Ý NGHĨA KHỔ ĐAU
VÀ CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ VƯỢT THOÁT
TRONG THIỀN TÔNG
Như Hùng
như Chánh Pháp Nói năng như Chánh
Pháp“
1, Từ hiện tượng nầy
sanh hiện tượng khác
Những đau khổ nào mà
con người còn diễn tả được, còn quan niệm, còn sờ mó được, thì cái đó chưa phải
tột cùng của khổ đau. Cái khổ mà con người đang gánh chịu chỉ là kết quả tất
nhiên của một động cơ, nó đẩy đưa con người từ hiện tượng nầy sang hiện tượng
khác, chìm đắm trong đêm dài tăm tối, lặn hụp trong biển si mê không thể nào
thoát ra được, cũng chỉ vì sự chi phối tác động và cai trị của một chủ tể đó là
Vô Minh.
Vô minh là không sáng
suốt, tăm tối, không nhận ra được chân lý và khổ não, nó không là gì cả, chỉ là
bóng dáng của một giả thể, nhưng con người đã tổng hợp và cho đó như một thực
thể, ôm ấp, gắn vào đó những nhãn hiệu, khuôn mẫu mà thực ra không phải là nó.
Chưa một lần nào ta chịu nhìn ngắm khám phá ra nó và nếu có chăng đi nữa thì sự
nhìn ngắm đó, cũng chỉ là nhìn ngắm để rồi ngắm nhìn, chứ chưa thật sự đặt vấn
đề giải quyết và tìm phương vượt thoát khỏi nó.
Sự nhận thức của con
người vốn đã bị bóp méo và không thật, khi nhìn ngắm và soi xét về một đối tượng,
con người đã không nhìn bằng ánh mắt của như thật, của trí tuệ mà bằng sự chi
phối, dẫn dắt, tác động của vô minh. Không một sự nhìn ngắm nào mà không khởi
lên những phân biệt, chấp trước, nắm bắt, vì khi phân biệt phải có chủ thể
khách thể, cái nhận thức và cái bị nhận thức, cái ta và cái của ta. Con người
luôn nắm bắt thực tại và không sự nắm bắt nào mà không tạo nên khổ đau, rên rỉ,
thất vọng. Bởi lẽ tất cả mọi sự vật đều biến hóa, ảo tưởng, không thật, thì sự
nắm bắt ấy đồng nghĩa với sự biến dạng mất mát.
Khi ý thức nảy sinh sự
ham muốn, thì động niệm theo đó phát sinh, khi động niệm sinh, tức khắc ý thức
bị phân hai trở thành chủ và khách, như vậy sự xung đột chắc chắn xảy ra. Nếu sự
phân hóa vừa xuất hiện, thay vì quán chiếu vào tận cùng tâm thức để phản tỉnh
vượt thoát những kiến chấp nắm bắt, dùng trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi người để
soi sang, thì chúng ta lại bám vào thế giới trần cảnh, những quan niệm cùng giáo
điều cứng ngắt, những khuôn mẫu đúc sẵn, những trí thức lừa đảo. Khi nào tâm thức
còn bị đánh lừa bởi những gì do chính nó tạo ra hoặc phản chiếu, thì vô minh vẫn
còn ngự trị trong sâu thẳm. Chỉ khi nào lớp vỏ khô cứng đó bị đập vỡ tung, trí
tuệ xuất hiện chiếu rọi trong tận cùng tâm thức, xé tan màn dày đặc của vô
minh, thì lúc ấy nó mới không còn chổ để dung thân.
2, Ý thức thường
trực về khổ đau.
Khổ đau đã gắng liền
với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra.
Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là đối diện với nó, đương đầu và
chấp nhận, sẵn sàng nở nụ cười hoan hỷ chấn động cả tâm thức, ôm ấp nó vào lòng
như ôm một đứa con yêu quý. Không một sự thoát khổ nào bắt nguồn từ sự xa lánh
trốn chạy, cái khổ càng được nung nấu, un đúc, trui rèn, mài dũa thì cái tâm lại
càng tinh luyện, cứng rắn và vững chãi, thân thể càng bị đày đọa, tim rỉ máu, mắt
đẫm lệ, thì tâm thức mới thể nhập vào sự diệu huyền biến hoá của vũ trụ. Như một
con dao được trui rèn trong lửa, đập phá nhiều lần bởi người thợ rèn, con dao ấy
mới có công năng chặt đứt được sự vật. Nếu một con người không trưởng thành từ
trong đau khổ, con người ấy dễ bị thời gian đào thải. Nếu một con người không
đương đầu, mặc nhiên, chấp nhận, ý thức thường trực về nỗi thống khổ và tìm
phương thoát ra, thì con người đó không thể thoát được khổ đau.
Cuộc đời vốn đầy dẫy
sự bất công và đe dọa bởi thực trạng khổ đau, không một ai dành cho chúng ta sự
hạnh phúc bình an và nếu có đi nữa thì sự bình an do kẻ khác mang đến trao tặng,
đều kèm theo điều kiện. Sự ích kỷ, ngộ nhận, bóp méo sự thật, vốn là một tâm lý
nằm sẵn trong mỗi người, được dịp và đúng thời điểm là con người dán chặt vào
đó những nhãn hiệu, những móc ngoặc, tạo khủng hoảng cho chính mình và đối tượng.
Con người tìm mọi cách để thấy mình hơn kẻ khác, những phương cách lọc lừa, mưu
mẹo đều được đem ra trắc nghiệm, xử dụng. Nhận lấy điều nầy, là sự đau khổ, bất
an xuất hiện, dĩ nhiên không một sự hơn thua nào mà không bắt nguồn từ khổ đau,
gây nên khổ đau. Con người vốn đã không nương tay với nhau khi hành động, khi
được dịp họ chỉ cần chiến thắng, dù sự chiến thắng được xây đắp trên nỗi khổ, nỗi
đau của kẻ khác, dù sự chiến thắng ấy phát xuất từ sự sai khiến của tâm lý phức
tạp, trải qua những xáo trộn trong tận cùng tư tưởng, và do vô minh chủ động. Cho
dù sự chiến thắng ấy có đồng nghĩa với chiến bại, thì trong nội tâm họ vẫn muốn
làm kẻ chiến thắng, và đương nhiên không một sự chiến thắng nào mà không đưa đến
mất mát, đau khổ.
Thông thường những
phương cách mà con người dùng để giải quyết khổ đau là tạo ra những cuộc vui giả
tạo, tìm hạnh phúc trong sự bất chợt, nắm bắt, hoan lạc, trong ly cà phê điếu
thuốc, trong khói hương ngây ngất của cuộc đời, bên những ly rượu mạnh để giải
sầu. Thực ra đây chỉ là phương pháp tạm thời, chứ chưa phải cứu cánh, điều hẳn
nhiên không một cuộc vui nào lại không chóng tàn, không cơn say nào mà không tỉnh.
Con người trốn chạy khổ đau bằng cách tìm vui, nhưng vui lại là nguyên nhân của
khổ, khi vui vừa tàn sự trống trải, cô đơn, chán chường, và điều muốn tiếp tục vui
nữa lại dâng cao, cứ thế đẩy dần ta vào vũng bùn đen tối, chôn chặt trong hố thẳm
không biết lúc nào ra khỏi.
3, Bùng vỡ của tâm
thức
Con đường vượt thoát
ra khỏi chính nó là phải nhìn thẳng, quán chiếu vào lẽ sinh diệt của nó, hãy
yên lặng để thấy nó len lõi đi vào, một khi không tạo được sự tác động gây hấn,
thì chính nó sẽ hủy diệt. Thân phận con người như điếu thuốc đang cháy dần, nếu
người hút thuốc muốn tìm thêm khói cảm trong đó mà hít vào thật nhiều, dĩ nhiên
sẽ chóng tàn hơn, và nếu không hít thì điếu thuốc đang cháy cũng vẫn phải tàn.
Vì thân phận con người là thân phận của bèo mây tan hợp.
