TỔNG QUAN VỀ ĐỊNH HỌC
Thích Trung Định
Định học là một chi phần quan trọng trong Tam vô lậu học giới, định, tuệ. Nằm ở chi phần thứ hai, định học là kết quả do thực hành giới đem lại và là nhân của tuệ học. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ. Trên con đường thực tập tâm linh theo Phật giáo, nếu thiếu chi phần này thì kết quả thực tập sẽ không thành tựu trọn vẹn. Bởi mỗi chi phần trong đó sẽ hỗ trợ cho nhau, chúng nằm trong một chỉnh thể thống nhất, bất phân. Nó bao hàm trọn vẹn đạo lộ đi đến giác ngộ giải thoát. Do vậy, hành giả tu học sẽ phải thực hành trọn vẹn về giới học, về định học và về tuệ học. Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật nói rõ về mối quan hệ này: “Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.”[1]
Ý nghĩa thuật ngữ
Thuật ngữ samādhi được dịch qua tiếng Anh là ‘concentration’ (thiền định), là yếu tố quan trọng nhất về kỹ thuật thực hành. Nó có gốc ‘saṃ-ā-dhā’ nghĩa là đặt lại với nhau, tập trung tâm ý, tức đề cập đến một trạng thái của sự nhất tâm hay chuyên chú tâm. Trong một ý nghĩa kỹ thuật của thiền định bao gồm cả trạng thái của tâm và phương pháp thực hành để tạo nên trạng thái đó.[2] Tất cả những vấn đề này mặc dù khác nhau về hình thức và sự thể hiện, nhưng nó cũng có trong một ý nghĩa của thiền định đó là sự nhất tâm (cittassa ekaggatā). Ngài Phật Âm (Buddhaghosa Thera) trong tác phẩm Atthasālinī (118) định nghĩa về thiền như sau: ‘Tâm trí tập trung lại một chỗ (chế tâm nhất xứ) gọi là nhất tâm (cittassa ekaggatā), do đó gọi là thiền định.[3] Với ý nghĩa từ nguyên của ‘đưa hoặc đặt lại với nhau’, thuật ngữ này được dùng để chỉ một trạng thái tập trung tinh thần, thường là kết quả của một số kỹ thuật hoặc hành thiền cụ thể.
Theo từ điển ‘Pāli-English Dictionary’ củaT.W. Rhys Davids và William Stede, thuật ngữ Samādhi có gốc là ‘saṃ+ā+dhā’, nghĩa là tập trung, gom lại, thu thập lại, tập trung tâm ý, và thiền định. Đồng thời với việc thực hành chánh mạng, là một điều kiện cần thiết để đạt được trí tuệ cao hơn và đạt được giải thoát.[4]
Trong kinh tạng, samādhi được định nghĩa là sự nhất tâm (citta ekagata), định nghĩa này hoàn toàn phù hợp với tính nghiêm ngặt của thuật ngữ tâm lý trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Vi Diệu Pháp xem nhất tâm như một tâm sở (cetasika) riêng biệt có mặt trong mọi tâm. Nó là một biến hành tâm sở với nhiệm vụ hợp nhất tâm trên đối tượng của nó, bảo đảm rằng mỗi tâm chỉ nắm bắt một đối tượng duy nhất mà thôi. Khi nhất tâm vượt qua sự ổn định căn bản của tâm trên một đối tượng để đem lại cho tâm một mức độ kiên cố và không tán loạn nào đó thì được xếp dưới danh mục samādhi (định). Có lẽ vì vậy mà Bộ Pháp tụ (Dhamma-sangani) đồng hóa các loại nhất tâm này với một chuỗi các từ đồng nghĩa bao gồm tịnh chỉ (samatha), định căn (samādhindriya), định lực (samādhibala). Từ quan niệm tâm lý nghiêm ngặt này, samādhi (định) có thể hiện diện trong các tâm bất thiện cũng như thiện và vô ký. Trong hình thức bất thiện nó được gọi là “tà định” (micchā-samādhi), trong hình thức thiện gọi là “chánh định” (sammāsamādhi).
Danh từ ‘samādhi’ tùy theo ngữ cảnh để dịch. Nếu được dùng trong nghĩa ‘chánh định’ (samma samadhi), một trong 8 chi phần của Bát Chánh Đạo, thì chữ nầy có liên quan đến các tầng thiền-na, và thường được xem như cùng nghĩa với ‘samatha-bhāvana’, dịch là Thiền An Chỉ, hay Thiền Chỉ (samatha). Nếu được dùng trong nghĩa tam vô lậu học Giới, Định, Tuệ, thì nó có nghĩa là bao gồm 3 chi: Chánh Tinh Tấn (Right effort), Chánh Niệm (Right mindfulness), Chánh Định (Right concentration) của Bát Chánh Đạo.
