Trong trăm năm, rồi chết,
Nếu ai sống hơn nữa,
Rồi cũng chết vì già(1)..
Hy vọng
được lợi dưỡng và hy vọng được sống
là hai hy vọng khó từ bỏ của con người, được Phật dạy trong kinh Tăng Chi(2). Càng về cuối của kiếp người, khi cuộc đua giữa
thọ mạng và thời gian đang đi vào hồi kết, thì dường như hy vọng lợi dưỡng đã
và đang ngấp nghé rời sân để nhường chỗ cho hy vọng được sống, được tồn tại.
Đôi khi, với một số chúng sanh nói riêng, các niềm hy vọng này thực sự là những
quan ngại, vì chúng chợt bùng lên mạnh mẽ, chi phối và tạo nên một sự ảnh hưởng
lớn đến việc thăng hoa hay đọa lạc của một con người.
Vào những thời khắc cuối cùng của kiếp sống, thân
thể nằm trong sự khống chế của tật bệnh, của những khổ đau; đó cũng là lúc
những bất thiện pháp tiềm ẩn lâu nay có khả năng trổi lên trong dòng chảy tâm
thức. Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sống
là thời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống
tiếp theo. Thậm chí ngay như một vị xuất gia, đôi khi phải miễn cưỡng chọn giải
pháp kết liễu mạng sống vì không vượt qua được những nỗi đau tột cùng của thể
xác(3). Thực tế đó đã cho thấy rằng, hơn bao giờ hết,
việc hỗ trợ cho chúng sanh, nói rõ hơn là việc hộ niệm lúc lâm chung, không chỉ
rất cần trong mọi khoảng thời gian của đời sống, mà còn rất mực quan trọng và
đầy ý nghĩa trong những giây phút cuối của đời người. Hộ niệm lúc lâm chung
trong giới hạn được hiểu, tức là gấp rút chuyển hóa chúng sanh trong những giây
phút cuối của đời sống.
Hộ niệm lúc lâm chung nhìn từ lịch sử kinh điển
Khi hay tin vua Tịnh Phạn có khả năng không qua
khỏi, Đức Phật đã thân hành về gấp quê nhà để giáo hóa cho cha. Trên giường
bệnh, với bảy ngày còn lại của cuộc đời, với sự khai thị tràn ngập tình thương
yêu của Đức Phật, vua Tịnh Phạn đã chứng tứ quả A la hán trước khi xả báo thân.
Với Đức Phật, tình thương là phổ quát và không chỉ dừng lại ở người thân. Kinh
ghi: Có một tân Tỷ kheo ít người biết đến, bị bệnh hoạn, đau đớn, bị trọng
bệnh, vừa nghe mấy chữ “tân Tỷ kheo” và “bệnh nặng”, Đức Phật đã thân hành
thăm hỏi và giáo giới để cuối cùng, Tỷ kheo ấy khởi lên pháp nhãn ly trần vô
cấu: “Phàm cái gì sanh khởi, tất cả đều chịu sự đoạn diệt”(4). Mặc dù bận rộn trong nhiều Phật sự, nhưng khi hay
tin Tôn giả Phagguna bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cận lâm chung, Đức
Phật đã tùy cơ nghi quang lâm hóa độ(5). Sự phù hợp, đúng lúc đúng thời trong khi thuyết
pháp là một trong những đặc tính của Đức Thế Tôn.
Xuyên suốt hệ thống kinh tạng Nikaya, ta có thể gặp
rất nhiều trường hợp Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài như ngài Xá Lợi Phất, ngài A Nan… đã trực tiếp thuyết giảng cho người sắp chết. Đặc
biệt như trưởng giả Cấp Cô Độc, tận tụy một đời phụng Phật và Tăng, nhưng khi
lâm chung cũng không dám để Phật bận tâm nhiều, mà chỉ cho người thay mình đến
đảnh lễ vấn an Đức Phật và cầu thỉnh ngài Xá Lợi Phất giáo giới. Kinh ghi: Này
bạn, hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế
Tôn và bạch như sau: “Bạch Thế Tôn, cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị trọng
bệnh. Cấp Cô Độc xin cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn”. Rồi đi đến Tôn giả
Sariputta (Xá Lợi Phất), sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả
Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, khổ đau, bị
trọng bệnh. Cấp Cô Độc xin cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sariputta và thưa như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả Sariputta vì
lòng từ mẫn, đi đến trú xứ của cư sĩ Cấp Cô Độc”(6).