Khi sự vật đưọc hình
thành để rồi tự nó hủy diệt, một đóa hoa tươi đẹp đang khoe sắc dưới nắng hồng
ban mai nhưng trong đó đang có sự hủy diệt trong từng phút giây và ngày mai kia
hoa sẽ héo tàn rơi rụng theo thời gian. Thời gian là khởi diểm của tồn tại và
là kết quả của diệt vong. Thời gian được đặt ra để đo lường sự hiện hữu và mất
mát, sự liên tục của nó tạo cho con người cái cảm giác trường cửu, nhưng trong
đó sự biến dạng liên tục chi phối, từ ban ngày chuyển thành ban đêm, từ đêm trở
lại ngày, nối tiếp nhau đi qua trở lại. Cái có và không xuất hiện ở một kết hợp,
khi duyên không còn tự tiêu vong. Nếu không có cái không thì hẳn nhiên không có
cái có, và ngược lại sở dĩ chúng ta trông thấy đưọc cái có thì cũng nhờ cái
không bao bọc chung quanh nên cái có hiển lộ. Nếu sơn hà đại địa nầy chất đầy cả
cái có, không một kẻ hở để cái không xen vào thì sao gọi là có được. Như vậy cái
có nương vào cái không, cái không nương vào cái có, nương với nhau mà thành,
duyên với nhau mà hợp ” có thì có tự mảy may, mà không thì cả thế gian
nầy cũng không” .
Con người vốn lẩn quẩn
trong vòng sanh diệt, chấp có, chấp không, tha hồ nắm bắt, nhận giả làm thật, lấy
mê làm ngộ, đến khi vụt mất khỏi tầm tay sinh ra tiếc nuối khổ đau, do vì vô
minh tạo ra những cảm tưởng mê mờ. Nếu muốn vượt thoát tử sinh, cần phải quán
chiếu vào nội tâm, tìm về uyên nguyên của giác ngộ, uống ngụm nước đầu nguồn.
Giác ngộ không tách rời vô minh mà có, muốn được điều này cần phải trực nhận
vào tận gốc rễ của vô minh, nhận rõ chân tướng của sự thật trong mọi khía cạnh nhận
thức. Vượt lên đối đãi, chấp trước, phân biệt, kiểm chứng và duy trì nội tâm bằng
chánh niệm một cách liên tục không gián đoạn, không một kẻ hở, chúng ta mới có
thể đoạn trừ được vô minh, vén màn cho sự giác ngộ. Nếu giác ngộ là sự chấn động
toàn diện tâm thức con người, vượt thoát tử sinh, thì vô minh khi chưa giác ngộ
vẫn có ý tưởng ngược lại, đẩy lùi con người vào hố thẳm ngút ngàn của tử sinh.
Chỉ cần chúng ta dốc sức bình sinh xoay chiều thì công năng và kết qủa sẽ trái
ngược, cũng cái tâm nầy chúng ta thành Phật và cũng cái tâm nầy điên đảo tử
sinh.
4, Hoán chuyển đối
nghịch
Giác ngộ là sự bùng vỡ
của tâm thức, chuyển hoán từ vô minh thoát ly ra ngoài mọi ràng buộc, không còn
niệm phân biệt, hiển lộ nên chân tâm, bặt hết duyên trần, những kiến giải, quan
niệm đều bị vỡ tung khi ánh sáng giác ngộ chiếu vào soi sáng. Trong Kinh Pháp
Cú có đoạn:
Trong vòng sống chết
vô tận
Ta chạy mãi không nghĩ
ngơi
Từ bào thai nầy sang
bào thai khác
Đuổi theo người chủ
ngôi nhà
Chủ nhà ta phát giác
mi rồi
Mi không cất nhà lại
được
Kèo cột gẫy hết rồi
Mái sườn sụt đổ hết
Tâm lìa hết tạo tác
Tất cả diệt trừ xong.
Cái hoát nhiên đại ngộ
là khi nhìn thẳng vào chân tướng của sự vật, một khi vọng động dừng lại thì cả
càn khôn hiển lộ. Điều này không nằm trong kiến giải mà là sự thử thách cam go,
trực nhận không một giây tách rời, cầm giữ thanh gươm trí tuệ sẵn sàng chặt tan
mọi ràng buộc động niệm, đẩy lùi tất cả đến tận cùng, chuyển hoán sự đối nghịch,
trở thành chất liệu nuôi dưỡng giác ngộ.
