THIỀN LÀ SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI
Thích Đạt Ma Phổ Giác
LỜI GIỚI
THIỆU
Xưa nay Thiền pháp là mạch nguồn của Phật
pháp. Thiền pháp đủ sức tháo gỡ mọi dính mắc tăm tối của con người. Hiện thực Thiền
pháp tháo tung mọi dây mơ rễ má, các thứ buộc ràng từ lâu nay trong cuộc sống.
Thấy phủng chỗ này là đạp nhào rào giậu chông gai mọi thứ trong nhân thế. Tuy
nhiên phải đầy đủ dũng lực Bát-Nhã một tráng sĩ, giáng ma xử trong tay huy động
vẹn toàn quân ma, tất cả trở thành bến bờ thanh lương giải thoát.
Nơi đây, giới thiệu thiền là sự sống của
con người, có thể thiền trong cuộc sống gia đình và xã hội, hành giả Phổ Giác
đã nói lên được tinh thần này trong tác phẩm “Thiền là sự sống của con người”. Đồng
cảm, chia sẻ và khích lệ tác giả, tôi hoan hỷ viết đôi dòng giới thiệu. Rất mong
tác phẩm đem đến cho bạn đọc nhiều lợi ích thiết thực và niềm an vui trong cuộc
sống.
Trân trọng!
Tổ đình
Thường Chiếu, 20-08-2013
THÍCH
NHẬT QUANG
THIỀN
TRONG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI
Thiền là chân lý sống
nên không thể dùng ngôn ngữ hay định nghĩa để diển tả Thiền, đến chỗ đó thì mỗi
hành giả nóng lạnh tự biết; nhưng Thiền không thể tách rời cuộc sống, không thể
tìm thấy ở một nơi xa xôi nào mà ngay nơi cuộc đời chúng ta. Thiền trong cuộc
sống là sự biết cách hoà hợp nhịp nhàng giữa một khối óc sáng suốt và một trái
tim hiểu biết, nhân hậu để phát sinh trí tuệ và từ bi. Con đường Thiền tập là
tỉnh giác trong mọi lúc, mọi nơi để mỗi hành giả thể nhập chứng ngộ Phật tính
sáng suốt ngay nơi thân này. Nói đến Thiền là nói đến sự gắn liền với đời sống
con người, không phải như nhiều người thường lầm tưởng là Thiền chỉ dành cho
bậc thượng căn, Thiền chỉ áp dụng trong các Thiền viện hoặc phải vào thâm sơn
cùng cốc mới có thể tu Thiền, hiểu như vậy vô tình đánh mất giá trị thiết thực
của nó. Thiền là con đường ngắn nhất cho nhân loại ứng dụng trong cuộc sống
hằng ngày, tuỳ theo hoàn cảnh cuộc sống mỗi người mà ta khéo sắp xếp để Thiền trong
đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc.
Sở dĩ xưa nay chúng ta
thấy nó xa lạ bởi có quá nhiều tạp chất lẫn lộn trong nhà Thiền nên làm mọi
người cảm thấy mông lung, huyền bí, xa vời, khó nắm bắt; cũng vì có nhiều người
tu theo Thiền ngoại đạo nên bị tẩu quả nhập ma hay bị điên khùng, từ đó người
ta quy kết Thiền và cảm thấy sợ sệt khi nói đến Thiền. Con người hay xa rời
thực tế để tìm hiểu những điều cao siêu, huyền bí, trong khi cuộc sống đang dàn
trải trước mắt chúng ta tất cả đều là Thiền. Thấy sắc là Thiền, nghe tiếng là Thiền.
Mắt thấy, tai nghe là hai căn chúng ta tiếp xúc hằng ngày, ta chỉ Thiền ngay
nơi thấy-nghe chớ không phải tìm cầu đâu xa. Con người thường hay nhớ nghĩ về
quá khứ, luyến tiếc thời vàng son và mơ mộng viễn vông về tương lai xa tít.
Người lớn tuổi hay nhớ về kỷ niệm quá khứ vui buồn, người trẻ thường mong muốn
đến tương lai, do đó đánh mất mình trong hiện tại. Người tu Thiền sống ngay tại
đây và bây giờ để nhìn thấy rõ những tâm niệm tốt xấu, đúng sai, phải quấy, hơn
thua đang phát khởi trong tâm nhằm chuyển hoá chúng trở về với cái gốc ban đầu.
Thiền là chất liệu sống giúp con người thông suốt mọi hiện tượng, sự vật trên
thế gian này và sống bình yên, hạnh phúc nhờ thấy biết đúng như thật. Nhờ có Thiền
chúng ta hiểu rõ bản chất thực hư của thân tâm mình và hoàn cảnh, nên con người
sống thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng
vô ngã, vị tha.
Trong đạo Phật có nhiều
phương pháp Thiền để giúp cho nhân loại thể nghiệm sâu sắc vào đời sống gia
đình và xã hội. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời tại Ấn Độ trên 2600 năm
cũng do tu Thiền mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Bên cạnh đó, Ngài thành
Phật nhờ hành Bồ tát đạo vô số kiếp về trước và cũng do tu Thiền mà thành tựu
trong kiếp hiện tại. Nếu chúng ta giác ngộ, giải thoát cho mình mà không giúp
đỡ người khác cùng giác ngộ theo là hạnh của hàng Thanh Văn, Duyên Giác thủ
chứng quả vị A La Hán nên không thể thành Phật. “Phật” là danh từ chung nói cho
đủ là “Phật đà”, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, nghĩa là tự giác, giác
tha và giác hạnh viên mãn. Phật là con người bằng xương bằng thịt như tất cả
mọi người, cũng được sinh ra từ bụng mẹ, không phải biến hoá từ nơi khác đến.
Chúng ta cũng là người giống như Phật, Phật tu hành thành Phật, ta cũng có thể
tu hành thành Phật và ai muốn thành Phật thì phải biết tu Thiền.
Trở về quá khứ khi Bồ
tát Sĩ Đạt Ta bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để ra đi tìm cầu chân lý.
Trước nhất Ngài tu Thiền 5 năm đầu với hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất thời bấy
giờ, nhưng chỗ đến chưa đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Ngài
từ giã ra đi và tự tu Thiền khổ hạnh ép xác đến 6 năm trời, có khi chỉ ăn mỗi
ngày một hạt mè, hạt bắp mà cũng không tìm ra chân lý tối cao. Ngài tu Thiền
với hai vị đạo sư nổi tiếng cũng chưa đạt kết quả viên mãn, rồi tự mình Thiền theo
cách khổ hạnh ép xác đến tột cùng, dẫn đến ngất xỉu, nhờ cô thôn nữ chăn bò
cúng dường bát sữa giúp Ngài dần hồi tỉnh lại. Từ đó, Ngài quán sát trở lại và thấy
rõ Thiền nếu ép xác khổ hạnh quá mức sẽ dẫn đến thân thể suy yếu, tinh thần bạc
nhược nên không đủ sức thể nhập chân lý. Thiền mà lợi dưỡng đầy đủ cũng không
thực chứng bản tâm, do đó Ngài quay về Trung đạo, ăn vừa đủ để nuôi sống thân
này, nhờ vậy Ngài dễ dàng vào Thiền nên tâm an định và trí tuệ phát sinh mà
thành tựu Phật đạo.
Những lời dạy vàng ngọc
của đức Phật do tu Thiền mà thành tựu đã trải qua hơn 26 thế kỷ vẫn còn là ngọn
đuốc sáng soi đường cho con người xây dựng nếp sống bình yên, an vui và hạnh
phúc trọn vẹn. Đạo Phật đã hiện hữu sáng ngời theo dòng thời gian và tồn tại
cho đến ngày hôm nay chính yếu vào việc thăng hoa tuệ giác tâm linh và đạo đức
con người. Từ đó, đức Phật hiện thân người, biết rõ thực tại khổ đau của con
người và tìm được lối thoát cho con người. Ngài từ bỏ con đường tư duy và cuộc
sống bế tắc của các lối Thiền ngoại đạo, đến cội bồ đề tham Thiền nhập định.
Trong suốt 49 ngày đêm, Ngài đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, thấy rõ con người
từ đâu đến, sau khi chết đi về đâu và biết rõ phương cách thoát khỏi sinh-già-bệnh-chết
của kiếp người. Trạng thái giác ngộ ấy trải qua ba giai đoạn: đầu đêm Ngài
chứng tuệ giác Túc Mạng Minh, giữa đêm chứng tuệ giác Thiên Nhãn Minh và cuối
đêm chứng tuệ giác Lậu Tận Minh. Ngài ngồi dưới
cội Bồ-đề 49 ngày đêm Thiền định nhằm phát minh chân lý cuộc đời. Khi định đã
sâu, tâm an nhiên, lặng lẽ nên trí tuệ sáng suốt, do đó chứng Tam minh và thành
Phật.
Khi tâm an định, trong sáng, Ngài liền
nhớ lại vô số kiếp về trước đã từng ở đâu, làm gì, giàu nghèo hay sang hèn… Đây
gọi là chứng được Túc Mạng Minh, khi ấy tâm hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng,
lặng lẽ mà hằng chiếu soi. Túc Mạng Minh đức Phật chứng đắc không phải một thứ thần thông
huyền bí nào đó mà do tâm Ngài yên lắng nên nhớ lại vô số kiếp về trước như nhớ
chuyện ngày hôm qua. Tất cả suy tư ấy đã nung nấu, thúc đẩy Ngài dấn thân tìm
phương cách đưa người thoát khỏi khổ đau, trầm luân và an hưởng hạnh phúc chân
thật, vĩnh hằng. Ngài nhớ lại vô số kiếp về trước một
cách rõ ràng, tường tận, không thiếu xót một chi tiết nào; từ đó Ngài biết được
con người từ đâu đến. Chúng ta không phải ngẫu nhiên có mặt một lần trong cuộc
đời mà đã sống chết luân hồi từ vô số kiếp đến nay. Khi chứng được đạo quả sẽ
thấy được lẽ thật, ai nói đúng sai về chân lý cuộc đời chúng ta đều biết rõ.
Thế nên, trong kinh A-hàm Phật nói “nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển
cả”. Chúng ta phải hiểu xa hơn vì Phật nói nước mắt chúng sinh đâu chỉ một kiếp
này mà vô số kiếp sống chết luân hồi, nên nước mắt ấy nhiều hơn nước biển cả.
Trạng thái chứng thứ hai là Thiên Nhãn Minh. Túc Mạng Minh là cái thấy
biết về thời gian quá khứ-hiện tại-vị lai trong vô số kiếp. Thiên Nhãn Minh là cái
thấy biết về không gian, thấy được sự vật hết sức nhỏ nhiệm và xa vô cùng; thấy
tường tận, rõ ràng nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh. Chúng sinh có mặt
trên thế gian này là do nghiệp quá khứ tạo nên tốt hay xấu mà dẫn tới thọ sanh
trong hiện tại, tuy là con người nhưng không ai giống ai vì nghiệp báo bất
đồng. Trong Kinh đã nói khi chứng được Thiên Nhãn Minh Ngài thấy trong bát nước
có vô số vi trùng, 26 thế kỷ trước khoa học chưa tiến bộ nên không có kính hiển
vi nhưng đức Phật đã thấy được vô số vi trùng trong bát nước. Hồi xưa ít ai tin
lời Phật vì đâu có gì chứng minh. Có một lần, vị Tỳ-kheo chứng A-la-hán đi
đường xa, khi qua sa mạc ngài khát nước quá lại gặp cái ao hơi cạn nên định lấy
nước uống. Khi dùng Thiên Nhãn Minh ngài thấy vô số vi trùng trong nước nên không
dám uống, đành chịu khát mà về đến Tịnh xá. Về đến nơi Ngài trình cho Phật
biết, Phật nói “tại sao ông không dùng con mắt thường của mình để nhìn”. Như
vậy, rõ ràng cách nay hơn 2600 năm Phật đã thấy được vi trùng, các vị A-la-hán cũng
thấy được vi trùng, nên trong Luật dạy quý Tăng ni đi đâu phải mang theo đãy
lọc nước vì sợ uống nước sẽ giết hại vi trùng. Ngày nay chúng ta không mang đồ
lọc nước theo vì nước đã được lọc sẵn. Đó là nói về vật rất nhỏ; còn vật xa,
Phật nhìn trong bầu vũ trụ thấy có hằng hà sa số thế giới, tức là thế giới
nhiều như cát sông Hằng Ấn Độ.
Ngày xưa, một số người cho rằng trời
tròn đất vuông có giới hạn, nhưng Phật nhìn thấy ngoài hành tinh của chúng ta
còn có vô số hành tinh khác. Hồi xưa đâu có kính viễn vọng, Phật dùng Thiên nhãn
thấy được vật ở rất xa, rất nhỏ; do đó Ngài thấy được tường tận nghiệp quả của
tất cả chúng sinh thăng lên lộn xuống luân hồi tái sinh, hưởng phước an vui
hạnh phúc hay bị sa đọa khổ đau là do mình tạo lấy. Trong một bài Kinh Phật nói, “Ta nhìn thấy
chúng sinh theo nghiệp tái sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường giống như người
đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi qua người đi lại rõ ràng”.
Chính vì vậy, Phật khuyên chúng ta không làm các việc xấu ác mà hãy làm các
việc thiện lành, tốt đẹp để hưởng phước báo trong cõi lành; còn tạo nghiệp dữ
thì bị đọa vào chỗ xấu ác, khổ đau. Những gì Phật thấy và nói lại trong Kinh điển là
do Ngài tu chứng và thấy biết đúng như thật chớ không phải do ý thức suy luận
viễn vông. Những bài Kinh Bổn Sanh hay Bổn Sự chúng ta đọc được trong tạng chữ
Pali hoặc chữ Hán là những bài Kinh nói vô số kiếp về trước của đức Phật và các
vị Thánh đệ tử. Kinh Bổn Sanh nói về tiền kiếp nhiều đời của đức Phật. Kinh Bổn
Sự nói về quá khứ của các vị Bà-la-môn hay các vị Tỳ-kheo đời trước đã từng làm
gì, ở đâu và bây giờ thọ quả báo thế nào. Như vậy, những sự việc của chư Tăng
xảy ra trong thời đức Phật Ngài đều thấy rõ từ những kiếp trước, Ngài nói và
người sau ghi chép lại gọi là Kinh Bổn Sự. Những sự việc của Ngài về vô số kiếp
trước gọi là Kinh Bổn Sanh. Do nghiệp đã tạo mà sinh ra chỗ tốt hay chỗ xấu chớ
không phải ngẫu nhiên, cũng không phải do đấng thần linh, thượng đế nào có
quyền sắp đặt, định đoạt số phận của muôn loài chúng sinh.
Trạng thái chứng thứ ba là Lậu Tận Minh. “Lậu” là lọt, là rớt, không còn
rớt trong ba cõi sáu đường tức là chứng được Lậu Tận Minh. Đây là vấn đề then
chốt và chủ yếu mà Ngài muốn tìm để giúp thân phận con người thoát khỏi sinh-già-bệnh-chết.
Do chứng được Lậu Tận Minh nên Ngài biết rõ nguyên nhân đi trong sanh tử luân
hồi và cách dứt khỏi luân hồi sống-chết. Chính bản thân Ngài đã thoát ra được
và đi giáo hóa suốt 49 năm; bị người vu oan giá họa, bị người chửi mắng, hãm hại đủ mọi
cách nhưng Phật vẫn bình thản, an nhiên, tự tại chứng minh cho đời sự trong
sạch của mình, đã hoàn toàn giác ngộ, giải thoát và thành Phật. Trước khi nhập
diệt, Ngài báo cho tứ chúng đồng tu biết được ngày giờ ra đi trước ba tháng.