Thuật ngữ ‘samādhi’ được dịch phổ biến theo tiếng Trung Quốc bao gồm những cụm từ như ‘Tam muội’(三昧), ‘Tam ma địa’ (三摩 地) hoặc ‘Tam ma đề’ ‘sanmodi’ (三 摩提), cũng như các bản dịch của từ ngữ theo nghĩa đen như định (‘tính cố định’ 定). Bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập thường sử dụng Tam muội ‘Sanmei’ (三昧), trong khi bản dịch của ngài Huyền Trang có xu hướng sử dụng từ ‘Định’ (‘tính cố định’ 定).
Bên cạnh thuật ngữ thường dùng ‘samādhi’, trong từ vựng kỹ thuật về ‘thiền’ cũng còn sử dụng hai thuật ngữ phổ biến đó là: Pāḷi. Jhāna (Skt.dhyāna), và Bhavana. Luận Sư Phật âm, nhà chú giải vĩ đại của Phật giáo đã truy nguyên từ Pāḷi Jhāna (Skt. Dhyāna) đến hai hình thức có gốc động từ. Một là động từ jhāyati với nghĩa tư duy hay tĩnh lự, có nguồn gốc chính xác theo từ nguyên. Ngoài ra, Ngài còn đưa thêm một từ phái sanh nữa của jhāna dù hơi có vẻ khôi hài, song với ý định làm sáng tỏ nhiệm vụ của nó hơn là giới thiệu gốc động từ. Từ phái sinh này được theo dấu từ chữ jhāna đến động từ jhāpeti với nghĩa “thiêu đốt”, lý do là: “vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch, nên gọi là jhāna”. Lời giải thích thứ hai này hàm ý rằng jhāna “thiêu đốt” hay “thiêu hủy” các phiền não, yếu tố ngăn cản sự phát triển định và tuệ trong tâm.[5] Trong ý nghĩa này, nhà bình luận về thiền na nổi tiếng Ācariya Mahānāma, viết rằng: “Những ai đã an trụ vào các tầng thiền na, thì sẽ đốt cháy hết các đam mê dục vọng. Do đó, vị ấy hoàn toàn đoạn trừ hết thảy chúng trong tâm, và đạt được các trạng thái thiền na (lokuttara jhāna), nên, thiền na (jhāna) được hiểu theo nghĩa là ‘đốt cháy’.
Theo Mahāthera, Paravahera Vajirañāṇa, từ jhāna, có ý nghĩa rộng hơn samādhi. Nó ngụ ý chủ yếu là ‘chiêm nghiệm’ (contemplation), hay ‘thiền định’ (meditation), thuật ngữ này sử dụng trong Phật học không chỉ mang ý nghĩa phát triển tinh thần rộng lớn mà còn là quá trình chuyển đổi các trạng thái ý thức thấp hơn sang các trạng thái cao hơn, từ các tầng thiền sắc giới (rūpāvacara), đến vô sắc giới (arūpāvacara), rồi từ Vô sở hữu xứ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng đạt đến đỉnh cao trong sự tiến bộ đời sống tâm linh. Theo cách sử dụng có tính kinh điển mang tính luận giải thì từ jhāna có hai ý nghĩa có thể. Một mặt, nó có nghĩa là ‘quán chiếu’ đến một đối tượng nhất định, hoặc ‘quán sát một cách chặt chẽ’ về đặc điểm của các sự vật hiện tượng. Mặt khác, nó có nghĩa là ‘loại bỏ’ những triền cái hoặc những tâm ý bất thiện làm chướng ngại thánh đạo. Trong cách sử dụng thứ hai, từ jhāna được giải thích bởi các nhà bình luận Phật giáo với động từ jhāpeti, ‘đốt’. Tuy nhiên, ngày nay, từ jhāna được chấp nhận rộng rãi hơn theo nghĩa cũ, nghĩa là ‘thiền định’, và cả thuật ngữ Pāli là jhāna tương đương của tiếng Phạn, dhyāna, được sử dụng để biểu thị trong hệ thống thiền định Phật giáo.[6]
Từ jhāna có liên quan chặt chẽ với danh từ samādhi, với nghĩa thông thường là tập trung tâm ý. Samādhi xuất phát từ gốc nguyên thủy sam +ā +dhā, nghĩa là thu thập hay tập hợp lại, do đó đề xuất tập trung hay thống nhất tâm. Do đó Samādhi được miêu tả ngắn gọn như các trạng thái ly các dục và các bất thiện pháp, tâm ý trở nên lành mạnh – Kusala cittekaggatā samādhi. [7]
Thuật ngữ tiếng Phạn thường hay nhắc đến nhất khi nói đến thiền là ‘dhyana’, thuật ngữ này được người Trung Quốc thời sơ khai viết là thiền na (ch’an -na) và người Nhật gọi là thiền Zen. Theo Matsumoto, ‘các thuật ngữ dhyana và samahita (nhập định hay nhập tam ma địa) đã xuất hiện trong các văn bản tiếng Upanishadic trước khi Phật giáo sử dụng.’ Đây là trạng thái thiền định khi Đức Phật còn là Thái tử, trong một buổi lễ hạ điền cùng vua cha và các thân tộc dòng họ Thích ca, Thái tử Tất-đạt-đa (Siddhatha) ngồi dưới gốc cây Hồng táo tâm bắt đầu ly các dục, các bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Sau này dưới cây Bồ đề tại Bodhgaya, Đức Phật nhớ lại trạng thái thiền này và thực hiện cho đến khi đạt được giác ngộ.