Một đời tận lực phụng sự Tam bảo, thế mà đến phút cuối của đời mình cũng không
dám phiền nhiễu đến Đức Thế Tôn, điều đó đủ thấy tầm mức vĩ đại của một cận sự
nam trung kiên thời Đức Phật. Với những nghiệp nhân đã thực hiện trong đời, cộng
với sự giáo giới kịp thời của Tôn giả Xá Lợi Phất, trưởng giả Cấp Cô Độc sau khi thân hoại mạng chung liền sanh
lên cõi Tusita (Đâu Suất thiên)(7).
Từ những trường hợp vừa nêu, có thể nhận thấy rằng
thời thuyết giảng, giáo giới trước khi lâm chung luôn được Phật và chúng Tăng
chú trọng. Phải chăng trong quan điểm của Đức Phật, khoảng thời gian trước khi
lâm chung được xem là thời khắc vàng, có ảnh hưởng và chi phối đến sự
vận hành của đời sống tiếp theo?
Thời khắc vàng và nội dung giáo giới
Bằng tuệ quán siêu việt, Đức Phật nhận thấy rằng
được sanh làm người là một cơ may lớn, vì rất ít là chúng sanh được tái sanh
làm người! Còn rất nhiều là những chúng sanh phải tái sanh ra ngoài loài Người(8). Đã được làm người và được nghe diệu pháp quả là
hạnh phúc lớn lao. Tuy nhiên, được nghe pháp đúng thời và thẩm sát ý nghĩa đúng
thời có thể được xem là thời khắc vàng của đời sống theo kinh Tăng Chi(9). Bởi lẽ, mặc dù khi sống, chúng sanh chưa thoát
khỏi năm hạ phần kiết sử như: Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục tham, sân,
nhưng trong những giây phút cuối của đời sống, được gặp Thế Tôn, được nghe
thế Tôn thuyết pháp(10) vị ấy được giải thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Hoặc giả như tuy
không được thấy Thế Tôn, nhưng được thấy đệ tử của Ngài thuyết pháp(11). Sau khi nghe thuyết pháp, tâm vị ấy được giải
thoát khỏi năm hạ phần kiết sử. Theo kinh Tương Ưng(12), một khi đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử thì
người đó sẽ vĩnh viễn không còn trầm luân vì đã đặt một chân đầu tiên vào dòng
Thánh.
Nếu như khát vọng của Nho gia: “Sáng nghe đạo,
chiều chết cũng cam”(13),
thì ở đây, Đức Phật tin tưởng rằng, nếu như bất cứ ai siêng năng trong năm việc
và một trong năm việc, đó là tin Phật một cách bất động và sâu sắc, thì nếu
được giảng dạy buổi chiều, thời chứng được sự thù thắng buổi sáng, nếu được
giảng dạy buổi sáng, thời sẽ chứng được sự thù thắng buổi chiều(14). Ở
đây, khả tính giải thoát sở dĩ diễn ra nhanh hoặc chậm tùy thuộc mức độ nỗ lực
cũng như thiện căn đã gieo trồng của mỗi chúng sanh.
Cần phải thấy rằng, đời sống của con người vốn dĩ
ngắn ngủi và càng ngắn ngủi hơn đối với bất kỳ ai đang lâm bệnh nặng. Do vậy,
trong khoảng thời gian này, những nội dung thiết yếu, căn bản của pháp hành
giải thoát cần được trang bị cho người bệnh. Nếu như chưa được quy y và thọ trì
ngũ giới thì tùy theo điều kiện nhân duyên, điều kiện biệt nghiệp của từng
người, giúp họ hoàn thành tâm nguyện. Bởi lẽ khi và chỉ khi một người phát
nguyện quy y Tam bảo và hành trì Ngũ giới, thì họ mới chính thức trở thành một
vị cư sĩ, đệ tử tại gia của Đức Phật(15).
Ngoài việc khơi dậy niềm tin bất động với Phật với Pháp với Tăng cũng như ý
thức hành trì nghiêm chỉnh học giới của người cư sĩ(16); cần phải trang bị thêm nhận thức về ba tính chất
xuyên suốt của đời sống như vô thường, vô ngã và khổ.