Vô mình đã nằm trong
sâu thẳm, thì sự tỉnh thức trong từng niệm đã cắt đứt và cuốn phăng đi chặng đường
tồn tại của nó, khi giác ngộ vụt khởi trạng thái nầy không còn một mảy may tư
tưởng, kiến giải, đối tượng. Chủ thể và khách thể hòa cùng một thể, đó là thể của
giác ngộ, dĩ nhiên giác ngộ không phải tiến trình đi tới của tri thức mà là sự
quật khởi nội tâm, buông bỏ sự níu kéo nắm bắt, vượt thoát những ý thức sai biệt.
Sự nối liền giữa vô minh và giác ngộ như đường tơ kẻ tóc, nếu không nhận ra được
đâu là nguồn cội, thì tự nó là hố thẳm nghìn trùng xa cách, một khi nhận chân
ra được thì trong tích tắt mọi ngăn ngại đều đánh bật ngã. Sự hoát nhiên giác
ngộ liền xâm nhập vào tâm thức, như một làn chớp bất chợt xuất hiện chỉ trong
sát na. Trong Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
” Thiện tri
thức đừng trụ bất cứ ở đâu, ở trong ở ngoài, thì lui tới được tự do. Đừng để
tâm chấp trước thì thông suốt hết không gì vướng mắc. Kẻ ngu nếu bổng chốc trí
sáng tâm mở thì với người trí chẳng sai khác.
Thiện tri thức khi
chưa ngộ Phật là chúng sanh như ta, phút chốc ngộ rồi thì ta chúng sanh tức là
Phật. Thế mới biết tất cả đều ở nơi tâm. Vậy sao ta không biết tự nơi tâm thoắt
thấy ngay cái bổn tánh chân như. “
Huệ Năng là một chú
tiều đốn củi nuôi mẹ, nghe một người tụng kinh Kim Cang đến câu ” Ưng
vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm ” ngài hốt nhiên đại ngộ. Cái ngộ của ngài
không nằm trong suy luận, so đo tính toán, mà là sự tiếp nhận thẳng vào tâm thức.
Càng suy luận càng tách rời chân tâm, không giúp được gì cho giác ngộ, “khảy mổ
cùng một lúc”, hành động nhịp nhàng ăn khớp trong một thời điểm nhất định, ngộ
là ngộ tức khắc, không chần chừ, so đo phân biệt, và không ngộ là không ngộ chứ
không có kiểu nửa tỉnh nửa say.
Ngài Hương Nghiêm có
lần nói: “ Ví như có người lơ lững trên miệng vực sâu muôn trượng, răn
cắn vào một cành cây, chân thòng giữa hư không, hai tay không bám vào đâu được.
Lúc ấy có người đi ngang qua hỏi vọng lên, nếu người trên cây mở miệng trả lời
thì rơi xuống vực sâu mất mạng. Nếu không trả lời thì phụ người hỏi. Trong phút
giây nguy kich ấy, người đó phải làm sao? “
Giữa cái chết và cái
sống, giữa cái mê và ngộ, giữa sự trả lời và không, quả thật lúc ấy không còn
gì để mà biện luận, cân nhắc tính toán, hể mở miệng ra để trả lời thì rơi xuống
hố sâu muôn trượng tan thân nát thịt. Lúc ấy chỉ còn “ Làm thinh như
chánh pháp, nói năng như chánh pháp “.
Một cuộc sống an lành
là khi không còn bị trói buộc bởi nội và ngoại tại nữa, vì tất cả những dính mắc
đều phải tốn công nhọc lòng tháo gỡ, hể còn phải tháo gỡ thì vẫn còn phiền não,
khổ đau. Nếu ở trong tâm bặt hết duyên trần, ở ngoài không đắm trước, thì không
một hành động nào làm hoen ố được, ung dung tự tại mà bổn thể hoàn toàn vô nhiễm.