Cho nên, Thiền định là con đường thể nghiệm sâu sắc về chính mình, giúp mọi
người vượt qua cạm bẫy cuộc đời để sống bình yên, hạnh phúc và tự tại, giải
thoát.
Tam Minh là quá trình Thiền
của đức Phật trong đêm Thành đạo dưới cội Bồ đề, đánh dấu sự chuyển đổi quan
trọng từ sa môn Cù Đàm dấn thân tìm chân lý, trở thành bậc giác ngộ Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Phật là một con
người giống như tất cả mọi người, Ngài là một hoàng thái tử dám từ bỏ quyền uy
thế lực, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, từ bỏ tất cả những gì chúng ta
hằng mong muốn để đi tìm chân lý sống cho con người. Như Lai là người giác ngộ
hoàn toàn, không còn bị ràng buộc và dính mắc các pháp thế gian như tham lam,
sân giận, si mê, mạn nghi và ác kiến. Như Lai là một trong mười danh hiệu của
Phật mà Ngài thường dùng trong các bản Kinh, chúng tôi tạm gọi là “không từ đâu
đến và cũng không đi về đâu”. Nó là một thực tại nhiệm mầu không thể diễn tả
bằng ngôn ngữ, Như Lai là bậc giác ngộ, bậc tỉnh thức và thấy biết đúng như
thật. Như Lai là bậc Ứng Cúng xứng đáng được trời người tôn trọng và cung kính
cúng dường, là bậc đã phá trừ các phiền não khổ đau. Như Lai là bậc Chánh Biến
Tri, là người đã giác ngộ rộng lớn, thấy biết chân chính và không còn dính mắc
các Pháp trần tục ở đời như si mê, tham ái, giận dữ, ghen ghét, hận thù, cống
cao ngã mạn và các sự trói buộc khác. Ngài tự do an lạc, thảnh thơi và sống có
hiểu biết, thương yêu chân thành mà không phân biệt người thân hay thù. Như Lai
là bậc Minh Hạnh Túc, có nghĩa là cái thấy đầy đủ về nhận thức, hành động đạt
đến mức sáng suốt tột cùng. Cái thấy về vô số kiếp về trước làm gì, ở đâu, cái
thấy tất cả chúng sinh luân hồi sinh tử, tái sinh trong ba cõi sáu đường đều do
mình tạo ra và cái thấy biết cách làm cho con người không còn bị sinh-già-bệnh-chết
chi phối. Như Lai là bậc Thiện Thệ, là người đã khéo vượt qua sống chết, đã
hoàn toàn được giải thoát một cách viên mãn. Như Lai là bậc Thế Gian Giải, là
người đã thấu hiểu được tâm tư, tình cảm, bản chất của mọi chúng sinh, cũng như
tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Như Lai là bậc Vô Thượng Sĩ, là
người đạt tới nhân cách, phẩm chất cao thượng nhất. Như Lai là bậc Điều Ngự
Trượng Phu, là người có khả năng chinh phục, chế ngự, điều động, rèn luyện, giúp
cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, kể cả những người khó điều phục. Như Lai
là bậc Thiên Nhân Sư, là thầy của trời người. Loài trời ở đây chúng ta thường
gọi là chư thiên, là loài có phước báu hơn con người. Như Lai là Phật, nói cho
đủ là Phật Đà, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người thấy biết đúng
như thật. Như Lai là bậc Thế Tôn, là người tôn quý trong thế gian. Sở dĩ được
tôn quý vì nhân cách, phẩm chất sống của Người luôn từ bi và trí tuệ, hiểu biết
và yêu thương, dấn thân và phục vụ, bao dung và tha thứ, sẻ chia và thông cảm vì
lợi ích của tất cả chúng sinh. Người cư sĩ tại gia thường xuyên quán niệm như
thế về Phật thì tâm tư càng ngày càng có sức định tĩnh, lắng trong, nhờ vậy
chúng ta luôn sáng suốt khi học và làm việc và có được niềm vui sống trong tỉnh
giác.
Riêng tại Việt Nam, ánh sáng tuệ giác Tam Minh
của đức Từ Tôn đã được các Thiền sư, cư sĩ Phật tử tiếp tục thắp sáng, tạo
thành những trang sử vàng son cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Tiêu biểu như ở
thời Lý, Trần, vua quan và Thiền sư đã khéo vận dụng tuệ giác và sống đúng như
thật qua những đóng góp quan trọng vào việc giữ gìn đất nước độc lập, xây dựng,
phát triển quốc gia. Nhất là đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông do tu Thiền mà
giác ngộ, giải thoát, mở ra dòng Thiền hiện đại Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam hướng
dẫn tất cả mọi người cùng tu. Ở Ấn Độ có Thái tử đi tu và thành Phật. Ở Việt
Nam ta có vị vua từ bỏ ngai vàng, xuất gia và ngộ đạo. Đó là điểm sáng chiếu
soi cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Phật do tu Thiền mà giác ngộ, các vị Tổ cũng
do tu Thiền mà giác ngộ, và đặc biệt cư sĩ tại gia Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng do
tu Thiền mà tự tại. Trước lúc sắp ra đi, thê thiếp, con cháu trong nhà khóc lóc
um sùm, ngài mở mắt ra nói “các ngươi làm mờ chân tánh ta”, nói xong ngài an
nhiên, tự tại ra đi.
NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TU THIỀN
Tu Thiền muốn có kết quả
tốt đẹp, tâm an định và trí tuệ phát sinh để sống bình yên, an vui, hạnh phúc
thì mọi người cần phải nắm vững những điều căn bản sau đây:
1- Không trực tiếp sát
sinh hại vật, xúi bảo người khác giết hại hoặc vui vẻ đồng tình khi thấy người
khác giết hại. Người có tâm sát sinh hại vật thì không bao giờ có thể Thiền định,
vì trong các nghiệp xấu ác nặng nhất là tội giết hại. Kẻ giết người cùng kẻ bất
hiếu với cha mẹ cũng không thể Thiền định. Muốn tu Thiền được kết quả tốt đẹp
chúng ta phải từ bỏ giết hại, bởi khi giết vật mắt thấy, tai nghe chúng giãy
giụa đau thương nên chủng tử đó huân tập vào tàng thức, lâu ngày ta thấy con
vật la khóc đến đòi nợ. Người giết hại nhiều hay lo lắng, sợ hãi, bất an nên
trong tâm lúc nào cũng day dứt, khó chịu. Người tại gia vì gia đình, người thân
nên phải làm việc để có nguồn thu nhập, vẫn phải ăn mặn để đủ sức khoẻ mà dấn
thân đóng góp, phục vụ; nhưng nên ăn mặn theo Tam tịnh nhục, không trực tiếp
giết hại, không xúi bảo người khác giết hại, không vui vẻ đồng tình khi thấy
người khác giết hại. Ta có quyền mua thịt cá đã làm sẵn hoặc đã nấu chín, nếu
mua thịt cá mần sẵn thì phải để ý kiểm tra, đừng mua đồ ương thối tuỳ theo kinh
nghiệm mỗi người. Người hay sát sinh hại vật tức làm khổ chúng sinh nên không
có lòng từ bi, do đó khó mà Thiền định được kết quả tốt đẹp.
2- Không gian tham trộm
cướp, lấy tài sản của cải người khác. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy. Muốn
Thiền định mà trong tâm cứ tính toán làm sao để lấy của người khác thì chắc
chắn không bao giờ tâm an định. Nhân trộm cướp quả hiện đời bị tù tội và nghèo
khổ, thiếu thốn. Cho nên, người tại gia tu Thiền mà còn bệnh này tức lòng tham
lam, ích kỷ quá nhiều, do đó không thể đạt kết quả như ý muốn.
3- Người hay tà dâm cũng
vậy, vì lòng dục nặng nề thích đắm sắc mê hoa nên lúc nào cũng toan tính, tìm
cách chiếm đoạt để hưởng thụ khoái lạc dục tính. Muốn được như vậy trước nhất
người tà dâm phải nói dối “tôi không hạnh phúc” hay “tôi bị bắt buộc”, cốt để
làm sao cho người khác phái tin mình. Tham lam, dối gạt để hưởng thụ cho riêng
mình là thói quen xấu nhiều đời nhất của đấng mày râu. Dù có vợ đẹp con xinh
nhưng vẫn muốn kiếm thêm, vẫn ham thích của lạ để chứng tỏ khả năng chinh phục.
Báo chí vừa qua cũng đã đăng tin các đại gia bỏ tiền mua dâm với một số người
mẫu, hoa hậu với số tiền quá cao trong một lần quan hệ. Quan niệm chồng chúa vợ
tôi, trai năm thê bảy thiếp là tập tục trọng nam khinh nữ phát xuất từ thời
phong kiến. Vua có quá nhiều cung phi mỹ nữ nên ít có ông nào sống thọ. Vậy
muốn tu Thiền có kết quả tốt chúng ta phải biết tiết chế trong sinh hoạt tình
dục bằng cách sống thuỷ chung “một vợ một chồng”. Người quá nặng tính dục sẽ
giảm sức khoẻ, tinh thần không sáng suốt nên ngồi Thiền khó an định, do đó tâm
niệm cứ lăng xăng dính mắc “ta-người-chúng sinh”.
4- Người hay nói dối để
lường gạt hoặc hại người cũng khó lòng Thiền định vì tâm tư lúc nào cũng tính
toán hơn thua, tìm cách sén bớt của người. Tâm không ngay thẳng, hay nghĩ điều
tà dại như nói dóc, nói láo để lường gạt, khoe khoang, nói lời mắng chửi nặng
nề tức tâm nóng giận, thù hằn chất chứa nhiều trong lòng. Hạng người như vậy
cũng khó mà Thiền định an ổn. Cho nên, muốn tu Thiền đạt được kết quả phải buông
xả phiền não tham-sân-si, phải giữ giới không nói dối hại người hoặc nói lời
hằn học, mắng chửi.
5- Uống rượu hoặc dùng
các chất kích thích, ăn uống đồ độc hại, hút chích xì ke ma tuý thì càng không thể
Thiền định vì tinh thần mê muội, thân thể bất an, không có tinh thần tự chủ.
Khi ta tiêu thụ những thứ trên quá nhiều sẽ làm tàn hại thân tâm, bệnh hoạn, si
mê, cuồng loạn; làm hại mình, hại gia đình, người thân và xã hội. Hạng người
như thế lúc nào cũng tìm cách lường gạt của người khác, nếu làm có tiền cũng
tiêu tốn hết vào đó. Gia đình nào có những con người như thế sẽ khổ đau vô cùng
cực vì làm khổ chính mình lẫn gia đình, người thân. Nếu ghiền những thứ đó mà
không có tiền thì phải trộm cướp, lường gạt của người khác bằng mọi cách. Một
xã hội có nhiều con người như vậy trước sau cũng sẽ tan nhà nát cửa, đất nước
loạn lạc, khủng hoảng nhân cách đạo đức làm mất tính người. Biện pháp duy nhất
giúp cho con nghiện là sống cách ly xã hội, được hướng dẫn đạo đức tâm linh để
tin sâu nhân quả, được tạo công ăn việc làm tại chỗ, sống đơn giản, đạm bạc thì
họa may mới cứu chữa được; bằng không xã hội phải
xây cất nhiều trung tâm thần kinh và trung tâm cai nghiện để chứa những con
người này, dần hồi nhà tù sẽ được mở rộng để dung nạp nhiều kẻ lường gạt, trộm
cướp, biếng nhác, ăn không ngồi rồi. Hiện nay xã hội chỉ chữa bệnh tạm thời
trên phần ngọn nên tốn kém, mất mát, hao hụt quá nhiều; muốn giúp thế gian giảm
bớt tệ nạn xã hội chỉ có cách duy nhất làm sao hướng dẫn mọi người tin sâu nhân
quả, gieo nhân tốt gặt quả tốt, gieo nhân xấu gặt quả xấu.
Đất nước chúng ta đang
trên đà phát triển toàn diện về mọi mặt, nếu con người không ý thức và có hiểu
biết chân chính thì chỉ được lợi ích vật chất bên ngoài. Trong bối cảnh hiện
nay chúng ta đang sống chung với ô nhiễm môi trường, ô nhiễm văn hóa phẩm đồi
trụy, ô nhiễm thực phẩm đồ ăn thức uống, hầu như đại
đa số mọi người đều dùng những hóa chất độc hại đưa vào cơ thể do nhu cầu sự sống. Ngành quản lý
chức năng cần hạn chế cấp giấy phép một số hoạt động có tác hại lớn như các
quán nhậu, các làng nướng, vũ trường… đang mọc lên như nấm mà không có giờ giấc
hạn chế. Cơ sở giáo dục chưa phù hợp với sự hiểu biết của con người nên không
có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa học tập, làm việc và tu dưỡng đạo đức tâm linh.
Việc thay đổi, phát triển, mở mang là điều tốt nhưng phải dựa theo trình độ dân
trí, nếu phát triển quá nhanh sẽ làm con người không theo kịp, thành ra phản
tác dụng và làm tổn hại trở lại. Có tiện nghi vật chất đầy đủ mà không có tinh
thần sáng suốt cùng hiểu biết chân chính thì nguy hiểm vô cùng vì sẽ đưa con
người vào hố sâu tội lỗi.
Theo sự hiểu biết của
chúng tôi, muốn mọi người sống thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh
thần vị tha, biết cảm thông và tha thứ, biết bao dung và độ lượng, hay san sẻ
và nâng đỡ bằng tình người trong cuộc sống thì trước nhất ta phải tin sâu nhân
quả, tin nhân quả luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn
không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Ta tin tâm mình là Phật,
siêng năng cố gắng làm lành, buông xả tâm niệm về hành động xấu ác. Ta tin bản
thân có khả năng làm được tất cả mọi việc trên thế gian mà không phải cầu khẩn,
van xin một đấng quyền năng nào đó. Chính ta là ông chủ nhân của bao điều họa phúc. Ngày xưa khi ta chưa biết tu thì ý nghĩ
xấu phát sinh ra lời nói, dẫn đến thân giết hại, trộm cướp, lường gạt của người
khác; bây giờ biết tu rồi ta suy nghĩ điều thiện, miệng nói lời từ ái, chân
thật, sống bao dung, giúp đỡ người khác. Chúng ta chỉ cần thay đổi nhận thức
thì nhân quả xấu sẽ từ từ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, nhưng ta phải bền
chí, kiên trì, đừng ham mau lẹ mà trở thành tham lam. Mình mới tu Thiền chỉ có
vài năm mà muốn có kết quả liền thì không thể được vì vô số kiếp khi chưa biết
tu ta đã huân tập biết bao nhiêu thói hư, tật xấu; nay biết tu rồi chỉ cần kiên
trì, bền bỉ lâu dài thì việc gì cũng có thể làm được; ví như tấm gương sáng lâu
ngày bị bụi bám đầy, ta chỉ cần lau bụi phiền não tham-sân-si, ganh ghét, tật
đố, ích kỷ, mê muội chất chứa hại người cho đến khi nào bụi hết thì gương tự
trong sáng.
6- Người tu Thiền mập
quá cũng khó tu vì ăn nhiều là do lòng tham đắm, không biết làm chủ trong ăn
uống, thân thể chậm chạp, mệt mỏi, ngồi lại vọng niệm lăng xăng khó điều phục.