Trong ý nghĩa hẹp dhyana được sử dụng thường xuyên để đề cập cụ thể đến các cấp độ khác nhau từ Sơ thiền đến Tứ thiền và Tứ không định. Một bậc thiền có một trạng thái tâm tương ứng. Trong một ý nghĩa rộng lớn hơn này, thiền được nói là bao gồm cả thiền chỉ (samatha) và thiền quán (vipassana), tức pháp thiền làm an chỉ tâm, chuyên chủ tâm và pháp thiền kia là thực tập quán chiếu sâu vào hoặc nhận định về bản chất của sự tồn tại.[8]
Thuật ngữ Bhāvana cũng được dịch là ‘thiền định’. Danh từ này có nguồn gốc từ ngữ căn bhii, có thể dịch chữ ‘bhāvana’ là: tu thiền, tu tâm, luyện tâm, lọc tâm, dưỡng tâm. Theo Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), nó xuất phát từ ngữ căn bhā, ‘được’ hay ‘để trở thành’, trích lời trong Tạng (Canon) để hỗ trợ yêu cầu của mình mà Bhāvana có thể được hiểu như là một sự tiến triển, phát triển tâm linh, sự tu tâm, luyện tâm.
Trong Phật giáo ‘bhavana’ có thể nói đến bất kỳ hình thức tu tập, thực tập, ‘dhyani’. Gần đây ngài Walpola Rahula đã lập luận rằng, ‘thiền Phật giáo phải được hiểu theo nghĩa bhavana rộng hơn là dhyana.’ Theo Ngài, Thiền định là một danh từ kém cỏi để dịch nguyên ngữ Bhāvanā, có nghĩa sự đào luyện tâm linh. Bhāvanā trong Phật giáo nói đúng ra, là một sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất về mặt ngữ nghĩa của danh từ. Nó nhằm mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những ô nhiễm, những thứ làm tâm giao động như ý tưởng về dâm dục, sân hận, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài nghi; và đào luyện những đức tính như tập trung, chú ý, thông minh, ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, niềm tin, hoan hỷ, an tịnh, để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả thấy rõ thật chất của mọi sự vật, và thật chứng chân lý tối hậu, Niết-bàn.
Từ điển Phật học Trung Hoa, 禪定 thiền là dhyana, có thể là một phiên âm; định là một giải thích của samādhi. Thiền là một yếu tố trong định, hoặc samādhi, trong đó bao gồm cả mặt đất của thiền định, tập trung, trừu tượng, đạt đến cuối cùng vượt qua cảm xúc hay suy nghĩ; cf.禪, mà hai từ thiền định sử dụng chặt chẽ với nhau. Tiến sĩ Muller, một học giả Phật giáo Bắc tông, tác giả quyển Tự điển Thuật ngữ Phật học Đông Á (Dictionary of East Asian Buddhist Terms), cũng cùng quan điểm như vậy, Thiền Định là tiếng ghép đôi, từ chữ Phạn là ‘Thiền’ (từ ‘thiền-na’) và chữ Hán là ‘Định’, có nghĩa là quay nhìn vào bên trong, với trạng thái tĩnh lặng.