Từ thực tế bài pháp của Tôn giả Xá Lợi Phất giáo
giới cho cư sĩ Cấp Cô Độc, giáo lý vô ngã đã được Tôn giả Xá Lợi Phất khéo léo
trình bày. Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không
mắc dính, không chấp trước vào bất cứ điều gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Ai
có chấp trước là có dao động. Ai không chấp trước là không có dao động. Không
có dao động, thời có khinh an; có khinh an thời không có hy cầu (nati); không
có hy cầu thời không có khứ lai; không có khứ lai thời không có tử sanh; không
có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời. Như
vậy là sự đoạn tận đau khổ(17). Trường hợp giáo giới cho
Tỳ kheo đang bệnh nặng Vakkali, cũng là một minh chứng sinh động trong việc
trang bị cho người cận tử ba pháp ấn quan trọng này(18).
Với hàng chúng sanh nghiệp trọng, ý thức chấp thủ
là một trong những hạn chế dẫn họ tái sanh trong khổ cảnh. Đặc biệt, đối với
người cư sĩ tại gia nói chung, thì ý thức chấp thủ vào vợ con, tài sản luôn nổi
trội hơn bình thường. Do vì một đời cực nhọc, lao tâm khổ trí để dành dụm của
cải, do vì các mối liên hệ thân thuộc như cha mẹ, vợ chồng người thân… đã cố
kết từ lâu; cho nên ý thức chấp thủ sẽ trào dâng và trở nên mạnh mẽ vào lúc
này. Do vậy, cần phải khéo léo trang bị cho người bệnh thái độ buông bỏ, xả ly.
Ở đây, không những trong hệ thống kinh tạng Nikaya mà cả hệ thống kinh điển Bắc
truyền, đã ghi lại rất nhiều trường hợp do vì bám víu, chấp thủ vào thời điểm
cận tử, nên phải chấp nhận bị cuốn vào dòng xoáy bất tận của sanh tử, luân hồi.
Như vậy, ngoại trừ các trường hợp đặc biệt, nội
dung buổi thuyết giảng làm hành trang cho người cận tử theo kinh điển Nikaya
bao gồm việc triển khai niềm tịnh tín bất động với ba ngôi Tam bảo, trình bày
cũng như hoàn thiện các học giới, củng cố việc liễu tri tính chất vô thường vô
ngã của sự vật, hiện tượng. Nếu như người nghe hội đủ các thiện căn đã vun đắp
từ nhiều kiếp trước đó, thì có khả năng hoàn thành thánh vị dự lưu hoặc các
phẩm vị cao hơn trước khi xả báo thân này. Trong trường hợp nghiệp căn còn
nặng, thì ít nhất, với sự hỗ trợ và chuẩn bị ấy, người cận tử sẽ có một tâm thế
an lành làm hành trang cho kiếp lai sinh. Lợi ích thiết thực nhất đối với người
cận tử, đó là “Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có
lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi
ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-khưu,
nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp”(19). Nói
chính xác, sẽ được dự lưu
phần trong Thánh quả. Một thời
khắc không dài nhưng hứa hẹn những tín hiệu tươi sáng cho đời sống vị lai, nếu
như ai đó đủ duyên và chuyên tâm nỗ lực. Đó cũng là điều để lý giải tại sao Đức
Phật cũng như các vị Thánh tăng thời ấy, luôn quan tâm và xem đấy như là biểu
hiện sinh động cho tâm từ bi, mong mỏi độ thoát chúng sanh trong những cơ may
cuối của kiếp người.