Người quá mập nếu là phụ nữ có chồng sẽ bị chồng chê và khó có được hạnh phúc
thật sự, khó Thiền định được vì khi ngồi lại cảm thấy khó khăn, chộn rộn, mệt
mỏi, hoặc Thiền đi, Thiền lạy cũng chậm lụt hơn người thường. Muốn tu Thiền để
được kết quả tốt đẹp ta phải điều hoà, cân bằng sức khoẻ. Thí dụ mình cao 1m60
thì trong lượng cơ thể cho phép 56 kg, giữ quân bình như vậy thì ta tu Thiền rất
nhẹ nhàng vì mình làm chủ được ăn uống là đã biết tu rồi. Nếu không có đủ khả
năng làm chủ trong ăn uống thì ta điều hoà thân thể tối đa là 59 kg hoặc thấp
nhất là 53 kg, chỉ cần làm chủ trọng lượng cơ thể là chúng ta đã biết cách tu Thiền.
7- Người ốm quá là người
bệnh hoạn, suy dinh dưỡng, thiếu sức khoẻ nên thân thể đau nhức, mệt mỏi, tinh
thần rối loạn, hay lo lắng. Thân thể không khoẻ mạnh thì tinh thần không sáng
suốt nên cũng khó định tâm trong lúc Thiền.
Ngoài những đòi hỏi trên
thì người tu Thiền phải biết cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, phải chăm
sóc dưỡng nuôi khi cần thiết và khi tuổi già sức yếu; ngoài ra còn biết bố thí,
cúng dường người tu hành chân chính và người khó khăn, nghèo khổ, biết làm các
việc phước thiện như ấn tống kinh sách, băng đĩa, từ thiện giúp đỡ người bất
hạnh khi có nhân duyên. Có bố thí, giúp đỡ, sẻ chia ta mới xả bỏ tâm tham lam,
ích kỷ, bỏn sẻn, keo kiết nhiều đời; nhờ vậy tâm từ bi giúp người cứu vật được
phát triển từ trong gia đình, người thân rồi lan rộng đến người ngoài xã hội.
Nói tóm lại, trước khi
tu Thiền chúng ta cần phải có một hiểu biết chân chính, nhận thức sáng suốt,
tin sâu nhân quả, tin chính mình và quyết tâm bền chí phải Thiền trong mọi oai
nghi đi-đứng-nằm-ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt cho có chừng mực, giữ giới
không làm tổn hại thân tâm mình, người và vật. Đó là phương pháp chung dành cho
người tu Thiền, nhưng còn tuỳ sức khoẻ, hoàn cảnh cuộc sống của mỗi người mà
chúng ta biết cách áp dụng sao cho bản thân được bình yên, an vui, hạnh phúc
ngay tại đây và bây giờ. Chúng ta biết áp dụng Thiền đúng lúc, đúng chỗ, đúng
nơi thì ngày càng giảm bớt phiền não tham-sân-si và phát sinh trí tuệ, nhờ vậy tăng trưởng lòng từ bi thương xót giúp
đỡ người và vật khi có nhân duyên. Cứu giúp một người qua cơn hoạn nạn và giúp
họ biết tin sâu nhân quả, hay nói cách khác ta cho họ con cá cũng cần phải cho
họ cần câu và chỉ cách câu. Con cá chỉ là phương tiện ban đầu, cho họ cái cần
câu thì họ mới biết cách vượt qua nỗi khổ, niềm đau và sống an vui, hạnh phúc.
Thiền mà chúng tôi đang
hướng dẫn ở đây là đi vào đời sống gia đình và xã hội, ai muốn sống tốt, không
làm tổn hại người khác thì ngay bây giờ phải biết tu tâm sửa tánh để quay về
con người tâm linh của chính mình. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi tu Thiền thành
tựu đã giáo hoá 49 năm không biết mệt mỏi, nhàm chán vì Ngài không thấy ai là
kẻ thù mà chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Dù bị người hãm hại
đủ mọi cách nhưng Phật vẫn không buồn phiền mà còn thương họ nhiều hơn vì Ngài
đã sống được với tâm thanh tịnh, sáng suốt. Người không biết tu Thiền khi gặp
việc xấu sẽ tìm cách trả thù trở lại nên nhân quả vay trả, trả vay không có
ngày thôi dứt.
TU THIỀN TRƯỚC NHẤT PHẢI
TỰ TIN CHÍNH MÌNH
Người tu Thiền trước nhất phải quyết tâm tin mình
sẽ thành Phật, tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt nương nơi 6 căn của mỗi người là
mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn,
hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế mà không dính mắc; nghe chỉ là
nghe, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng, tiếng lớn tiếng nhỏ
là âm thanh bên ngoài, tính nghe thì luôn thường biết rõ ràng; mũi-lưỡi-thân-ý
cũng lại như thế. Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì
để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết
bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta
để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi buông
bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hằng soi sáng. Không tin tâm mình là Phật thì
chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộ,
giải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã
thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm,
dính mắc từ trước đến giờ.
Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm
mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị
Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã
hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều tự chúng ta gầy dựng tạo
nên. Chính ta là ông chủ nhân của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng
phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của
mỗi người. Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn
tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã
kẻ khác, không yếu đuối, hèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện
với cuộc sống để tìm cách vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá
nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
TU THIỀN PHẢI CÓ LÒNG
QUẢ CẢM
Nhờ tự tin chính mình chúng ta mới can đảm vượt
qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cương quyết quả cảm tiến lên, phấn đấu
chiến thắng bọn quân ma phiền não làm trở ngại. Chúng ta biết rõ chính mình có
khả năng thành Phật nên quyết chí tu hành cho đến khi thành tựu viên mãn mới thôi.
Đức tự tin và lòng quả cảm giúp ta mạnh dạn, gan dạ dấn thân đóng góp, phục vụ
tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để mình và người cùng được bình
yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không tự tin chính mình và không có lòng quả cảm
thì ta sẽ không bao giờ kiên trì, bền chí khi gặp khó khăn, vấp ngã. Nhờ tin
tâm mình là Phật nên ta xem thường mọi nguy hiểm, sống đơn giản, đạm bạc để tu
hành như vua Trần Nhân Tông. Vị vua Thiền Sư đã nhường ngôi lại cho con lên núi
Yên Tử tu hành nơi đồi núi hiểm trở, khó khăn, thú dữ chực chờ. Trước những
hiểm nguy như thế nhưng Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn ung dung, tự tại, không
bất an, lo lắng, sợ hãi mà quyết chí tu hành. Thật là một tâm hồn quả cảm tràn
trề! Nếu chúng ta ai cũng ứng dụng được tinh thần quả cảm này vào xã hội để dấn
thân, đóng góp và phục vụ tốt cho mọi người, thì việc gì cũng có thể thành công
tốt đẹp.
TU THIỀN PHẢI BỀN CHÍ SIÊNG NĂNG LÂU DÀI
Có lòng tự tin chính mình chúng ta mới cố gắng
nỗ lực tiến tu để buông xả mọi tham đắm, dính mắc ở đời. Bất cứ làm một việc gì
mà không tin mình làm được thì chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở nửa chừng, hoặc có
làm cũng không tới đâu. Chúng ta tin chắc việc này mình làm được thì ngày đêm
siêng năng, cần mẫn, không dám lơi là, giải đãi. Tin chính mình giúp ta cố gắng,
siêng năng, bền chí, kiên trì, không chán nản hay bỏ dở nửa chừng. Tin tâm mình
là Phật giúp người tu Thiền tinh tấn, bền chí, nhẫn nại, cố gắng thực hành cho
đến khi công thành quả mãn mới thôi. Tin tâm mình là Phật là đã có nhân thành Phật,
chỉ cần cố gắng tu hành sẽ thành Phật quả. Từ nhân đến quả đều do sự siêng năng
tu hành của bản thân, không phải ai khác có thể làm thế cho ta được dù đó là
đức Phật. Ở thế gian ai cũng tự tin chính mình thì chắc chắn mọi việc sẽ được
thành công tốt đẹp. Tin tưởng mình có khả năng nên mới siêng năng, cố gắng
trong mọi nhiệm vụ. Thế cho nên muốn làm việc được thành công viên mãn thì
chúng ta trước tiên phải tự tin chính mình, có lòng quả cảm và bền chí, siêng
năng, cần mẫn.
TU THIỀN TÙY THUỘC VÀO VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC DÂN TỘC
Xã hội và tôn giáo luôn liên quan, ảnh hưởng mật
thiết với nhau, tu Thiền nói riêng cũng vậy. Trong Phật giáo có quá nhiều pháp
môn nhưng chính yếu vẫn là Thiền, tuy nhiên Thiền cũng có nhiều loại. Có hai
phương pháp chính yếu khi tu Thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán, hai loại này gọi
là Thiền Đối Trị và Thiền Trực Chỉ, tức là đi thẳng vào nội tâm để buông xả.
Thiền Chỉ và Thiền Quán luôn dung thông, hỗ trợ cho nhau và phải có sự liên kết
chặt chẽ mới có thể thành tựu mục đích sau cùng. Khi dân tộc không bị chiến
tranh loạn lạc, có chủ quyền độc lập thì pháp môn tu nhà Phật hướng về tự lực
hoàn toàn. Khi dân tộc mất chủ quyền, bị lệ thuộc thì pháp môn tu hướng về tha
lực nhiều hơn, nhưng chính yếu vẫn là tự lực. Chúng ta thấy sự thịnh suy của
dân tộc là sự thịnh suy của Thiền, một đất nước mất chủ quyền thì người dân sao
có thể tin vào khả năng tu tập của chính mình nên dễ dàng đánh mất tự chủ mà
tin vào tha lực bên ngoài. Chính vì thế tu Thiền cũng chịu ảnh hưởng theo vận
mệnh của đất nước. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả thì dù trong
hoàn cảnh nào ta cũng có thể tu Thiền, vì Thiền luôn song hành với đời sống của
chúng ta. Ăn uống, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại hằng ngày nếu không biết Thiền
ta sẽ tự đánh mất mình, vì những điều này ta phải tự giải quyết chứ người khác
không thể thay thế được.
THIỀN RẤT THỰC TẾ TRONG
ĐỜI SỐNG MỌI NGƯỜI
Chủ trương của Thiền là khai sáng trí tuệ, phục
hưng lại con người tâm linh của bản thân mà ta đã lãng quên từ lâu vì bị phiền
não tham-sân-si che lấp do chấp thân tâm này làm ngã. Chính nơi thân chúng ta
đã có sẵn con người chân thật, đó là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.
Con người thật của mình không phải do Phật cho hay do một đấng thần linh,
thượng đế nào tạo nên. Chính tâm Phật là cái có sẵn nơi chúng ta, một phút giây
vắng nó thân này sẽ ngừng hoạt động và chuyển sang đời khác. Ví như gió không
có hình tướng cụ thể nhưng thấy lá cây động, thân người mát ta mới cảm nhận có
gió, lúc bình thường thì không. Cũng vậy, ngay nơi thân này có tâm Phật sáng
suốt nhưng vì vô minh, phiền não che chướng mà chúng ta lãng quên, bây giờ ta
chỉ cần thừa nhận mình có sẵn thì một đời an vui, giải thoát. Thực tế hơn nữa
khi người tu Thiền chỉ cần khéo biết cách áp dụng vào đời sống hằng ngày, từ
khi mở mắt thức dậy, tắm rửa, đi đại, đi tiểu, ăn uống, làm việc, cho đến đi
ngủ cũng đều Thiền được cả, không phải cứ vào chùa hay thâm sơn cùng cốc mới tu
Thiền. Để thấy rõ tánh cách thực tế của Thiền, chúng ta cùng nghe Lục Tổ nói
trong bài tụng “Vô Tướng”:
Phật pháp ở thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa thế kiếm bồ-đề
Giống như tìm sừng thỏ.
Bấy nhiêu đó cũng đủ cho ta thấy rõ tính cách
thực tế của sự tu Thiền như thế nào rồi. Đạo và đời luôn gắn liền với nhau, nếu
chúng ta muốn giải thoát thì phải tu ngay nơi trần gian này. Lông rùa và sừng
thỏ là những vật xem như không có thực, người tu Thiền mà xa lánh thế gian để
tìm cầu giải thoát cũng giống như kiếm lông rùa, sừng thỏ. Tu Thiền chính yếu
là chuyển hoá tâm phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi để được
giác ngộ, giải thoát. Hoa sen mọc tươi tốt và nở thơm ngát từ bùn nhơ nước đục,
nên tu Thiền là ứng dụng ngay nơi cuộc sống trong bốn oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi.
Điều này chắc chắn ai cũng có thể làm được tuỳ theo khả năng và sự quyết tâm tu
tập của mỗi người.
TU THIỀN RẤT HỢP VỚI
THUẬT DƯỠNG SINH VÀ RÈN LUYỆN THÂN THỂ
Người tu Thiền biết điều hòa thân thể, điều hòa
hơi thở và nội tâm nên ít bệnh hoạn, đau yếu. Về thân thể người tu Thiền ăn
uống có tiết độ, ngủ nghỉ có chừng mực, làm việc đúng thời khóa, cấm kỵ những
việc trác táng, rượu chè, đam mê sắc dục quá đáng. Về hơi thở người tu Thiền
biết điều hòa hơi thở dài và nhẹ. Hơi thở là chủ yếu của sức khỏe, là quyết
định của mạng sống. Khi mệt thì thở hổn hển, khi khỏe thì thở nhẹ nhàng. Mạng
sống chúng ta còn hay mất là do hơi thở quyết định, thở ra mà không thở vào thì
thân này bại hoại, chuyển sang đời khác. Thế mà đa số người đời sống không biết
hơi thở mình đang thế nào, dường như họ đã quên mất khi mình thở ra mà không
thở vào là mạng sống chấm dứt. Về tâm tư con người cũng vậy, có những lo nghĩ
bất thường hoặc tức giận, hoặc sợ sệt, hoặc lo lắng, phiền muộn, khổ đau, tất
cả đều là nguyên nhân phát sinh bệnh hoạn. Người tu Thiền khéo buông xả những
tâm tư vọng động khiến nội tâm trong sáng, tĩnh lặng nên thân tâm an ổn, nhẹ
nhàng. Buông xả mọi tâm niệm xáo động nơi mình thì hành giả được an nhiên, bình
tĩnh trước mọi sóng gió cuộc đời. Những khi thân bị gió lạnh xâm nhập chỉ cần
ngồi Thiền trong một giờ thì tan hết, bởi lẽ ngồi Thiền thì hơi nóng trong
người xông lên nên khí lạnh tan biến. Con người do thân bất an nên sanh bệnh,
tâm lo lắng, sợ hãi, phiền muộn nên cũng sanh bệnh. Người tu Thiền khéo điều
hòa thân an ổn, tâm yên định nên phù hợp với thuật dưỡng sinh.
Thiền theo lời Phật dạy có hai phương pháp hỗ
tương cho nhau là Thiền Chỉ và Thiền Quán. “Chỉ” là trụ tâm vào một chỗ như
niệm Phật, niệm Bồ tát, niệm hơi thở. “Quán” là dùng nhận thức để xem xét thân
tâm, vạn vật nhằm biết rõ bản chất thật-hư của nó. Thiền Chỉ với mục đích dừng
tâm vọng niệm lăng xăng nhờ chú tâm vào một chỗ nên được định. Thiền Quán giúp hành
giả phát sinh trí tuệ nên buông bỏ được phiền não tham-sân-si, nhưng nếu quán
hoài thì lăng xăng, không an định. Do đó, khi tu Thiền chúng ta phải biết dùng Chỉ
và Quán để dung hoà thân tâm. Khi thì ta dùng Chỉ, khi thì ta dùng Quán để điều
hoà tâm vọng động. Chỉ nhiều thì được định nhưng không có trí tuệ nên không thể
buông xả tâm phải-quấy, đúng-sai, tốt-xấu, do đó cũng không thành tựu đạo pháp.
