đạo Sư trong công cuộc hoằng truyền
và bảo vệ sự trong sáng của đạo Phật.
Về
trách nhiệm của Đạo Sư, có một câu chuyện ẩn dụ vui
vui, để nhắc nhở tầm quan trọng của sự dậy đạo, như
sau:
Có
ông lang băm kia trong thời gian còn sống tại thế, do tài coi
mạch bói không ra bệnh, ổng giết nhiều người quá. Khi chết
xuống âm phủ, chiếu theo tội trạng, Diêm Vương ra bản án
cho ông được định cư ở Địa Ngục tầng thứ 18. Vừa
nghe Diêm Vương nói xong là ông ta đã thấy mình đứng ngay
nơi Địa Ngục tầng thứ 18 rồi, đó là thần thông của
Diêm Vương, khỏi tốn tiền mua xe chở tù, giảm việc sổ
sách.
Thấy
mình chưa kịp cãi cọ, luật sư chưa kịp thu tiền, mà đã
lọt vào tận đây, ông lang băm giậm chân đùng đùng để
phản đối. Bỗng nhiên, ông ta nghe văng vẳng từ phía dưới
vọng lên:
—
Đứa nào ở trên đó mà ầm ĩ quá vậy, cho ta ngủ một chút
chớ !
Ông
lang băm ngạc nhiên hỏi vọng xuống:
—
Ủa, sao còn có ai dưới đó ? Ta đã ở Địa Ngục tầng thứ
18 rồi mà, bộ còn có tầng thứ 19 nữa hay sao?û
Thì
có tiếng phía dưới vọng lên:
—
Đúng chóc rồi đó, cha nội ! Ta đang ở tầng thứ 19 đây
nè.
Ông
lang băm ngạc nhiên thấy có kẻ dám qua mặt mình, bèn lại
hỏi vọng xuống:
—
Nhà ngươi lúc sống làm nghề gì mà nay phải vào tầng thứ
19 ?
Có
tiếng nghẹn ngào tức tủi vọng lên:
—
Hu …hu, khi xưa ta làm đạo sư, dạy sai Chánh Pháp. Diêm
Vương bảo tội ta nặng hơn tội lang băm giết người, vì
lang băm chỉ giết một số người, rồi chết là hết gây
họa. Còn ta thì vì dạy bậy, số học trò học bậy của
ta lại tiếp tục dạy bậy, học trò chúng nó lại tiếp tục
dạy bậy, liên miên chẳng biết bao giờ mới chấm dứt, cho
nên chẳng biết bao giờ ta mới hết tội, mới được tháo
cũi xổ lồng, ra khỏi đáy địa ngục thứ 19, …hu hu hu …
Ban
Biên Tập
(Bài
này đã được phát thanh ngày 31 tháng 12 tại Nam California
và 01 tháng 1, 2006 tại Houston Texas)
Discussion about this post