Mẫu hình cư sĩ độ sanh
Thời xưa gặp Phật đã khó, thời nay được gặp chúng
Tăng trong phút cuối của đời người lại càng khó bội phần. Do vậy, việc tự mình
giúp đỡ người thân, cũng là một trong những việc làm quan trọng và thiết thực
của người Phật tử. Câu chuyện Cha mẹ Nakula(20) là một minh chứng sinh động về việc tương trợ lẫn
nhau trong phút giây nguy khốn của đời người. Theo kinh, cha của Nakula bệnh
nặng, khó lòng qua khỏi, nằm trên giường bệnh, vô số điều lo nghĩ thiện và bất
thiện thôi thúc và dằn vặt tâm tư: là trụ cột kinh tế của gia đình, nếu ông
ra đi mà chưa kịp chuẩn bị, thì mẹ con biết nương dựa vào đâu? Con có lẽ sẽ
thiếu học, thiếu ăn và nhà cửa có thể sẽ bị bán? Hoặc, vợ mình còn trẻ
đẹp thế này, mình chết sớm, có lẽ bà ấy sẽ tái giá mất thôi. Đôi khi, cũng
có những tư tưởng thanh cao hơn được phát khởi: khi còn mình, bà ấy còn đi
nghe pháp, còn lên tinh xá gặp Phật và chư Tăng, nghiêm trì học giới, khi mình
mất rồi, bà ấy có còn thực hiện các việc lành này không?… Vô vàn điều suy
nghĩ thiện và bất thiện đồng loạt khởi lên, cuộn chặt tâm tư u ám.
Sợ chồng mình đọa lạc vì trong giây phút mạng
chung với tâm còn mong cầu ái luyến, mẹ của Nakula vừa thuận thứ hứa khả,
vừa dẫn dắt tâm tư của chồng. Bà bảo rằng: ông à, nếu ông mất đi, có lẽ tôi
sẽ vất vả hơn, nhưng tôi khéo léo dệt vải và chải lông cừu và để cuối cùng, tôi có thể nuôi dưỡng các con và duy trì nhà cửa. Ông đừng suy nghĩ quẩn quanh về việc tôi sống
ra sao khi thiếu ông và thậm chí đừng quá bận tâm về tiết hạnh của một phụ nữ
góa chồng, trong mười sáu năm chúng ta sống làm người gia chủ, tôi đã
sống thực hành Phạm hạnh như thế nào, đó là điều mà
ông hoàn toàn hiểu rõ. Về việc hộ trì Tam bảo và thăng tiến tâm linh, ông càng
đừng lo, vì sau khi gia chủ mệnh chung, tôi sẽ muốn yết kiến Thế Tôn nhiều hơn,
sẽ muốn yết kiến chúng Tăng nhiều hơn. Trên phương diện hành trì học giới của người cư sĩ, dù ông không có ở
gần để nhắc nhở, nhưng ông hãy an tâm đi, cho đến khi nào, các nữ đệ tử
gia chủ mặc áo trắng của Thế Tôn còn giữ giới luật một cách đầy đủ, tôi là một
trong những người ấy.
Mặc dù gia chủ Nakula vượt qua trọng bệnh, nhưng
những tâm tư rất thực của ông, cùng những lời chia sẻ chân thành của người vợ
hiền, đáng được xem là sự điển hình trong tư duy và tính mẫu mực, như pháp,
trong việc hỗ trợ lẫn nhau vào giây phút cuối của người tại gia cư sĩ. Thông
điệp chuyển tải từ câu chuyện, đó chính là: chớ có mạng chung với tâm còn
mong cầu ái luyến.
Chuẩn bị cho chuyến
viễn hành
Không có cái gì sinh mà không già, không chết(21). Chân lý đó được Phật vận dụng nhiều phương tiện
để chỉ bày, nhằm trang bị một nhận thức thường trực trong suy nghĩ của chúng
sanh. Nếu như được nuôi dưỡng thường trực quán niệm ấy, thì khi nhân duyên chín
muồi, thuật ngữ Phật học gọi là sung mãn, thì cánh cửa bất tử sẽ được mở ra cho
hành giả.
Song song với việc tư duy về tính chất phổ quát vừa
nêu ở trên, trầm tư về yếu tố không bền vững, không ổn định, bấp bênh của mọi
sự vật hiện tượng luôn có khả năng xảy đến cho ta ở bất cứ nơi đâu và trong bất
cứ hoàn cảnh nào. Quán chiếu vô thường là cách nói khác về trường hợp vừa mô
tả. Thứ ba, mỗi tâm hành hay sự vật hiện tượng, sở dĩ chúng hiện hữu là do nhiều yếu tố hòa hợp mà
thành. Nhận chân tính chất duyên sinh, vô ngã của sự vật hiện tượng cũng là một
nội dung cần được trang bị. Và nếu như thực hiện được ba yếu tố quan trọng ở
trên, hành giả đã và đang kiện toàn về lãnh vực nhận thức, về trí tuệ.