Có trí tuệ nhiều thì tâm lăng xăng, không an định, do đó phải quay về Trung đạo
để sống với tâm Phật của mình. Khi hai pháp Chỉ và Quán đã được dung thông thì
mỗi hành giả phải xả chúng để không trụ vào bên nào mà thể nhập Phật tính sáng
suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, sự vật như thế nào
thấy rõ như thế đó nên thấy chỉ là thấy, thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý
cũng lại như thế. Thiền theo lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thứ lớp từ
thấp đến cao, tuỳ theo căn cơ, trình độ của mỗi người mà ứng dụng tu theo nhiều
cấp độ khác nhau.
THIỀN ĐẠO PHẬT KHÁC VỚI
CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO
Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay khinh rẻ,
chúng ta nên định nghĩa chữ “ngoại đạo” cho rõ ràng. Nhà Phật định
nghĩa rất rõ, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người xuất gia
theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại đạo. Bất cứ một
pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài đều gọi là ngoại đạo,
vì chủ trương nhà Phật người tu phải “minh tâm kiến tánh” mới thành
Phật. Tâm tánh đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài là trái với tông chỉ
nhà Phật nên gọi là ngoại đạo. Chúng tôi liệt kê những lối tu Thiền theo ngoại
đạo đang hiện hành ở Việt Nam như Thiền xuất hồn, Thiền chuyển luân xa, Thiền
chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, Thiền thai tức, Thiền điện thiêng
liêng, Thiền Du-già… Những lối tu Thiền này không ngoài hai tiêu chuẩn mầu
nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những người hiếu kỳ. Sống
lâu thuộc thân thể khỏe mạnh, hấp dẫn người thích sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy
trái hẳn với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tu để mở mang trí Tuệ, thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có
trí tuệ liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công
bảo vệ, duy trì cách mấy rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải
si mê là gì? Thiền đạo Phật thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể tánh là
không, nhận ra Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này nên khác hẳn với pháp Thiền
ngoại đạo. Thiền đạo Phật nhằm mục đích giác ngộ, giải thoát và giúp nhiều
người cùng được sống bình yên, an vui hạnh phúc nên đi theo con đường Bồ tát
đạo, giúp đỡ tha nhân cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.
THIỀN TRONG SINH HOẠT
ĐỜI THƯỜNG
Chúng ta bắt đầu hành Thiền từ khi mở mắt thức
dậy cho đến khi đi ngủ, Thiền như vậy mới đạt hiệu quả cao vì liên tục, không
bị gián đoạn. Nếu tọa Thiền một mình trong phòng riêng hành giả có thể mặc trang phục rộng rãi, thoáng mát, nếu cùng tu với nhiều người thì nên mặc áo Tràng cho trang nghiêm. Dụng cụ tọa Thiền
của mỗi người gồm một bồ đoàn để ngồi với kích thước phù hợp, nếu không có thể lấy mền lót đỡ để dễ dàng
ngồi thẳng lưng. Hành giả có thể ngồi Thiền theo tư thế Kiết Già (kiểu hoa sen),
Bán Già hay các tư thế khác tùy theo sức khỏe, tuổi tác của mỗi người. Mục đích chính là điều phục cho
tâm được an định. Hành giả nên chọn thời điểm và nơi chốn tọa Thiền hằng ngày tùy hoàn cảnh, công việc và sức khỏe sao cho có kết quả tốt nhất, không nên tọa Thiền lúc mới ăn no, ít nhất là trên một tiếng đồng hồ hoặc lúc
quá mệt hay buồn ngủ. Người tại gia bắt đầu tọa Thiền lần lượt theo hai bước là
điều thân và điều hơi thở để chuẩn bị tốt cho việc điều tâm không chạy tán loạn, lăng xăng khi hành Thiền.
Sau đây là chi tiết thực hiện từng bước từ lúc bắt đầu cho tới lúc xả Thiền:
1. Điều thân
Hành giả lần lượt thực hiện các bước sau:
_ Ngồi trên bồ đoàn, xương cùng đặt ngay giữa bồ đoàn, vận động nghiêng người qua hai bên vài lần rồi ngồi theo tư thế thích hợp.
_ Cởi nút áo cổ, nới dây thắt lưng, chỉnh áo quần chỉnh tề, ngay ngắn
sao cho thoải mái, trang nghiêm.
_ Thân cúi xuống ngẩng lên 3 lần, lúc đầu mạnh, sau nhẹ dần.
_ Bàn tay phải để trên bàn tay trái hoặc ngược lại, hai bàn tay đan chéo, hai ngón cái chạm nhẹ vào nhau, đặt nằm ngay chiều rốn phía
dưới hai ba phân. Hai cánh
tay vừa chạm vào hông.
_ Chóp mũi, rốn và hai đầu ngón tay cái nằm trên một mặt phẳng thẳng đứng. Đầu hơi cuối xuống để hai trái tai dóng thẳng xuống vai.
_ Lưng thẳng vừa phải, ngồi một cách tự nhiên, thoải mái. Gương mặt tươi tỉnh, bình thản. Mắt khép hờ độ 2/3 hoặc có thể nhắm hay mở tùy người, tùy lúc; nên mở mắt trong thời gian đầu để điều chỉnh
cho thân ngồi ngay ngắn, không bị niễng hai bên.
2. Điều hơi thở
Hành giả thở 3 hơi dài, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, trước
mạnh, sau nhẹ dần.
3. Bắt đầu hành Thiền
Có 3 bước lần lượt từ thấp lên cao khi bắt đầu hành Thiền:
Mỗi hành giả tuỳ theo sở thích hoàn cảnh mà có
thể niệm Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni, phật A Di Đà, hoặc Bồ tát Quán Thế Âm hay
các Bồ tát khác hoặc niệm hơi thở. Tuy danh từ và tên có khác vì đây là phương
tiện bước đầu, nhưng tất cả đều quy về một chỗ là tu thiền để thành Phật và cứu
độ chúng sinh. Ở đây, chúng tôi hướng dẫn thiền Quán Thế Âm Bồ tát để mình được
bình yên, hạnh phúc và giúp đỡ mọi người cùng vượt qua biển khổ sông mê ngay
nơi cõi đời này cho đến khi nào thành tựu viên mãn mới thôi.
_ Miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm
lắng nghe từng tiếng một rõ ràng, nhờ vậy không bị thất niệm, do đó dễ dàng
định tâm. Hành giả Thiền Chỉ một thời gian, nhờ chú tâm nên lâu ngày dẫn đến
nhất niệm, chỉ nghe âm thanh niệm Bồ tát một cách rõ ràng. Hành giả tu đến đây
đã được định nên tâm an trú vào câu niệm Bồ tát.
_ Nếu có định mà không có tuệ thì không thể buông
xả hết phiền não tham-sân-si và phát tâm giúp đỡ hay san sẻ với mọi người. Do
đó, bước thứ hai hành giả phải tu Thiền Quán. “Quán” có nghĩa là xem xét, tìm
tòi, soi sáng thân tâm và hoàn cảnh để tìm ra lẽ thật-hư của nó. Trước nhất hành
giả quán sát về thân xem có “thật ngã” hay không; sau đó quán sát tâm suy tư,
nghĩ tưởng của mình có thật hay không; kế đến là quán sát mọi hiện tượng, sự
vật trên thế gian này xem có thật hay không. Khi quán sát như vậy hành giả thấy
tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, không có gì là thực thể cố định nên
thân tâm, hoàn cảnh đều vô thường hoại diệt, nhờ vậy buông xả hết tâm niệm cố
chấp xưa nay khi cho thân tâm này là “thật ngã”. Hai pháp Thiền Chỉ và Thiền
Quán phải được hỗ tương lẫn nhau, có khi hành giả dùng Thiền Chỉ để dừng vọng
niệm, có khi dùng Thiền Quán để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật. Có
định mà không có tuệ gọi là “si định”, có tuệ mà không có định thì vọng niệm mãi
lăng xăng.
_ Khi hành giả
Thiền trong mọi hoàn cảnh và đã định tâm và phát sinh trí tuệ thì sang giai đoạn bảo trì tính giác, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm
lẫn, thấy chỉ là thấy nhưng không dính mắc vào sự thấy nên tâm thanh tịnh, sáng
suốt; giống như chiếc gương lâu ngày bị bụi bám, bây giờ bụi không còn nữa nên chiếc
gương tự sáng trở lại. Giai đoạn này hành giả từ từ chuyển hoá tập khí, thói quen nhiều
đời còn xót lại cho đến khi nào vọng niệm hết sạch thì gương trong sáng hoàn toàn, không tỳ vết. Tai
có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Tất cả âm thanh lớn
nhỏ đều nghe nhưng không bám dính vào một âm thanh nào, nhờ vậy hành giả thành
tựu được tánh nghe. Mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Đến giai đoạn này hành
giả không cần trụ tâm vào Chỉ hay Quán nữa mà chỉ cần nhận diện rõ ràng từng
vọng niệm của mình, nó như thế nào thì biết như thế đó thì vọng niệm từ tan hoà
vào hư không.
4. Xả thiền
Hành giả Xả thiền theo thứ tự ngược với lúc vào Thiền. Đầu tiên là xả tâm, kế đến xả hơi thở, sau cùng là xả thân.
_ Xả tâm: Khi nghe tiếng khánh hay chuông báo xả Thiền, hành giả tâm duyên theo tiếng chuông, khánh biết rõ từ lúc có tiếng đến khi tiếng chấm dứt và đọc thầm bài kệ hồi hướng:
Nguyện đem
công đức này,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và
chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.
_ Xả hơi thở: Hành giả thở 3 lần từ nhẹ đến mạnh. Hít vào bằng mũi, tưởng “máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp châu thân”. Thở ra bằng miệng, tưởng “bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra ngoài”.
_ Xả thân: Hành giả làm lần lượt các động tác sau.
+ Chuyển động luân phiên hai bả vai mỗi bên 5 lần.
+ Đầu cúi xuống ngước lên 5 lần, xoay qua trái qua phải 5 lần rồi cúi xuống ngước lên 1 lần nữa.
+ Co duỗi các ngón tay 5 lần và chuyển động thân từ nhẹ đến mạnh 5 lần, lần cuối úp hai bàn tay lên đầu gối rồi ấn mạnh xuống.
+ Chà xát hai bàn tay cho ấm lên rồi xoa mặt, tai, gáy, cổ mỗi nơi 20 lần.
+ Dùng đầu ngón tay cào nhẹ trên đầu từ trước ra sau 5 lần.
+ Bàn tay phải xoa từ vai trái xuống cánh tay, bàn tay trái xoa từ nách xuống hông phải, làm 5 lần rồi đổi tay.
+ Lòng bàn tay phải đặt trước ngực, lưng bàn tay trái đặt nơi lưng, hai tay đồng thời xoa theo chiều ngang ở 3 vị trí, mỗi nơi 5 lần: Thượng tiêu (trước ngực), Trung tiêu (giữa ngực và bụng), Hạ tiêu (bụng dưới).
+ Hai bàn tay chà xát mạnh vùng thận, thắt lưng, mông, dọc hai bên đùi đến đầu gối (vẫn còn xếp bằng theo tư thế lúc đầu), chà xát lâu mau tùy sự đau tê nhiều hay ít. Xoa kỹ những chỗ bị đau nhiều, nếu không lâu
ngày sinh bệnh đau nhức.
+ Chà hai bàn tay vào nhau cho nóng lên rồi áp vào mắt 5 lần.
+ Tay nắm các đầu ngón chân, đặt bàn chân xuống tọa cụ. Xoa bóp kỹ hai chân và lòng bàn chân cho đến khi bớt đau tê mới duỗi thẳng hai chân ra.
+ Gập người xuống, hai cánh tay duỗi thẳng sao cho các ngón tay chạm vào đầu ngón chân, gập xuống thẳng lên 3 lần.
+ Cuối cùng, bỏ bồ đoàn ra, tiếp tục xoa bóp kỹ những chỗ còn đau tê.
Thời gian xả Thiền từ 10 đến 15 phút. Nếu nhiều người cùng ngồi với nhau thì sau khi xả Thiền người xong
trước vẫn ngồi xếp bằng ngay ngắn để chờ mọi người hoàn tất việc xả Thiền rồi tiếp tục tụng kinh theo
nghi thức thống nhất. Nếu một mình thì tuỳ theo hoàn cảnh mà sắp xếp hài hoà để
thân tâm được an lạc. Người tại gia ngồi Thiền tối thiểu 15 phút cho đến 2 tiếng,
tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh sống của mỗi người mà chúng ta áp dụng hành
Thiền cho hài hoà.
TU THIỀN QUÁN THẾ ÂM BỒ
TÁT
- 1. Thiền niệm Quán Thế Âm
Hiện nay một số hành giả tu theo pháp môn niệm
Phật để cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, lấy tín-hạnh-nguyện
làm Tông chỉ. “Tín” là tin có cõi Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc. “Hạnh” là
niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. “Nguyện” là nguyện về Tây phương Cực Lạc. Đây
là quan điểm của Tông chỉ Tịnh Độ trong bản kinh A Di Đà. Chúng tôi căn cứ theo
lời Phật dạy trong Tam tạng Kinh điển thì thấy tất cả đều phải tu Thiền ngay
nơi cõi này chứ không phải tìm cầu đâu xa. Thiền của đạo Phật mục đích đạt đến
giác ngộ, giải thoát cho chính mình và phát nguyện độ tất cả chúng sinh. Chính
đức Phật Thích Ca Mâu Ni do tu Thiền dưới cội Bồ đề mà thực chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Giác. Chúng ta là những người tu theo Phật thì cũng phải tu Thiền, nhưng
tu Thiền như thế nào để được lợi ích thật sự? Thiền mà chúng tôi đang hướng dẫn
đi thẳng vào đời sống gia đình và xã hội. Thiền ngồi tịnh tâm, Thiền lạy trong
sám hối, Thiền đi trong sinh hoạt đời thường, Thiền tỉnh giác trong ăn uống,
lúc tắm rửa, đi tiểu, đi đại, lúc lái xe, lúc làm việc, lúc mua bán, giảng dạy,
nghiên cứu, gánh nước lặt rau, nấu nướng… và Thiền nằm trong lúc nghỉ ngơi hay
trước khi đi ngủ. Vì người cư sĩ tại gia còn nhiều nhân duyên ràng buộc nên
chúng tôi hướng dẫn phương tiện tu Thiền niệm Bồ tát Quán Thế Âm, cũng lấy tín-hạnh-nguyện
làm Tông chỉ nhưng tín-hạnh-nguyện của người niệm Quán Thế Âm khác với niệm
Phật cầu vãng sanh.