Như vậy, chúng ta phải dùng một cách trong ý nghĩa trọn vẹn nhất đó là Thiền Định, nó bao gồm cả Samādhi và dhyana và bhavana để nói đến thiền định Phật giáo. Như vậy mới bao hàm toàn bộ ý nghĩa của Thiền định được mô tả trong kinh tạng.
Ý nghĩa về thiền định
Thiền nói cho đủ là Thiền na, có nghĩa là tư duy hay tĩnh-lự, là chuyên chú tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt được trạng thái nhất tâm. Giống như nhiều thuật ngữ Pāli và Sanskrit Phật giáo khác thuật ngữ samādhi được chỉ định trong giai đoạn thứ hai của ‘Con đường Thanh tịnh’, nó bao gồm nghĩa đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen, nó có nghĩa là ‘cố định vững chắc’, do đó chúng ta có thể định nghĩa như là theo nghĩa hẹp nhất và độc nhất của nó về cơ bản tập trung tâm ý lành mạnh vào một đối tượng duy nhất. Và theo nghĩa rộng nhất của nó theo truyền thống bao gồm: chánh niệm và tự sở hữu; sự mãn nguyện; sự giải thoát khỏi những triền cái; bài tập sơ bộ cho sự phát triển của nhất tâm; sự chuyên chú, nhất tâm; các trạng thái thiền na từ Sơ thiền đến Tứ thiền, đến Tứ không định.
Trong Dhammasangazī (10) định nghĩa sự nhất tâm (cittassa ekaggatā) như sau: ‘Tính ổn định, tính vững chắc, và sự kiên định của trí tuệ, sự vắng mặt của tâm tán loạn và phân tâm, tâm chuyên chú, sự an tịnh, định lực và chú tâm, và cuối cùng là chánh định.
Thanh Tịnh Đạo Luận định nghĩa: ‘Định’ (samādhi) với nghĩa là tập trung (samādhāna). Tập trung là gì? Đó là sự xoay quanh (ādhāna) của tâm và tâm sở một cách đều đặn (samam), chánh đáng (sammā) vào một đối tượng duy nhất. Bởi vậy, đấy là trạng thái nhờ đó tâm và tâm sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng, và đặt hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Đặc tính của Định là không phân tán. Bản chất hay nhiệm vụ của nó là loại trừ phân tán. Tướng của nó là không tán loạn, nhân gần của nó là lạc, do câu “nhờ lạc, tâm vị ấy được định.[9]
Phật giáo Nguyên Thủy định nghĩa Thiền định (samādhi) hay thiền chỉ (samatha bhāvanā) có mục đích chế ngự 5 chướng ngại của định gọi là năm triền cái (nīvaraṇa) và làm cho tâm an trú, thuộc ba chi định phần trong Bát Thánh Đạo (Aṭṭhaṅgik’ ariya magga) tương ứng với ba mức độ định khác nhau:
a) Chánh tinh tấn (sammā vāyāmo): An trú nhờ cố gắng giữ nhất tâm trên đối tượng sơ tướng[10] (parikamma nimitta) và thô tướng (uggha nimitta)[11]. An trú này gọi là chuẩn bị định (parikamma samādhi).
b) Chánh niệm (sammā sati): An trú nhờ duy trì nhất tâm trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga nimitta)[12]. An trú này gọi là cận hành định (upacāra samādhi) hay tịnh thuộc dục giới định.
c) Chánh định (sammā samādhi): An trú nhờ nhất tâm bất động trên đối tượng quang tướng (paṭibhāga nimitta). An trú này được gọi là an chỉ định (appanā samādhi) hay định sắc giới và định vô sắc giới.
Trong bài kinh A Ma Trú (Ambaṭṭha sutta),Trường Bộ, bản kinh số 3, giới thiệu các vấn đề tương ứng là Giới Định và Tuệ, do đó Định sẽ bao gồm (a) Phòng hộ sáu giác quan (indriyas gutta-dvāratā), (b) Chánh niệm (sati-sampajañña), (c) sự thỏa mãn (santuṭṭhi), (d) sự giải phóng khỏi năm triền cái (nivaraṇāni), (c) bốn tầng thiền.
Thành tựu bốn tầng thiền được Đức Phật gọi đó là chánh định: “Và này các Tỷ kheo, thế nào là chánh định? Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm có tứ. Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Đây gọi là chánh định.”