Mang thân phận con người nhưng để làm người đúng
nghĩa, đúng với cái danh nghĩa đã mang, như trong kinh gọi là Danh phải
tương xứng người(22), thì việc kiện toàn những
nguyên tắc đạo đức căn bản của người cư sĩ tại gia là năm giới, là một nội dung
cần phải chuẩn bị. Nói cách khác, nghiêm chỉnh về học giới là một trong những
tiêu chuẩn khi sống trong đời. Đặc biệt hơn, nếu như người giữ giới, sống
theo giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn(23), là điều được khẳng định và tán thán trong kinh.
Sống đã lo sợ nhiều bề, khi gần chết thì càng hoang
mang tột độ. Muốn tĩnh tại, bình yên không hoang mang trong hiện tại và giữ
được tâm bình lặng trong phút cuối của đời mình, thì ngay trong đời sống này,
cần phải kiện toàn niềm tịnh tín Tam bảo một cách vững chãi. Học Phật để rồi
tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Tam bảo với niềm tin chánh tín, đó là điều
kiện cần để có được một thú hướng an vui. Ngoài ra, các học pháp bổ trợ như bố
thí, phóng xả, vị tha… cùng những thiện pháp tương ưng cũng cần phải song song
thực hiện.
Nếu thực hiện được như vậy thì dù cho bất cứ chuyện
gì xảy ra về thể xác, về thân mạng, dù đột tử mà chết hoặc chết với bất cứ lý
do gì như: gặp con voi cuồng chạy; gặp con ngựa cuồng chạy; gặp người cuồng
chạy; gặp cỗ xe lớn cuồng chạy; gặp cỗ xe nhỏ cuồng chạy(24), hoặc do hết thọ mạng mà chết, thì sanh thú hướng
về sẽ là thiện thú và thiện giới. Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định một
cách mạnh mẽ và vững chãi, qua hình ảnh một thân cây khi bị đốn ngã, thì nó sẽ
ngã xuôi về hướng mà thân cây từ trước tới nay đang hướng về(25). n
_____________________________________________
(1) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, chương 4, phẩm 8,
kinh Già.
(2) Kinh Tăng Chi, chương Hai pháp, phẩm Các hy vọng, kinh Hy
vọng.
(3) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Giáo giới
Channa.
(4) Kinh Tương Ưng, tập 4, thiên Sáu xứ,
chương 1, Tương ưng sáu xứ, phần b, phẩm
Bệnh, kinh Bệnh.
(5) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh
Phagguna.
(6) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo
Giới Cấp Cô Độc.
(7) Kinh đã dẫn.
(8) Kinh Tương Ưng, tập 2, thiên Nhân duyên,
chương IX, Tương ưng thí dụ, kinh Đầu ngón tay.
(9) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại Phẩm, kinh Phagguna.
(10) Kinh đã dẫn
(11) Kinh đã dẫn
(12) Kinh Tương Ưng, tập 5, Thiên đại phẩm,
chương XI, Tương ưng dự lưu, phần a, phẩm Veludvara, kinh Dighavu.
(13)Luận Ngữ, thiên Lý Nhân: 朝聞道,夕死可矣.
(14) Kinh Trung Bộ, tập 2, Kinh Bồ Đề Vương
Tử.
(15) Kinh Tương Ưng, chương 1, Tương ưng uẩn,
phần b, phẩm Phước đức sung mãn, kinh Mahanama.
(16) Kinh đã dẫn
(17) Kinh Trung Bộ, tập 3, Kinh Giáo giới
Channa.
(18) Kinh Tương Ưng, tập 3, chương I, tương ưng
uẩn, phần e, phẩm Trưởng lão, kinh Vakkali
(19) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, Đại phẩm, kinh
Không ưa nghe.
(20) Kinh Tăng Chi, chương Sáu pháp, phẩm Cần phải nhớ,
kinh Cha
mẹ của Nakula.
(21) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương
3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ nhất, kinh Vua.
(22) Kinh Tương Ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà la môn, phẩm
A La Hán thứ nhất, kinh Bất hại.
(23) Kinh Trường Bộ, tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn.
(24) Kinh Tương
Ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni, kinh Mahanama 1.
(25) Kinh Tương
ưng, tập V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, Phẩm Saranàni,
kinh Mahanama 2.
Nguồn: Nguyệt san
Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS
Discussion about this post