“Tín” ở đây có nghĩa tin vào thần lực nhiệm mầu
của Bồ tát Quán Thế Âm có đủ khả năng giúp chúng sinh chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, đạt
được kết quả như ý muốn. Mỗi hành giả đều tin chính mình là Bồ tát Quán Thế Âm
nhờ tu hạnh lắng nghe, buông xả và biết bố thí chia vui sớt khổ và bố thí không
sợ hãi. “Hạnh” có nghĩa là thực hành niệm danh hiệu Bồ tát một cách tinh
chuyên, ròng rặc, miên mật, thường xuyên mỗi ngày không lơ là, giải đãi. Chúng
ta cung kính, chí thành niệm danh hiệu Bồ tát trong mọi hoàn cảnh, trong bốn
oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi mà không bị ngoại cảnh chi phối làm thất niệm. Cuộc
sống thế gian vốn nhiều đau khổ, bất an, tham lam, thù hận, đố kỵ, tranh chấp,
xung đột, sợ hãi và sẵn sàng triệt tiêu lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Nếu
chúng ta không thường xuyên cung kính niệm Bồ tát Quán Thế Âm mà chờ đến khi
gặp hoạn nạn mới khẩn cầu van xin thì e rằng không có kết quả như đã nguyện. Lúc
này tinh thần không sáng suốt, khủng hoảng, sợ hãi, mất bình tĩnh thì làm sao
đủ khả năng cầu sự gia hộ của Bồ tát. “Nguyện” ở đây có nghĩa là chí nguyện độ
sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm
vui đến với tất cả muôn loài. Bồ tát sau khi thành tựu đạo quả, phát nguyện dấn
thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng
đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ với tất cả
chúng sinh. Chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thế gian lúc nào cũng đầy dẫy
khổ đau, bất hạnh như đang sống trong nhà lửa, chịu sự nóng bức của phiền não
trong từng phút giây.
Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế
Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống
gần gũi, gắn bó với nhau bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ,
bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, không thấy ai
là người thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Phương pháp Thiền
Quán Thế Âm là miệng niệm, tai lắng nghe khi ngồi, khi đi, khi lạy, khi nằm;
tức là hành giả chú tâm vào câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”, nhờ chú tâm nên
không bị các vọng niệm buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu chi phối.
Hành giả tu theo pháp niệm Quán Thế Âm Bồ tát trong khi ngồi thì miệng niệm “Nam
mô Quán Thế Âm Bồ tát”, tai lắng nghe rõ ràng từng tiếng một.
2. Thiền trong lúc ngồi
Hành giả mỗi buổi sáng thức dậy lễ Phật xong mới
bắt đầu vào Thiền. Ai có bàn thờ Phật tại nhà thì ngồi Thiền ngay đó, ai chưa
thờ Phật thì tự sắp xếp chỗ ngồi hợp lý vì Thiền dành chung cho mọi người. Ngồi
Thiền có nhiều cách, cách thứ nhất là tư thế ngồi hoa sen Kiết Già, hai chân
đang chéo vào nhau, hoặc ngồi tư thế Bán Già hay ngồi cách nào cho thoải mái cũng
được. Điều quan trọng là mỗi hành giả điều phục tâm mình sao cho được an định.
Trước khi tịnh tâm hành giả ngồi tư thế lưng thẳng, hai bàn tay xỏ hình bánh
vế, hai ngón tay cái đâu nhau và để ở giữa bụng, dưới rún; mắt nhìn thẳng về phía
trước, ngó xuống điểm trước mắt cách 8 tấc đến 1 thước, 2 mắt mở vừa chừng,
không nên nhắm lại để tránh tình trạng bị ngủ gật hoặc ngồi lệch một bên; khi
ngồi nên động thân vài lần để máu huyết lưu thông đều rồi sau đó hít vào 3 hơi
bằng mũi và thở ra bằng miệng. Bắt đầu vào Thiền hành giả sẽ niệm “Nam mô Quán
Thế Âm Bồ tát” chậm rãi, từ từ, nhẹ nhàng vừa đủ nghe. Miệng niệm, tai lắng
nghe, chúng ta nghe từng tiếng niệm Bồ tát rõ ràng. Khi mới bắt đầu tập tu Thiền,
hành giả thường bị các vọng niệm thương ghét, vui buồn, phải quấy, tốt xấu,
đúng sai chen vào làm thất niệm, mất tập trung. Đây là lẽ đương nhiên, nhưng
khi hành giả cố gắng chú tâm vào từng tiếng niệm Bồ tát sẽ dần dần đánh bạt các
vọng niệm khác, nhờ khéo nhiếp tâm thuần thục.
Chúng ta nên nhớ, Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát
rất đơn giản, dễ dàng, chỉ cần chúng ta có đủ lòng tin, kiên trì, bền chí,
siêng năng, tinh tấn tu hành đều đặn ắt sẽ thành công trong nay mai. Tu Thiền Quán
Thế Âm mục đích để cầu giác ngộ, giải thoát cho chính mình và phát nguyện cứu
độ chúng sinh bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Phật dạy chúng ta sở dĩ
tồn tại trên thế gian này là phải nương nhờ lẫn nhau về mọi phương diện, ai dù tài
giỏi đến đâu cũng không thể sống một mình độc lập mà không nhờ vào sự đóng góp
của người khác. Vì lẽ đó chúng ta tu theo hạnh nguyện Quán Thế Âm Bồ tát để
cùng nhau chia vui, sớt khổ với tấm lòng vô ngã, vị tha bằng tình người trong
cuộc sống. Ta khỏi cần cầu đi đâu mà ngay nơi cõi đời này cùng chia vui sớt khổ
với mọi người, cùng san sẻ hay nâng đỡ cho nhau để cùng nhau dìu dắt những
người còn chìm đắm trong biển khổ sông mê quay về bờ giác ngộ mà sống đời an
vui hạnh phúc.
Đức Phật đã dạy nước mắt chúng sinh còn nhiều
hơn nước bốn biển vì chúng sinh luân hồi, sống chết từ vô thuỷ kiếp đến nay.
Bởi luân hồi vô số kiếp như thế nên chúng ta đã từng làm cha mẹ, anh em, vợ
chồng, con cái, họ hàng, bà con quyến thuộc với nhau nên có nghĩa tình sâu nặng
trong mối tương giao của cuộc sống. Do đó khi chúng ta tu được bình yên, hạnh
phúc phải nguyện giúp đỡ tha nhân và cứu độ tất cả chúng sinh, trong đó có
người thân người thương của ta hằng hà vô số. Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát có
ba cấp độ. Thứ nhất là miệng niệm, tai lắng nghe cho đến khi nào thành tựu được
nhất niệm, chỉ nhớ nghĩ Bồ tát Quán Thế Âm mà không nhớ vọng niệm khác thì mỗi
hành giả chuyển sang pháp thứ hai là miệng niệm, tâm lắng nghe. Đến đây ta
không cần phải chú tâm vào câu niệm Bồ tát mà dùng tánh nghe sáng suốt của mình
để thể nhập tánh biết nương nơi tai. Bước ba hành giả không còn miệng niệm nữa
mà tâm niệm, tâm lắng nghe, hằng thấy nghe, hay biết với tâm thanh tịnh, sáng
suốt của chính mình nên thành tựu viên mãn.
3. Thiền trong lúc lễ
lạy sám hối
Pháp Thiền lạy này được lợi ích ba yếu tố. Thứ nhất
là vừa lạy vừa tập thể dục, rút ngắn được thời gian buổi sáng. Khi lạy như vậy
toàn thân năm vóc cung kính lễ, hai tay chắp trước ngực rồi niệm “Nam mô Quán
Thế Âm Bồ tát”; kế đến đưa hai tay lên trán và gập người xuống lạy, hai chân
giữ nguyên, chỉ nhón gót lên, hai tay úp xuống, đầu sát đất và sau đó đứng lên
theo vị trí cũ mà không cần di chuyển tay chân, giống như chiếc lò xo bật ra và
rút lại, cứ như thế thoải mái, nhẹ nhàng miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú
tâm lắng nghe tiếng niệm của mình rõ ràng từng tiếng một. Mỗi hành giả lạy tối
thiểu từ 30 lạy hoặc một vài trăm lạy tùy theo khả năng, sức khoẻ và hoàn cảnh mỗi người. Thiền lạy này có
ba công dụng hữu ích, vừa tập thể dục vừa cung kính lạy, miệng niệm tai lắng
nghe là thành tựu ba điều kiện. Một là đỡ phải mất thời gian đi tập thể dục vì
khi lạy như thế toàn thân năm vóc đứng lên, lạy xuống làm máu huyết lưu thông
khắp toàn thân, hành giả khi lạy cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, không mất sức. Hai
là khi lễ lạy sẽ xả được tâm chấp trước, cống cao ngã mạn, hành giả nhờ vậy
càng tu lại càng khiêm tốn, lễ phép, biết kính trên nhường dưới thương yêu bình
đẳng với tất cả mọi người. Ba là khi lạy chỉ nhớ miệng niệm Bồ tát Quán Thế Âm,
tai chú tâm lắng nghe nên không bị các tạp niệm khác làm loạn động, hành giả do
đó thân khoẻ, tâm an định.
4. Thiền trong lúc đi
tới đi lui
Đây là nhu cầu cần thiết hằng ngày, hành giả phải
đi đứng qua lại thường xuyên nên khó bề làm chủ bản thân, do đó lúc nào cũng bị
nhiều vọng niệm lăng xăng chi phối làm thất niệm. Với Thiền đi hai tay hành giả
chắp trước ngực, đi tới đi lui tùy thích, miệng niệm “Quán Thế Âm Bồ tát”, tai chú tâm lắng nghe. Hành
giả chỉ một bề miệng niệm, tai lắng nghe, không cần chú ý đến chân đi nhanh hay
chậm. Thiền đi này có một công dụng rất hay là khi đi hành giả chắp hai tay
trước ngực, lâu ngày trở thành thói quen tốt, khi gặp ai chúng ta sẽ chắp tay
xá chào một cách lễ phép, nhờ vậy dễ gây cảm tình và lòng tôn kính với nhiều
người.
Ba pháp Thiền ngồi, Thiền lạy, Thiền đi nhất như
chỉ miệng niệm, tai chú tâm lắng nghe trong thời gian sáng sớm khoảng một tiếng
đồng hồ. Hành giả kết hợp vừa tu, vừa rèn luyện thân thể, vừa tiết kiệm thời
gian. Nhờ miệng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”, tai chú tâm lắng nghe nên
thân khoẻ, tâm an ổn, nhẹ nhàng trong định tĩnh, sáng suốt.
5. Thiền trong lúc nằm,
ngủ nghỉ
Thiền nằm cũng đơn giản, nhẹ nhàng như những
pháp Thiền đã nói, cũng miệng niệm, tai chú tâm lắng nghe, không cần niệm lớn
tiếng mà chỉ niệm thầm trong miệng nên dễ dàng đi vào giấc ngủ. Hành giả hành
Thiền trong lúc nằm để thư giãn, nghỉ ngơi, cũng chỉ nhẹ nhàng niệm thầm, tai
lắng nghe, nhờ vậy tâm an ổn, nhẹ nhàng mà không bị các tạp niệm thương ghét,
phải quấy làm loạn động.
6. Thiền trong lúc ăn
uống
Dù là người mua bán, người đi chợ, người đến công sở thì tất cả đều
phải ăn để có sức khoẻ làm việc. Qua pháp Thiền ăn hành giả không cần niệm danh
hiệu Bồ tát nữa mà chỉ chú tâm vào việc ăn, ăn ngon biết ngon, ăn dở biết dở,
đắng chát, chua cay, ngọt mặn đều biết rõ ràng nhưng không khởi niệm thích thú
hay chán ghét. Thường món nào hợp với khẩu vị thì ta thích thú, bám víu vào đó
nên mất chánh niệm trong khi ăn. Món nào dở thì ta ngao ngán không muốn ăn, do
đó không làm chủ tâm mình trong lúc ăn. Chúng ta nên nhớ “ăn để mà sống, chớ
không phải sống để mà ăn”. Khi hiểu được như vậy ta sẽ ý thức, làm chủ trong
việc ăn uống. Đa số phụ nữ trong thời hiện đại bị bệnh béo phì quá nhiều làm
mất vẻ đẹp duyên dáng của phái đẹp. Khi mập quá thì uống thuốc giảm cân, tập đủ
thứ phương pháp thể dục thẩm mỹ mà không chịu kiêng cử trong ăn uống, như vậy vừa
làm hao tiền tốn của, mất nhiều thời gian mà không có hiệu quả. Người thông
hiểu pháp Thiền ăn uống sẽ biết cách quân bình cơ thể, ví dụ chiều cao 1m60 thì
trọng lượng cho phép là 55 kg. Ta căn cứ theo đó mà điều hoà, nếu mập quá là 57
kg, ốm quá là 53 kg, làm được vậy sẽ có một thân hình cân đối, thon thả, duyên
dáng và nhẹ nhàng. Bệnh hoạn cũng từ ăn uống mà ra, ăn quá nhiều cũng sinh
bệnh, ăn quá ít cũng không đủ sức khoẻ để làm việc và tu hành, người biết tu sẽ
ý thức điều hoà trong mọi phương diện.
Ăn và uống là hai nhu cầu cần thiết của một con người, ăn uống để
có sức khoẻ mà làm việc phục vụ gia đình và xã hội. Nhiều người không hiểu do
chấp thân làm ngã là tôi, là ta, là mình, nên khi ăn phải cao lương mỹ vị, do
đó giết hại vô số các loài vật để bồi bổ thân này. Mục đích của chúng ta ăn để
mà sống chứ không phải sống để mà ăn, chính vì thiếu hiểu biết nên ta nỡ nhẫn
tâm ăn trên sự đau khổ của các con vật. Mỗi hành giả tu Thiền phải nên tiết chế
trong việc ăn uống của mình, không nên vì mình mà làm tổn thương các loài vật
khác. Khi uống cũng vậy, mục đích uống để cơ thể đỡ khát, lúc làm việc đổ nhiều
mồ hôi ta uống nước để cơ thể quân bình trở lại. Người nam có thói quen uống
rượu bia, rượu Tây, rượu Tàu nên đưa vào cơ thể quá nhiều chất độc hại, vừa hao
tiền tốn của, vừa say sưa, vừa làm thần kinh mê mờ. Có phước mới được hưởng lộc,
nhưng ăn thịt cá, các loài hải sản tươi sống và uống rượu bia quá đà thì tâm từ
bi thương người cứu vật sẽ không có được với những hạng người này.
Tất cả chúng ta vì bị vô
minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian này đều không có nhận thức sáng suốt,
do đó thường lo cho phần ngọn nhiều hơn phần gốc. Vậy cái gì là phần ngọn, cái
gì là phần gốc? Có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần
không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài là tài sản quý giá của chính
mình. Trong cuộc sống
chúng ta có ba việc quan trọng như ăn, uống, thở, thường thì chúng ta lo việc
nào nhiều nhất? Đa số mọi người trên thế gian này lo ăn với uống là chính. Tối ngày làm lụng vất
vả chỉ để lo ăn nên tham đắm, dính mắc vào đó. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc
cao lương mỹ vị, nên làm vua thì bắt người khác phải cung phụng đầy đủ dù ở tận
rừng sâu hay dưới biển cả mênh mông, trong khi xét kỹ ta nhịn ăn trên 60 ngày mới
chết. Kế đó là uống, người có hiểu biết chỉ cần dùng nước tinh khiết hoặc nước
đun sôi để nguội, nhưng vì không hiểu biết nên ta cứ đưa các thứ nước ngọt, rượu
bia vào, nhất là cánh đàn ông, trong khi nhịn uống phải trên 10 ngày mới chết.
Vấn đề thở là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, nhưng ít ai nghĩ đến mình
nhịn thở bao lâu mới chết. Trong tích tắc thở ra mà không thở vào là chết ngay.
Vậy mà người đời lại quan trọng việc ăn với uống, còn thở ra sao không cần biết.
Rõ ràng, việc tối quan trọng chúng ta lại lơ là, việc không chính đáng thì ta nỗ
lực, làm việc nhọc nhằn, vất vả để thoả mãn bản thân. Như vậy hằng ngày ta chỉ
lo việc bồi bổ thân này mà quên đi làm thế nào để được phước đức lâu dài, quên
đi tài sản quý giá không bao giờ bị mai một.