Pháp Bảo Đàn kinh định nghĩa Tọa Thiền là: “Bên ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền.” Ngoài lìa tướng tức Thiền, trong chẳng loạn tức Định, ngoại Thiền nội Định gọi là thiền định. Ngoài lìa tướng nghĩa là khi thấy tướng nhưng không dính mắc vào tướng, tức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần tâm không dính mắc, hay rong ruổi chạy theo tìm kiếm. Bên trong tự tánh chẳng động, tức nội tâm an trú, vắng bặt các tạp niệm, do vậy tâm chuyên nhất, đó là định.
Ngài Khương Tăng Hội trong bài tựa An Ban Thủ Ý kinh định nghĩa Thiền là loại trừ, hay khí (elimination). Loại trừ và đốt cháy ở đây, là loại trừ những cấu uế trong tâm, những phiền não, tập khí và nội kết trong tâm. “Thiền là làm cho tâm ngay thẳng lại, làm cho ý chuyên nhất lại. Tập hợp tất cả những điều lành. Dùng những điều lành ấy để loại trừ những uế ác còn dính mắc trong tâm. Uế ác đó là năm sự ngăn che, gọi là Ngũ triền cái, đó là Tham dục, Sân hận, Thùy miên, Trạo hối và Nghi ngờ.
Như vậy, có thể nói định học là một phạm trù rộng lớn trên con đường thực tập tâm linh trong Phật giáo. Thiền định được xem là trái tim của Phật giáo, vì nếu không có thực tập thiền định thì sẽ không đạt được mục tiêu cuối cùng đó là trí tuệ vô lậu giải thoát. Ngày nay, khi Phật giáo phát triển rộng lớn các trường phái thiền được phát triển. Thiền chỉ, thiền quán, thiền Tứ niệm xứ, thiền quán niệm hơi thở và thiền Từ bi được áp dụng thực tập rộng rãi. Trong đó, thiền chánh niệm đã trở thành một dòng thiền thiết yếu trong xu hướng thời hiện đại. Thiền định giúp giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết như: giảm stress, buông thư, an trú và tịnh lạc, giúp tái cấu trúc và thiết lập cơ chế tâm, mang lại an lạc giải thoát trong đời sống.
Ghi chú:
[1]Maurice Walshe (trans.), Dīgha nikāya, The Long Discourses of the Buddha, Wisdom publications, Boston, 2012, p. 234.
[2] Mahāthera, Paravahera Vajirañāṇa, Buddhist meditation in theory and practice (Colombo, MD. Gunasena & Co.Ltd., 1962), p. 17.
[3] Ibid, p. 17.
[4] T.W. Rhys Davids & W. Stede (ed.), Pali-English Dictionary, Munshhiram Manoharlal, New Delhi, 2001, p. 685.
[5] Henepola Gunaratana, A Critical Analysis of the Jhanas in Theravāda Buddhist Meditation, The American University, Washington, 1980, p. 18.
[6] Original author, Paravahera Vajirañāza Mahā thera, new edition revised and edited by Allan R. Bomhard, Buddhist Meditation In Theory and Practice, A General Exposition According to the Pāli Canon of the Theravādin School, Charleston Buddhist Fellowship, 2010 (2554), p. 27.
[7] Harcharn Singh Sobti, Vipassanā The Buddhist way, EBL, Delhi 2003, p. 130.
[8] Peter N. Gregory, Traditions of Meditation in Chinese Buddhism, University of Hawaii Press, 1986, p. 18.
[9] Thích nữ Trí hải (dịch) Thanh Tịnh Đạo Luận, chùa Pháp Vân ấn hành, tr. 136.
[10] Sơ tướng: là hiện vật được tạo ra hay có sẵn trong thiên nhiên được hành giả dùng làm đối tượng thiền định. Ví dụ như một hình tròn màu xanh (được tạo ra) hay ngọn lá xanh (thiên nhiên) mà hành giả dùng để tập chú với mục đích định tâm.
[11] Thô tướng: sau khi tập chú tâm với tưởng đủ mạnh để sao chép sơ tướng thành hình ảnh tương tự bên trong gọi là thô tướng hay tợ tướng, bấy giờ hành giả tạm thời bỏ sơ tướng bên ngoài để tập chú vào thô tướng bên trong.
[12] Quang tướng: nếu chú tâm trên thô tướng đúng mức tướng này sẽ phát ra ánh sáng nên được gọi là quang tướng. Quang tướng là sắc do tưởng sinh, vì vậy, thiền lấy sắc tưởng này làm đối tượng để đạt được an chỉ định được gọi là thiền sắc giới hay thiền hữu sắc.
Tạp chí Văn hóa Phật giáo, số 332.
Discussion about this post