Điều nầy quả thât là khó, nhưng tử sinh, luân hồi sống chết vô tận, làm cho
chúng ta quá chán ngán rồi, điều may mắn còn làm được thân người, ngay từ bây
giờ nếu không vận dụng cả bình sanh, xương tủy, máu thịt trong người thì khó mà
thoát ra. Buông bỏ tất cả, theo dõi tâm mình, tỉnh thức trong từng động niệm,
những vọng niệm nào cản trở giác ngộ, cần phải chặt phăng nó đi, duy trì chánh
niệm một cách liên tục, một ngày nào đó giác ngộ sẽ bùng vở. Nếu buông thỏng nội
tâm không kiểm soát, phó mặc cho duyên trần, thì muôn kiếp vẫn phải tử sinh,
trôi lăn vô tận.
5, Tâm an tịnh
Sự vượt thoát tử sinh
tìm về giác ngộ là điều tối cần, mục đích của Đạo Phật giải phóng con người ra
khỏi khổ đau, đạt đến giải thoát hoàn toàn. Giải phóng là thoát ly ra ngoài mọi
đối đãi, không còn dính mắc ở khía cạnh hay góc độ nào, còn níu kéo thì còn bị
trì trệ ứ đọng, buông xả tất cả. Tâm con người tựa như dòng nước chảy, nó có thể
cuốn phăng đi tất cả, nhưng ngược lại nó vẫn có thể bị ô nhiễm, điều quan trọng
cho sự tìm về giải thoát là phải lắng đọng chính cái ô nhiễm đó. Thường trực
quán chiếu không khơi dậy dòng nước dục, không tạo những chuyển động để ô nhiễm
tái sinh, luân lưu nhưng không nhiễm ô. Dòng tâm thức nếu ngăn chận dễ phát
sinh ra những nguy hại, như dòng nước đang chảy xiết nếu ngăn lại tất nhiên nước
sẽ phá bờ, chảy lan tràn. Cho nên cứ mặc nhiên để nó tuôn chảy, chỉ cần lắng đọng,
ý thức một cách liên tục rõ ràng sự lưu chuyển ấy, tươi mát trong suốt là điều
cần thiết cho hành trình vượt thoát.
Giải thoát không có
nghĩa chối bỏ trốn chạy cuộc đời nầy, vì chỉ trong cuộc đời nầy mới tìm thấy sự
giải thoát, bên cạnh khổ đau phiền não thì giải thoát mới có ý nghĩa tuyệt diệu.
Nếu cuộc sống lúc nào cũng bình an, hẳn nhiên không cần giải thoát và không cần
tìm phương vượt thoát. Sở dĩ điều này phát sinh cũng chính từ sự ràng buộc chìm
đắm trong khổ đau. Bồ Tát mang hạnh nguyện độ sanh, nên quốc độ của qúy ngài là
thế giới khổ đau, hể còn khổ đau thì còn phải giải thoát, ngoài điều nầy ra Bồ
Tát sẽ không còn đối tượng để phục vụ và đất để dung thân. Qúy ngài xuất hiện cũng
chính vì cuộc đời đầy dẫy khổ đau, khi không còn khổ đau lúc ấy không còn qúy
ngài nữa, tự động biến mất.
Nếu tâm con người được
an tịnh trong mọi chiều hướng, có nghĩa chúng ta đã giải thoát ở một vài khía cạnh
nào đó, ít ra sự bình an trong cuộc sống. Giải thoát không có nghĩa vượt thoát
được tử sinh, khi chưa thật sự thể nhập vào uyên nguyên của nó. Đó chỉ là một
chặng đường chứ chưa phải rốt ráo cho một hành trình, đó chỉ là nền móng chứ
chưa phải ngôi nhà thật thể, đó chỉ là cánh cổng để hành giả bước vào ngôi nhà
giải thoát, vào được hay không, an trú lâu dài hay không, đều tùy thuộc vào mỗi
người và đó mới là vấn đề trọng đại.
Có những lúc trong một
cuộc hành trình dài, ta hay dừng lại để nghỉ ngơi, nhưng do mãi vui hay lầm tưởng
đó là cứu cánh, nếu không dụng tâm rốt ráo ta vẫn còn sự ngự trị của vô minh. An
phận và lầm tưởng vẫn là điều cố hữu trong mỗi chúng ta, nó tạo ra khuynh hướng
phụ thuộc biếng nhác, mặc nhiên. Mặc nhiên trong ý nghĩa chấp nhận trôi lăn
trong dòng đời, chứ không phải mặc nhiên trong ý nghĩa cùng tuyệt của giác ngộ,
giải thoát. Chính những điều ấy tạo nên sự dừng lại bên cổng của ngôi nhà, muốn
vào được bên trong, trước hết và trên hết sự an tịnh nơi tâm thường xuyên ngự
trị, không còn dính mắc nơi ngôi nhà và người đi vào, thể nhập trọn vẹn hòa đồng,
không một hình thái vướng bận nào, dù vi tế cuả tâm thức.