Cuộc sống của chúng ta trong thời đại hiện
nay có quá nhiều thứ bệnh thuộc bộ máy tiêu hóa và hô hấp phát sinh từ sự ăn uống,
hít thở không đúng đắn. Một số người ít hoạt động tay chân nên phát sinh rất
nhiều bệnh tật. Chính vì thế, muốn thân khỏe mạnh, tâm an ổn nhẹ nhàng, chúng
ta cần phải biết điều hòa trong ăn uống, hít thở đúng cách và vận động thân thể
nhiều bằng cách lạy Phật, Bồ tát, vừa sám hối nghiệp tập nhiều đời, vừa rèn luyện
sức khoẻ để khí huyết lưu thông đều đặn toàn thân. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, cơ thể mỗi người có nhu cầu
tiêu thụ thức ăn uống khác nhau nên cần tổ chức cho đại chúng ăn theo cách tự
chọn hoặc ăn kiêng. Người bình thường ít bệnh thì ăn theo tiêu chuẩn chung. Người
có thân bệnh nhiều cần phải ăn kiêng theo sức khoẻ của mình, vừa hợp vệ sinh, vừa
hợp khẩu vị mà lại không tốn kém.
Nói về thức ăn, Phật dạy chúng ta rất kỹ lưỡng.
Theo Ngài, người xuất gia hay tại gia có bốn món ăn là Đoàn thực, Xúc thực,
Tư niệm thực và Thức thực. Đoàn thực là thức ăn vật chất được ăn bằng miệng để
nuôi cơ thể sống còn mà tu hành. Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không
nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không
thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm nên đưa ra
pháp tu tương ứng nhằm duy trì mạng sống
chúng Tăng được khỏe mạnh. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh,
nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị
mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng. Đại đa số
chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của nước đối với cơ thể con người nên
thường uống quá ít nước, hoặc có uống thì dùng các chất khác như các loại nước
ngọt hay rượu bia. Cách tốt nhất là uống nước mỗi ngày từ 2 lít đến 2,5 lít bằng
nước đun sôi để nguội. Thân thể thiếu
nước nên sinh ra nhiều bệnh tật như táo bón, nhức đầu, trĩ, sạn thận, thận suy,
áp huyết cao, viêm gan siêu vi B và bụng hay sình chướng, khó tiêu… Từ đó chúng
ta dễ trở nên giận dỗi, cáu gắt, hay nóng nảy, khó chịu, khiến cho không khí gia
đình trở nên căng thẳng, mất tươi vui, hạnh phúc. Lượng nước trong cơ thể chiếm
70% dưới mọi hình thái của nó, do đó các tế bào và mọi bộ phận trong thân thể cần
có lượng nước nhất định. Ngoài việc tắm rửa hằng ngày để da dẻ sạch sẽ, mịn
màng, chúng ta ta cần uống lượng nước cần thiết để điều hoà thân thể khoẻ mạnh.
Muốn tránh các thứ bệnh nói trên chúng ta cần phải uống nhiều nước, chừng hai
ba ly ngay sau khi ngủ dậy mỗi sáng và trước khi đi ngủ buổi tối để giúp bộ máy
tiêu hóa và tuần hoàn hoạt động tốt, dễ dàng lọc máu và thải mọi cặn bã ra
ngoài.
Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt, nhiều cá,
nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc. Một số lớn các
bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức
ăn. Giảm bớt chất béo trong máu sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư
gan. Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ
chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ
giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể. Nói
chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra chúng ta nên
để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của
người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu nướng
hay ăn với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương, và ngược lại. Rất
nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn, do ít
hoạt động chân tay nên không chuyển tới các cơ phận mọi chất liệu cần thiết, nhất
là hồng huyết cầu và dưỡng khí. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu
nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, uốn éo thân mình, tập thể dục, đi bộ,
bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật, Bồ tát mỗi ngày.
Một hôm, Phật hỏi các vị Tỳ kheo:
“mạng người sống trong bao lâu”? Một thầy trả lời: “mạng người sống chừng 80 năm”. Phật hỏi vị khác, thầy đó
trả lời:” mạng người sống trong bữa ăn”. Hai vị thầy trả lời Phật đều không chấp chận. Ngài hỏi
tiếp vị thứ ba và vị này trả lời “mạng
người sống trong hơi thở”. Phật nói, “đúng thế, đời người chỉ dài bằng một hơi thở”,
bởi thở vào mà không thở ra thì xem như mất mạng. Ta có thể quên ăn một hai chục
ngày vẫn được mà không chết, chính chúng tôi những năm nhiều bệnh phải nhịn ăn
mỗi lần ba bốn tuần, hai ba lần như vậy mỗi ngày chỉ uống nửa lít nước đun sôi
để nguội. Vấn đề nhịn uống cũng phải trên 10 ngày mới chết, bằng chứng là có một
thầy nhịn ăn uống hai tuần chỉ mất sức đi không nỗi, sau ăn uống lại thầy vẫn lao
động, làm việc nặng nhọc mà chẳng áp phê gì; nhưng thở ra mà không thở vô là chết
ngay liền tức khắc. Chúng tôi có đứa em gái kế thầy Nhật Từ làm việc bên uỷ ban
nhân dân Quận Thủ Đức, đang đứng nói chuyện trước mặt nhiều người thì bỗng
nhiên nói nhức đầu rồi ngã lăn ra chết. Vì sao? Vì không còn thở nữa! Thở là một
nghệ thuật sống nhưng ít ai quan tâm đến, suốt ngày này đến tháng kia, năm nọ
chỉ lo ăn với uống mà quên đi hơi thở của mình. Ngày xưa đức Phật đa số dạy các
tỳ kheo quán hơi thở, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết thở ra, đến khi
thuần thục không cần theo dõi hơi thở nữa mà chỉ nhìn hơi thở vô ra dài sâu, nhờ
vậy tâm an định và trí tuệ phát sinh. Khi tâm an định, rỗng rang, bớt đi tạp niệm
thì trí nhớ phát triển, tuệ giác tâm linh khai mở, nhờ vậy ta nhận biết cuộc sống
vô thường, mạng sống vô thường và muôn loài vật cũng lại như thế. Mạng sống
chúng ta ngắn như một hơi thở, nhờ thường xuyên quán sát như thế ta sẽ thấy biết
đúng như thật nên dễ dàng buông xả phiền não tham-sân-si mà tự tại, giải thoát.
Là người Phật tử chân chính chúng ta phải
biết chọn lựa những thức ăn và thức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể.
Người xuất gia nhưng lại thích ăn đồ giả mặn, loại thức ăn này rất có hại và lại
mắc hơn những loại rau cải, nếu tiêu thụ thường xuyên e rằng dễ bị nhiễm mặn và
nhiễm độc. Ăn chay trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, như vậy sẽ
ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta cũng nên nói, “chỉ
xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh”. Đó là
ta biết áp dụng chánh niệm trong khi ăn và khi nấu ăn. Đời sống tu hành thức ăn
uống là do đàn na tín thí đóng góp, ủng hộ. Thiền Viện Thường Chiếu có trên 300
thầy, Phật tử gần xa đóng góp, ủng hộ mỗi lần ăn có trên 400 suất, vì phải nấu
bằng cái chảo lớn nên rất khó bảo đảm an toàn sức khoẻ, có khi rau cải quá nhiều
ăn không kịp nên tiêu thụ rất dễ bệnh. Thời đại ngày nay nấu nướng số lượng quá
lớn cũng khó đảm bảo an toàn thực phẩm, do đó mọi người phải tự ý thức trong ăn
uống. Ăn kiêng, ăn những thứ cần thiết cho cơ thể là cách ăn tốt nhất.
Ngoài những thức
ăn vật chất để nuôi thân tồn tại, thức ăn tinh thần mới thực sự quan trọng đối
với mọi người trên thế gian này. Xúc thực, Tư niệm thực và Thức thực được coi
là ba món ăn tinh thần của người xuất gia hay tại gia. Xúc thực là sự tiếp xúc
hàng ngày với cuộc đời bằng mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Nếu sống trong tu viện thì
mỗi ngày đọc kinh, sám hối, ngồi Thiền, được gần gũi các bậc tu hành kiểu mẫu,
trông thấy đức hạnh của họ sẽ giúp chúng ta sống tốt theo. Thật vậy, thức ăn
nuôi dưỡng tinh thần chúng ta là Thiền ăn và Pháp hỷ thực. Mỗi ngày trước khi
ăn đại chúng luôn nhắc nhở nhau “Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn”. Vì vậy,
bằng mọi cách phải làm cho Thiền và Pháp trở thành món ăn tinh thần thực sự của
chúng ta. Người tu mà không thích ăn cơm Thiền, uống nước Pháp thì không thể sống
đời tu hành viên mãn.
Ăn
không có chánh niệm và ý thức cũng giống như hai vợ chồng và đứa con đi qua sa
mạc mà hết lương thực đem theo, không còn cách nào khác họ phải ăn thịt đứa con
để đủ sức đi ra khỏi sa mạc, nếu không làm vậy thì cả ba đều chết. Khi ăn như
thế hai vợ chồng đó rất đau khổ nhưng không còn cách nào khác hơn. Khi ăn thiếu
ý thức ta sẽ tạo nỗi khổ, niềm đau cho các loài vật khác và chính bản thân mình
sẽ gánh lấy hậu quả khổ đau. Khi hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều đồ nướng, chiên
xào là đang huỷ hoại từng làn da, thớ thịt của mình. Ta đang ăn thịt của chính ta
từ từ vì thuốc làm hại phổi, rượu làm hại gan, đồ béo làm cao huyết áp, đột quỵ
và ung thư. Thành ra ta ăn như thế nào để đừng tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho các
loài vật và ăn trên sự khổ đau của kẻ khác, tức là ta ăn trong vội vã, vật vờ
và si mê. Vì vậy, mỗi khi ăn thịt, ăn cá ta hãy ý thức có thể mình đang ăn thịt
cha mẹ hay con cái vì luân hồi sống chết qua lại vô số kiếp. Do đó chúng ta phải
tập ăn chay và tập không sát sinh hại vật để mở rộng tấm lòng từ bi, thương xót
tất cả chúng sinh.
Loại
thức ăn thứ hai là Xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý,
khi chúng tiếp xúc với sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp ta phải thấy việc tiếp xúc
đó có đem chất độc vào người hay không, chất độc này sẽ làm tâm ta bị ô nhiễm; như
khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc, tai nghe âm thanh đủ mọi
sắc thái. Chúng ta phải thực tập chánh kiến trong khi xem truyền hình, phải biết
lựa chọn kênh giải trí có đạo đức, nhân cách sống, hoặc y học đời sống. Chúng
ta không nên đưa những phim ảnh có độc tố như giết hại, sợ hãi, căm thù và bạo
động vào đầu; nên xem những bộ phim mang lại cho mình sự hiểu biết, lòng từ bi,
sự san sẻ hay nâng đỡ, vượt lên chính mình, quyết tâm không làm những điều lầm
lỗi. Nhiều người tối ngày chỉ xem phim bạo lực, chiến tranh, tình cảm uỷ mị mà
không biết chọn lựa những đề tài lợi ích. Chúng ta phải biết có những chương
trình chứa đựng rất nhiều độc tố có tác hại lớn như bạo động, căm thù và kích
thích dục vọng. Những dịch dụ quảng cáo ngày nay cũng kích thích lòng tham lam
và sự thèm khát dục vọng. Khi đọc một cuốn tiểu thuyết chúng ta có thể tiếp nhận
rất nhiều độc tố làm cho mình càng thêm dính mắc và tham muốn. Đọc xong ta có
thể mơ mộng ảo huyền một khung trời mới xa xôi, sẽ chán nản, lo lắng, thèm khát
làm mệt cả thân tâm. Nếu mỗi ngày ta không tỉnh giác thì những câu chuyện đời
thường cũng có thể mang lại cho mình nhiều độc tố. Mỗi ngày từ khi mở mắt thức
dậy cho đến khi đi ngủ ta đều thấy-nghe và tiếp xúc với mọi việc, nếu khi tiếp
xúc ta thấy thân khoẻ, tâm an ổn, nhẹ nhàng thì phải quyết gìn giữ chúng. Những
thứ làm ta mệt, buồn phiền, lo lắng và giận dữ thì phải tránh để không tiếp xúc
nhiều. Năm Giới là cội nguồn của an vui, hạnh phúc khi chúng ta đã lãnh thọ và
hành trì, Giới là những bộ da vững chắc bao bọc lấy thân thể và tâm định tĩnh,
sáng suốt của ta. Người không gìn giữ năm giới sẽ đánh mất lòng nhân ái vì đã
đưa quá nhiều độc tố như giết hại, căm thù, bạo động, sợ hãi và làm tổn thương
cho người và vật.
Loại
thức ăn thứ ba là Tư niệm thực. Đó là những ước mơ, hoài bão ta đang khao khát,
mong muốn được thực hiện trong tương lai. Ta muốn được làm thủ tướng hay bộ trưởng,
hay chí ít cũng làm giám đốc, đậu bằng tiến sĩ để đem những hiểu biết ứng dụng
vào đời, những mong muốn như thế thấm vào người ta giống như một loại thức ăn.
Mong muốn chính là một loại thực phẩm làm cho con người không ngừng phấn đấu và
rèn luyện. Ước muốn mạnh mẽ sẽ giúp ta có thêm năng lực để thực hiện những hoài
bão, nhưng có những ước muốn sẽ làm ta bất hạnh, khổ đau suốt cuộc đời vì tham
lam, dính mắc như quyền cao chức trọng, nhiều tiền bạc của cải, tài năng xuất
chúng hay sắc đẹp hơn người. Muốn được mạnh khỏe và an vui, hạnh phúc để làm
tròn trách nhiệm, bổn phận với gia đình, đóng góp cho xã hội; hay ước muốn trở thành
bậc giác ngộ mà cứu độ tất cả chúng sinh là loại thức ăn Tư niệm thực chúng ta
cần phải có. Thiền viện thiếu món ăn tinh thần thì
chúng đói, còn tìm thức ăn không tốt sẽ bị nhiễm độc, bị nhiễm độc thực phẩm
thì chết thân mạng, bị nhiễm độc tinh thần thì chết Giới thân Huệ mạng, dù còn
trong đạo nhưng không dùng được việc có ích cho mọi người. Trên thực tế, các Thiền
viện sinh hoạt tốt đẹp nhờ các vị lãnh đạo đều sống phạm hạnh thanh tịnh, do đó
đại chúng nương theo mới thăng hoa đạo đức tâm linh. Nếu hàng ngày ta thường tiếp
xúc với người phải trái, đúng sai, được mất, hơn thua, buồn thương, giận ghét, tiếp
xúc với trần cảnh do thấy-nghe trong phân biệt, dính mắc thì ý thức bắt đầu suy
nghĩ theo đường danh lợi, bị sự cúng kính làm mờ mắt, dẫn đến hư hỏng một đời
tu.
Khi tu hành ta phải nên nhận rõ tầm quan trọng của Xúc thực,
không cho sáu căn tiếp xúc với sáu trần để không bị chúng làm ô nhiễm và không
lưu giữ điều xấu vào kho tâm thức. Chúng ta tu là biết chọn con đường tốt đẹp,
không đi con đường xấu xa. Con đường hiền thánh không mở ra thì con đường tội lỗi
sẽ làm ta mờ mắt mà quên cả lối đi của bậc hiền thánh Tăng và chư Phật. Dòng nước
chảy xuôi thường gây ra lũ lụt, ngập úng nên người ta phải ngăn nó bằng cách mở
đập cho nước chảy vào để chuyển thành dòng điện mang lại lợi ích cho nhân loại.
Dòng đời cũng thế, vì đa số không biết giữ năm Giới của nhà Phật nên ba đường
dưới địa ngục, quỷ đói, súc sinh rộng mở và đang chờ đón những người thiếu hiểu
biết không tin sâu nhân quả. Suy nghĩ của con người lúc nào cũng như dòng nước
chảy khó thể ngăn được nên ta chỉ tiếp xúc với những gì tốt đẹp, lợi ích và cao
quý, nhưng phải thích hợp với trình độ và nghiệp lực của mình. Thiền là sự sống
của con người, ta biết Thiền trong mọi hoàn cảnh thì an ổn, nhẹ nhàng, trí tuệ phát
sinh. Chính vì vậy, khi đọc Kinh, sám hối hay tham Thiền, chúng ta cảm nhận niềm
vui nên dần hồi buông xả được phiền não, tham-sân-si từ từ nhẹ bớt, không còn nặng
như ngày xưa. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày giữa ta và cuộc đời, nếu chúng
ta huân tập đầy đủ Phật pháp thì tất cả nhiễm ô thế gian sẽ được tiêu hóa dần hồi
theo thời gian, từ kiến thức chuyển thành trí tuệ nhờ biết cách buông xả.
Loại
thức ăn thứ tư gọi là Thức thực. Thân thể chúng ta được hình thành ngày hôm nay
đẹp hay xấu là do tác động của ý thức, trong đó gồm có Chánh báo và Y báo.
Chánh báo là thân thể này gồm có thân và tâm. Y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh
ta đang sống. Vì thói quen được huân tập lâu ngày từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ
ta có Chánh báo và Y báo. Chánh báo và Y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức
được hình thành qua nền tảng nhân quả. Loại thức ăn thứ tư này rất quan trọng
vì nó là phần tinh thần. Tâm tư sáng suốt, hành động lương thiện sẽ giúp chúng
ta tiếp nhận các món ăn trong sáng, từ bi và trí tuệ. Nếu trong quá khứ tâm thức
đã tiếp nhận thức ăn độc hại quá nhiều thì ngày nay tâm thức ta biểu hiện ra Chánh
báo, Y báo không lành mạnh mà còn tối tăm, mờ mịt. Những gì ta suy tư trong thấy-nghe-ngửi-nếm
và tưởng tượng là những thứ được cất gữ trong kho chứa tâm thức. Nếu kho tâm thức
này chứa vô minh, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn và phiền muộn, khổ đau thì
khi đủ duyên chúng sẽ phát sinh. Chính vì vậy, chúng ta phải biết phân loại những
thức ăn đưa vào kho tâm thức, phải nên đưa từ-bi-hỷ-xả, lòng bao dung độ lượng,
giúp đỡ và sẻ chia, yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống để
nuôi dưỡng tâm thức mỗi ngày. Đức Phật đã dùng phương tiện hình ảnh một người tử
tù đang bị vua hành hình để nói về Thức thực. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 cây
kim đâm vào thân thể người tử tội, đến chiều tối vua hỏi, “kẻ tử tù đó bây giờ ra
sao?” Viên cai ngục trả lời, “tâu bệ hạ, nó vẫn còn sống nhưng rên la thê thảm
lắm!” Phật dùng ví dụ này để nhắc nhở chúng ta đừng nên hành hạ tâm thức của
mình y như thế, đừng đâm 300 mũi kim của độc tố tham lam, giận dữ, si mê, ganh
ghét, tật đố, hận thù, bạo động và sợ hãi vào kho tâm thức của chúng ta mỗi
ngày.
Bốn
thí dụ trên được ghi lại trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Hai vợ
chồng và đứa con cùng đi qua sa mạc nhưng nửa đường hết thức ăn, nếu không có cả
ba đều chịu chết, cuối cùng hai người đành phải giết con để ăn mà vượt khỏi sa
mạc. Bốn ví dụ nghe rất khiếp đảm và ghê sợ, mục đích chính nhằm răn bảo chúng
ta phải sáng suốt gìn giữ thân-miệng-ý để đừng làm tổn hại cho mình và người.
Ăn uống là nhu cầu chính yếu hằng ngày, khi ăn ta phải tỉnh giác biết rõ thức
ăn nào không làm tổn hại thân tâm, trong khi ăn phải biết mình đang ăn, thức ăn
ngon hay dở đều biết rõ; mặn, lạt, chua, cay ta đều biết nhưng không để tâm bị
lôi kéo về quá khứ hay mơ mộng đến tương lai, hoặc quá lo lắng mà đánh mất mình
trong hiện tại. Trước khi ăn mọi người nên quán tưởng như sau: Cơm ngày ba bữa thường nhớ công khó nhọc của
kẻ nông phu. Thân mặc ba y hằng xét nghĩ sự nhọc nhằn của người may dệt. Thuốc
thang giường chõng bởi do sự nhín ăn bớt mặc của tín thí khắp nơi. Học đạo tiến
tu nhờ lòng từ dạy răn của thầy Tổ. Nguyện cho thí chủ và tất cả chúng sinh phước
huệ song tu, nhân tròn quả giác, kẻ mất người còn đều trọn thành Phật đạo. Trước
khi ăn ta quán tưởng như thế để tâm hằng nhớ ghi huân vào kho tâm thức, do đó
khi đưa thức ăn vào miệng ta nhìn thấy rõ thức ăn ấy với con mắt tỉnh giác, ta
ăn để mà sống, ăn vì thành tựu đạo nghiệp chứ không phải sống để mà ăn. Khi ăn
ta nhìn miếng đậu hũ như một dược liệu thuốc thang để chữa bệnh đói khát, nhờ vậy
ta thấy rau cải, nước tương là đại sứ của đất trời đến với ta để nuôi dưỡng
thân này. Lòng ta tràn đầy niềm biết ơn và hoan hỷ, vui vẻ với những người đã
gieo mầm sống để chúng ta dưỡng thân mà tu tập. Khi nhai ta nhai trong ý thức,
ta biết rằng mình đang tiếp xúc với những chất liệu trong sáng, lành mạnh. Thường
khi ăn nếu không tỉnh giác ta sẽ nhai những buồn thương, giận ghét, phải quấy,
tốt xấu, hơn thua và lo lắng. Vô tình ta đang nhai quá khứ và tương lai mà đánh
mất mình trong hiện tại. Ta nhai đều đặn thức ăn rau cải được trộn chung với
cơm sẽ trở thành chất loãng, nhờ vậy rất dễ tiêu và bổ dưỡng, không bị bón kiết.
Như thế ta không cần phải ăn quá nhiều mà dinh dưỡng vẫn đầy đủ để nuôi dưỡng
thân khỏe, tâm an.
Dưỡng khí là cái tối cần thiết cho cơ thể con người, nếu thở
ra mà không thở vào coi như mạng sống chấm dứt. Không ăn uống con người có thể
sống được vài tuần, nếu thiếu dưỡng khí chỉ trong 5 phút con người sẽ chết
ngay. Dưỡng khí rất cần thiết cho nhu cầu cuộc sống con người nhưng chúng ta
thường ít lưu ý đến, và cũng không biết cách hít thở để có lượng dưỡng khí đầy
đủ giúp cơ thể khoẻ khoắn, lành mạnh. Chính vì thế, trong đạo Phật nguyên thuỷ Phật
dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý
thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người.
Tập hít thở đúng đắn là hít thở dài và sâu, hít vô thở ra đều
bằng mũi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của
nhiều thứ bệnh bởi lượng dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi và các cơ phận
khác quá ít. Tình trạng thiếu dưỡng khí lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu,
hoạt động không bình thường và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những
nguyên nhân gây ra nhiều tật bệnh, trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Bản
thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, khi mới vào Thiền Viện chúng tôi
chỉ chú trọng tu tâm chớ không quan trọng tu thân, do đó bị rất nhiều bệnh. Trong vài năm gần đây tôi mới nhận ra sai lầm
đó và áp dụng quán hơi thở trong đi-đứng-nằm-ngồi nên sức khoẻ ngày càng được tốt
hơn.
7. Thiền trong lúc lái xe
làm việc hoạt động hằng ngày
Khi lái xe ta dùng tâm biết của mình để điều
hành. Mắt nhìn về phía trước để quan sát sự vật, liếc bên phải, bên trái để
thấy các phương tiện khác. Tay lái xe, chân đạp thắng, vô ga, giảm ga. Tai lắng
nghe tiếng kèn xin đường của xe khác để biết mà nhường đường. Trước khi lái xe
chúng ta phải tâm niệm mình đang chở biết bao sinh mạng trên xe, do đó phải bảo
đảm nguyên tắc trước khi lái xe không được uống rượu bia, một người tài xế
không được chạy quá 8 tiếng đồng hồ liên tục mà phải đổi ca mới đảm bảo an toàn
cho hành khách. Thường thì tai nạn xảy ra do tài xế quá mệt mỏi nên ngủ gật,
uống rượu bia hoặc nhớ nghĩ lung tung nên không chú tâm trong khi lái.
Thiền trong lúc làm việc cũng thế, ta làm việc
nào chỉ biết việc đó, chỉ chú tâm vào việc đang làm. Từ anh giám đốc cho đến
công nhân viên, tất cả đều phải chú tâm vào công việc của mình. Giám đốc sau
khi phân công, điều hành xong thì làm nhiệm vụ giám sát, theo dõi, nhờ vậy kịp
thời giải quyết những khó khăn, bất trắc. Anh kế toán chú tâm vào việc đánh máy
nên tính toán chính xác, không sai con số. Chị lao công chú tâm vào công việc
sẽ nhìn thấy rõ chỗ nào dơ sạch mà lau chùi, quét dọn kỹ càng. Anh bảo vệ chú
tâm quán sát người ra vào cơ quan nên biết rõ từng người một quan hệ, giao dịch
gì để kiểm soát và bảo vệ tài sản chung. Tất cả mọi phòng ban ngành đoàn thể cứ
như thế mỗi người đều có trách nhiệm riêng, chúng ta chỉ chú tâm vào công việc
được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhờ vậy năng suất lao động được nâng cao
và công việc được hoàn thành trước thời hạn.
Phương pháp Thiền trong công việc cũng là một
loại Thiền chỉ giúp mọi người ý thức được trách nhiệm của mình, nhờ chú tâm
quan sát rõ ràng mà làm việc ít thấy mệt mỏi và không bị thời gian chi phối.
Trong khi làm việc ta không biết tập trung sẽ lãng phí thời gian, làm thiệt hại
cho cơ quan vì đi trễ về sớm mà khi làm việc lại trông mau hết giờ để về nhà.
Chúng ta làm việc như vậy sẽ tập cho mình thói quen làm biếng, xén bớt giờ công
mà suy nghĩ vớ vẩn, lung tung nên hiệu suất làm việc kém chất lượng. Thiền khi làm
việc sẽ giúp ta dễ dàng kiểm soát tâm rong rủi chạy tìm giống như con vượn
chuyền cành, nhờ chú tâm ta làm tốt công việc được giao, hằng ngày điều phục
được tâm ý bất chánh như trộm cắp, lường gạt của người.
8. Thiền trong lúc mua
bán, làm ruộng trồng hoa màu, nghiên cứu, phát minh, giảng dạy
Người mua bán ngoài chợ cũng phải Thiền, phải ăn
nói nhỏ nhẹ, ôn tồn. Khi khách đến không nên nói thách quá, tốt nhất nên nói
đúng giá, nếu khách không mua hay trả giá quá thấp cũng nên vui vẻ, cởi mở,
đừng nên tỏ thái độ cằn nhằn, bực tức. Nhiều người thậm chí còn mê tín, sáng
sớm khách mở hàng mà không mua thì đốt phông lông, la ó, chửi rủa um sùm, bán
buôn như vậy dần hồi sẽ mất khách hàng. Cuộc sống này vốn thuận mua vừa bán chớ
không có gì bắt buộc, người có Thiền vị sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ
mối quan hệ mua bán lâu dài bằng tấm lòng chân thật của chúng ta.
Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức
ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu Thiền. Do phải trải qua nhiều
công đoạn từ khâu gieo giống, chăm sóc, cày cuốc, tưới tẩm và bón phân theo
đúng quy trình, nếu chậm thời gian sẽ không có kết quả tốt nên phải chú tâm vào
công việc; do đó cũng là một loại Thiền Chỉ giúp tâm dễ dàng an định, nhờ vậy
ta tính toán làm việc theo đúng quy trình, thời gian cho phép. Khi có trải
nghiệm trong Thiền vị ta sẽ ý thức không dùng nhiều hóa chất mà dùng theo liều lượng cho phép, nhờ vậy
hoa màu đến tay người tiêu dùng không bị ô nhiễm các chất độc hại. Nhiều người
vì lòng tham, ham lợi nhuận nên bị đồng tiền làm mờ mắt, chiều nay xịt thuốc
liều lượng cao, sáng mai đem đi bán nên người ăn dễ bị ngộ độc. Báo chí vẫn thường
đăng tin ngộ độc thức ăn hàng loạt, có khi lên đến vài trăm người, nếu không cũng
bệnh ung thư, nóng gan, viêm gan siêu vi B, C… Người thời nay bệnh hoạn nhiều
cũng do con người không biết tin sâu nhân quả, chỉ biết lợi trước mắt mà làm
tổn thương rất nhiều người.
Các nhà khoa học, bác học cũng phải biết cách Thiền.
Họ giam mình trong phòng kín lâu ngày để nghiên cứu, phát minh một vấn đề nào
đó phục vụ cho xã hội loài người, nếu tâm vọng động, lăng xăng, nhớ nghĩ hết
chuyện này đến chuyện kia thì làm sao phát minh được. Nhờ biết tu Thiền nên tâm
họ định tĩnh, sáng suốt, làm việc gì cũng có kết quả tốt đẹp.
Thiền trong nghiên cứu, giảng dạy là chú tâm
soạn bài giảng, tập trung vào nội dung cần triển khai về đề tài mình muốn nói.
Khi soạn xong ta nên đọc lại từ 3 đến 5 lần để nắm khái quát đề tài giảng dạy.
Trước khi lên Pháp tòa trong vòng một tiếng đồng hồ ta không cần nhớ
nghĩ gì nữa mà chỉ cần nhiếp tâm theo dõi hơi thở, thở vô ta biết mình thở vô,
thở ra ta biết mình thở ra, chỉ cần nhìn lại hơi thở mà không cần đối trị, nhờ
vậy tâm được định tĩnh, sáng suốt, khi lên giảng những gì cần nhớ sẽ nhớ liền
nên giúp người nghe nắm bắt nghĩa lý rõ ràng. Về phía người nghe cũng vậy, chỉ
cần chú tâm khi nghe mà không khởi niệm phân biệt hay-dở, ta nghe chỉ để học
hỏi, để biết cách tu tập hay ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.