Giải thoát không đòi
hỏi nhất thiết cho một tương lai, quá khứ không níu kéo lại được, tương lai thì
quá xa vời, chỉ có hiện thực là quan trọng, cho nên những tác động cần phải tác
động ngay trong hiện tại, ngoài điều nầy ra tất cả đều trở nên vô nghĩa và
không giúp được gì cho hành trình giải thoát thật sự. Hiện tại là nền móng cho
tương lai và quá khứ cũng gắn liền ngay từ bây giờ, nếu hiện tại còn sự xô bồ,
sanh diệt, phân hoá tiếp nối, thì hẳn nhiên tương lai cũng như vậy. Khi đã gieo
nhơn sanh diệt thì quả không thể sai khác, cho nên cần phải tác động cho một hiện
tại không sanh diệt, chỉ khi nào không sanh mới không bị diệt.
Trong Chứng Đạo Ca có
ghi lại cuộc đối thoại hào hứng của nhà sư Huyền Giác với Lục Tổ Huệ Năng. Huyền
Giác mang tâm trạng hoang mang giữa mê và ngộ, sinh tử, vô thường, tìm đến gõ cửa
Huệ Năng và đặt vấn đề sống chết lên trên, một vấn đề trọng đại gấp rút, cần phải
giải quyết ngay tức khắc ” Sanh tử là việc lớn, vô thường mau chóng lắm
” Sanh tử vẫn là chuổi dài vô tận, vô thường tấn tốc không chờ đợi một
ai, khi nó đến chỉ trong một hơi thở thân mạng không còn. Huyền Giác đưa vấn đề
của kiếp nhân sinh ra, và Huệ Năng đã giải quyết “Sao chẳng nhận cái lý
không sinh, thấu rõ cái nghĩa không chóng” Câu nói nầy như một đòn thí
mạng đánh vào tâm thức, nhưng nhà sư đã thoát hiểm vì may mắn đạt được tâm Phật
nhờ bộ kinh Duy Ma, nhưng phải nhờ Huệ Năng ấn chứng cho.
6, Lối trở về
Chặng đường tìm về
giác ngộ vưọt thoát đã thênh thang, chỉ cần chúng ta bưóc vào với tâm trạng tha
thiết cầu mong, dốc cả tâm huyết của mình thể nhập vào cái diệu huyền, niềm tin
mãnh liệt vào sự giải thoát ngay trong hiện tại cần phải thực hiện. Lối trở về
đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân khắc ghi kỳ công, đánh phá trong thẩm sâu của
dòng tâm thức một cách liên tục, thì sự đổ vở ảo tuởng do vô minh chủ động, mới
không còn cơ hội tồn tại. Như hoa đốm ở giữa hư không vốn không thật, vì do con
mắt bị nhậm mới sinh ra ảo tưởng như vậy, khi mắt hết nhậm thì làm gì thấy được
hoa đốm.
Sự sanh diệt, phải
đánh đổi bằng cái vô sanh vô diệt, vô thường phải đưọc thay thế bằng cái thường
còn bất biến. Cả một kỳ công và cả một tâm niệm không còn ngự trị, móng dậy của
sát na sanh diệt nào, lý lẽ nầy như một thoại đầu, cần phải nghiền nát thì mới
vỡ ra ở kiếp nhân sinh nầy. Nếu không thì muôn kiếp phải đắm chìm trong khổ
não, nổi trôi giữa dòng thác loạn tạp nhiễm, cái hoang mang ray rức giữa trạng
thái mê ngộ, dỡ sống dỡ chết, giữa cái sinh và vô sinh diệt, một khi không còn
vọng động thì chân như hiện diện, then chốt cuối cùng cần phải ấn mạnh mở tung,
nếu không thì sự trở về vẫn còn là khúc quanh trong cuộc đời.
Sự khác biệt giữa căn
cơ và trình độ, không cần thiết cho sự trực nhận về giác ngộ, ứng dụng vào thực
tế mới là điều cấp bách, cứ việc gõ cửa thì cửa sẽ tự động mở, sự kiên nhẫn và
chờ đợi để đưọc mở cửa, đòi hỏi chúng ta phải biết cách gõ và chờ. Gõ sao cho
đúng nhịp, thì âm vang đinh tai nhức óc của nó, khiến cho vô minh run sợ khiếp
viá trong âm hưởng vô tận. Một khi cánh cửa được mở tung, chúng ta lập tức bước
vào ngay không so đo, chùn bước, đó là cơ hội nghìn vàng, dịp may hiếm có mà suốt
cả dòng nhân sinh, chúng ta mới có cơ may bắt gặp, nếu buông lơi vụt mất cơ hội,
thì không biết lúc nào mới gặp lại. Như chú rùa một mắt biết khi nào mới gặp bộng
cây trôi trên biển, chú rùa vẫn phải lặn hụp trong dòng biển mặn bao la, trong
khi khúc cây cứ lững lờ trôi về nơi vô tận, mặc cho chú rùa gào thét quờ quạng,
thẩm sâu của đại dương là ngôi mộ chôn chặt chú. Chỉ còn lại tiếng gầm thét của
biển khơi, của những đợt sóng tiếp nối.
Làm sao và làm sao vượt
thoát? Một câu hỏi gắng liền với quảng đời còn lại, một công án đánh động ray rức
ngay trong hạnh phúc, khổ đau, hỷ lạc, trong sự say đắm của lý lẽ vô sanh vô diệt.
Nếu cái đích cuối cùng không tóm thâu, thì cả một hành trình không cơ may tồn tại
lâu bền. Chư Phật và Bồ Tát đã thể nhập trọn vẹn vào cái thường còn, nên lúc
nào cũng thấy đưọc cái lẽ vô sanh ở trong cái sanh diệt, cái ngộ trong cái mê,
giải thoát trong khổ đau. Với chúng ta còn mịt mù xa thẳm, thì làm sao và lúc
nào mới đến được đầu nguồn của giải thoát?
7, Chiếc bè
Khi nào cứ điểm cuối
cùng thâu tóm và ngự trị rồi, thì lúc ấy cả một bình sanh còn lại, không cần dụng
công mà vẫn như dụng công, hành mà vô hành. Chặng đường nào, nếu không khéo dụng
công thì chặng đường đó có muôn lối, lạc buớc rơi vào hố thẳm ngay. Trí tuệ
sáng soi, ý lực vượt thoát tử sanh, đều phải trải qua thử thách cam go, hành giả
phải cẩn trọng, dò dẫm từng bước, đạt được trạng thái liễu ngộ chân tâm, thấy
đuợc mặt trời chân như chiếu rọi, theo đó mới không lạc lối, lúc ấy mới không dọ
dẫm nữa, mà phải lao mình cho thật nhanh đến đích cuối cùng. Nương vào ngộ để đến
giải thoát, nương vào chiếc bè để qua sông, khi qua được bờ kia đừng quên bỏ bè
lại cho dòng sông, đừng vác theo làm gì cho mệt xác, nơm dùng để bắt cá, được
cá rồi thì quêm nơm, hạnh nguyện độ sanh phải lập thệ, đừng an hưởng trong niết
bàn chứng đắc.
Hành trang cho ngày
trở về phải được chuẩn bị, trăng thanh đang soi đường, hoa thơm đang chờ đón,
hương lạ được kết tinh bằng giải thoát. Chúng ta chỉ cần lập thệ dấn thân, dụng
công liên tục, chắc hẳn ta tìm thấy được một bình minh tươi sáng, hạnh phúc
trong vòng khổ đau, giải thoát trong vòng ràng buộc. Phải uống trà mới thấy đưọc
hương vị ngọt ngào của nó, trong cái thẩm sâu mênh mang, vượt thoát là tối cần.
chí Chân Nguyên, số 1 tháng 10 năm 1985
Discussion about this post