9. Thiền trong lúc tắm,
mặc quần áo, đi tiểu, đi đại
Nhiều người nghe nói Thiền trong lúc tắm rửa,
mặc quần áo, đi tiểu, đi đại tưởng là bất kính. Song, chúng ta phải Thiền ngay trong
mọi điều kiện sinh hoạt hằng ngày. Quý vị nghe chúng tôi hướng dẫn sẽ thấy giá
trị và lợi ích thiết thực của nó. Khi vào trong nhà tắm và lột bỏ hết lớp quần
áo bên ngoài ra ta mới thấy rõ con người chân thật của mình. Cũng vậy, khi
chúng ta buông bỏ hết phiền não tham-sân-si thì Phật tính sáng suốt mới hiện
ra. Người phụ nữ khi tắm mất thời gian rất lâu vì phải săm soi, ngắm nghía mình
xem còn duyên dáng hay không, nhất là những người đã có chồng, có con. Phụ nữ
thì sợ xấu, sợ già, sợ hôi, sợ cô đơn và vô vàn nỗi sợ khác nên khi tắm phải
dùng nhiều xà bông, nước thơm, tắm như vậy là đã đánh mất chính mình vì tham
đắm, dính mắc vào thân này quá nhiều. Ai mập quá thì rất khốn khổ vì nghĩ mình
không còn sức hấp dẫn với chồng hay người yêu, đó là nỗi khổ, niềm đau hay dày
vò phái đẹp. Ốm quá thì thân hình lòi xương, trông giống con khô hố, ai chạm
đến tưởng như gốc cây. Người nữ mập quá hay ốm quá đều khổ cả. Tắm nhằm mục
đích rửa sạch chất dơ bẩn sau một buổi hay một ngày làm việc để tẩy đi các chất
ô uế bám dính trong người. Khi tắm nước lạnh ta cảm nhận nước mát khắp toàn
thân, tắm nước nóng ta cảm nhận sự ấm áp của nó, tắm như vậy là không bị dính
mắc vào thân. Con người chúng ta thường hay chấp thân này là thật; tâm suy nghĩ,
hiểu biết cũng là thật; từ đó chấp thân tâm làm ngã rồi dính vào đó nên bị
phiền não tham-sân-si chi phối, sai sử.
Người biết Thiền trong cuộc sống khi tắm chỉ
biết mình đang tắm mà không ngắm nghía, săm soi thân hình, nhờ vậy trong lúc
tắm cảm nhận được an ổn, nhẹ nhàng. Tắm như vậy là tắm Thiền khoẻ re. Mặc quần
áo mục đích chính là để che thân không bị lõa lồ nhưng ta lại nghĩ mặc quần áo để khoe đẹp với người khác, do
đó phải tốn tiền sắm sửa quá nhiều. Phụ nữ Việt Nam thời đại ngày nay đang dần
đánh mất chiếc áo bà ba hay áo dài, thay vào đó là áo hở cổ, khoét ngực để khoe
sự hấp dẫn, vô tình làm đấng mày râu mê muội, dính mắc vào đó. Phụ nữ nặng về
luyến ái, tức tình cảm nặng nề, do đó làm đẹp là bản chất của phái đẹp; nhưng
ta phải biết hài hoà cho có chừng mực vừa phải thì đỡ tốn thời gian, ít hao
tiền bạc, nhờ vậy giảm bớt lòng tham muốn. Ăn mặc giản dị, gọn gàng là nét đẹp
văn hoá của người phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp của người phụ nữ là đẹp ở tấm lòng,
đẹp ở nhân cách đạo đức. Người nam thì đơn giản hơn trong ăn mặc nhưng lại hay
dính mắc vào thuốc lá, rượu bia, gái gú, hưởng thụ thức ăn các loài vật quá
nhiều. Người uống rượu bia ăn các loài hải sản tươi sống nhiều nên chắc chắn sẽ
thiếu lòng từ bi trong đối nhân xử thế, do đó sẽ gánh lấy hậu quả về sau như
bệnh hoạn, mất trí nhớ, thần kinh rối loạn và bị nhân quả vay trả thù hằn không
có ngày thôi dứt.
Thiền trong việc đi tiểu, đi đại cũng rất quan
trọng trong đời sống vì nó gắn liền với chúng ta hằng ngày. Khi đi tiểu ta biết
ta đang đi tiểu, nếu trong ngày ta đưa các thức uống vào quá nhiều cũng khổ,
nhất là những tay bợm bia đã đưa vô thì phải xả ra, đó là lẽ đương nhiên. Khi tiểu
ta không chú tâm vào chỗ tiểu mà nhớ nghĩ lung tung, tiểu trong vội vàng, không
có ý thức. Khi tiểu ta chỉ cần nhìn nước tiểu vàng hay trắng sẽ biết được sức
khỏe mình ra sao. Nếu nước tiểu vàng quá thì trong người nóng, ta phải biết
điều hoà bằng cách ăn uống hay thuốc bổ thận âm. Ngược lại, nếu thấy nước tiểu
trắng thì biết người quá yếu, thận bị suy nên hay mắc tiểu đêm ta phải dùng
thuốc bổ thận dương để điều trị. Thông qua đó ta sẽ biết cách điều hòa để cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống. Đi đại
cũng vậy, nếu bị bón rặn không ra ta biết mình đang bị nóng gan hay bị trĩ, ta
sẽ dùng thuốc trị hoặc ăn đồ mát thì sẽ từ từ hồi phục trở lại. Đi phân đen hay
xanh, chảy hay chìm xuống ta biết đường ruột yếu thì phải thức ăn nóng cho có
tính cách Dương tính, đây cũng là một pháp Thiền trong lúc đi đại. Mình bệnh mà
không biết mình bệnh thì nguy cơ cao; ăn vô mà không thải ra chỉ trong vài ngày
thì bụng sình chướng khó tiêu, người bức rức, nóng nảy, chộn rộn thật khổ tâm;
nếu bị đi chảy nhiều quá thì coi chừng tiêu đời nhà ma. Vậy trong lúc đi tiểu,
đi đại mình có tu không? Có chứ, nếu không ngồi trong nhà cầu khốn khổ đủ điều,
mùi cặn bả xả ra hôi hám vô cùng mà tâm cứ nghĩ tưởng lung tung. Do đó ta phải
biết rõ ràng từng trạng thái của nó mà không bám dính vào chỗ nào, coi như ta
đang Thiền trong đi tiểu hay đi đại.
Cuộc sống nhân loại ngày nay trên đà phát triển
ngày càng cao giúp con người hưởng thụ tiện nghi vật chất, nhưng ngược lại làm
ô nhiễm môi trường, thức ăn uống bị nhiễm độc nặng nề. Các bệnh viện quá tải vì
người bệnh quá nhiều, nguyên nhân chính là không biết điều hoà trong ăn uống.
Người tại gia với bộn bề công việc nên không biết làm cách nào để điều hoà thân
tâm cho tốt, do đó dễ phiền muộn, khổ đau, bệnh hoạn và bất an, lo lắng, sợ
hãi. Hai bộ phận chủ yếu trong cơ thể chúng ta là thận và gan. Thận điều tiết,
thải độc bằng nước và mồ hôi. Nếu để thận yếu, thận suy dễ phát sinh bệnh tim
mạch và huyết áp cao, tai biến mạch máu não và đột quỵ. Ăn quá nhiều dầu mỡ, đồ
nóng từ chiên-xào-nướng, dùng thức uống kích thích như rượu bia nhiều dẫn đến
bệnh nóng gan, xơ gan, viêm gan siêu vi B, ung thư; nếu không chết liền cũng
làm hao tiền tốn của, làm khổ người thân và khi chết mang theo lòng tham lam,
ích kỷ nên càng bị đoạ lạc vào chỗ xấu. Điều hoà trong ăn uống, đi tiểu, đi đại
là ta đã biết Thiền trong đời sống hằng ngày, vì những thứ này gắn liền với
chúng ta. Biết ăn, biết uống, biết đi tiểu, đi đại, đã đưa vô thì phải xả ra,
ta chỉ cần kiểm soát chúng chặt chẽ hằng ngày là vừa làm chủ thân tâm, vừa điều
phục bệnh hoạn.
Bốn phương pháp Thiền ngồi, Thiền lạy, Thiền đi,
Thiền nằm, hành giả miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe, nhờ
vậy không bị thất niệm nên phát sinh định lực và trí tuệ. Tới khi đi ngủ thì phải
Thiền nằm, miệng tiếp tục niệm Quán Thế Âm Bồ tát, chỉ cần nhiếp tâm vào câu
niệm thì từ từ đi vào giấc ngủ mà không bị mộng mị xấu ác. Vậy trong bốn oai nghi
đi-đứng-ngồi-nằm ta đều Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát từ lúc mở mắt thức dậy
cho đến khi đi ngủ, khi ăn uống, lái xe, làm việc, mua bán, trồng trọt, nghiên
cứu, giảng dạy, tắm rửa hay đi tiểu, đi đại. Ta đều Thiền bằng cách chú tâm vào
việc mình đang làm, nhờ vậy ta biết rõ ràng bản chất thực hư của nó mà biết
cách buông xả để sống đời an vui, hạnh phúc bằng trái tim yêu thương và hiểu
biết. Ai biết Thiền như vậy mỗi ngày từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ, mỗi
hành động tạo tác của thân tâm đều biết rõ đúng sai, cái gì đúng thì giữ lại,
cái gì sai thì gạt bỏ nên tất cả mọi chỗ, mọi nơi đều là Thiền.
Phật dạy trong các Kinh nguyên thuỷ pháp Lục
niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Giới, niệm Thí. Lục
niệm này liên kết với nhau đầy đủ mới thành tựu Phật quả. Niệm Phật để sống với
Phật tính sáng suốt, niệm Pháp để nhớ lời dạy vàng ngọc của Phật, niệm Tăng để
cung kính và học hỏi, niệm Thiên để được đầy đủ phước, niệm Giới để không làm
các việc xấu ác, niệm Thí để biết cách buông xả và giúp đỡ người khác. Sáu niệm
này thuần thục thì mới thành tựu Phật pháp viên mãn. Niệm Phật và niệm Bồ tát
cũng giống nhau về hình thức, ta có thể niệm Phật Thích Ca, Phật A Di Đà hay Bồ
tát Quán Thế Âm hay niệm hơi thở đều được vì đây chỉ là phương tiện bước đầu
giúp mọi người dừng vọng niệm xấu ác. Trong nhà Phật phương tiện bước đầu phải là
Thiền Chỉ. “Chỉ” là cột tâm vào một điểm nào để đánh bật các vọng niệm buồn
thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua làm tổn hại thân tâm. Thiền Chỉ
có nhiều loại giúp trụ tâm vào hơi thở nên đều là Thiền Chỉ. Kế đến là Thiền
Quán, tức dùng ý thức để xem xét ta-người-hoàn cảnh, nhờ vậy biết tất cả đều vô
thường, cái gì có hình tướng đều bại hoại, do đó phát sinh trí tuệ mà biết cách
buông xả phiền não tham-sân-si. Ngày xưa Phật không dạy phương pháp Sổ Tức
Quán, có nghĩa là đếm hơi thở, đếm từ một đến mười rồi quay trở lại đếm tiếp.
Phật chỉ dạy pháp quán hơi thở là thở vô ta biết thở vô, thở ra ta biết thở ra,
chỉ một bề quán sát tường tận như vậy. Người đời sau vì vọng niệm lăng xăng,
dính mắc nhiều quá nên dạy quán hơi thở họ không đủ sức nhiếp tâm, do đó các Tổ
phương tiện chế ra Sổ Tức Quán, đếm hơi thở từ một đến mười để mọi người dễ cột
tâm vào đó, vừa đếm vừa hít thở. Tất cả chung quy cũng đều là phương tiện ban
đầu.
TU THIỀN TRỰC CHỈ NƠI
TÂM
Sau khi niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm đã
thuần thục, chúng ta dùng pháp quán chiếu – tức Thiền quán xem xét, soi sáng
các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường ngay nơi thân tâm, hoàn cảnh; nhờ vậy
hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định nên dễ dàng
buông xả tâm dính mắc “ta-người” và hoàn cảnh bên ngoài; do đó hằng sống với
tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch. Muốn vậy Bồ tát phải quán trí
tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm, si mê và sống với tính biết sáng suốt,
nương nơi mắt thấy tai nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe,
mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào
đời cứu độ chúng sinh mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ Căn Viên
Thông là thù thắng hơn hết. Một hôm sau khi 25 vị Thánh trình bày sự tu chứng
của mình, Phật hỏi Ngài Văn Thù chọn lựa pháp tu Viên Thông để người đời sau
bắt chước tu học. Bồ tát Văn Thù chọn lựa pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm là
“Phản Văn Văn Tự Tánh”. “Phản” là ngược lại, là xoay cái nghe chạy theo
người-vật quay lại chính mình, sống với tánh nghe thường hằng nương nơi tai nên
thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng
nghe không tiếng mà không dính mắc vào âm thanh dù lớn hay nhỏ. Để thể nghiệm
tánh nghe của mình có người hỏi, “bạn đang làm gì đó?” “Tôi đang nghe”; như vậy
thì bạn đâu có quên mình theo vật, đâu có bị môi lưỡi của người khác lừa mình;
như thế là bạn đang sống với tánh nghe thường hằng của mình, chỉ đơn giản vậy
thôi. Người đời vì không biết nên lãng quên chính mình, nếu bạn khi nghe ai hỏi
“anh đang làm gì đó?” rồi trả lời “tôi đang rửa chén” hay “tôi đang xem ti vi”
là bạn đang quên mình theo vật, bạn đã chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài.
Sau đây xin mời quý vị hãy cùng chúng tôi lắng
tâm nghe một câu chuyện nói về tánh nghe. Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi trong
thất cùng một vị Tăng đứng kế bên. Sư hỏi, “bên ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng
đứng kế thưa, “tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu”. Sư nói, “sẽ bảo chúng sinh
đau khổ, lại có khổ chúng sinh”. Rắn bắt nhái là chúng sinh khổ vì con lớn hiếp
con bé, song lại có khổ chúng sinh chính là vị Tăng quên mình chạy theo âm
thanh bên ngoài. Đây là chiêu thuật của các vị Thiền sư để khám phá những người
học đạo có sống được với tâm chân thật của mình qua tánh nghe hay không? Hằng
ngày từ sáng sớm đến chiều tối, tai chúng ta chỉ chạy theo âm thanh tiếng lớn,
tiếng nhỏ êm dịu hay chát chúa bên ngoài, chính vì vậy mà bị âm thanh làm cho
khổ não; nghe âm thanh nặng nề ta cảm thấy bực tức, nghe âm thanh vừa ý ta đắm
say, dính mắc vào đó do không chịu sống với tánh nghe thường hằng nương nơi
tai; vừa nghe tiếng liền khởi niệm phân biệt hay dở, đúng sai rồi sinh tâm ưa
thì thích thú bám víu vào đó, sinh tâm ghét thì chán bỏ không thích nghe; cho
nên nói “chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh” là vậy. Người không biết tu thì
khổ đã đành, mà người đang tu cũng lại quên mình theo vật, hỏi sau tu hoài
không hết phiền não tham-sân-si.
Qua hôm sau, Thiền sư lại hỏi vị Tăng khác, “bên
ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng quá thành thật nên trả lời “tiếng mưa rơi”. Thiền
sư bảo, “chúng sinh điên đảo quên mình theo vật”. Chỉ có người đã thật sự sống
với tâm chân thật, sáng suốt của mình mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên
ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, có tiếng
thì có nghe, không tiếng nghe không tiếng; lại biết mình có tính nghe thường
hằng nương nơi tai là pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm đã thành tựu từ vô số kiếp
đến nay, vì thương chúng sinh ở thế giới loài người này mà không thủ chứng ngôi
vị Phật để tìm cách chia vui, sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống. Âm thanh
lớn nhỏ, xa gần lúc nào cũng có, tính nghe hằng hiện hữu nên mới thường nghe.
Nếu tính nghe không thường hằng thì tai ta có lúc nghe, lúc không. Như trong
kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông rồi hỏi ngài có nghe
không, ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi, Phật hỏi lại
ngài A Nan có nghe không. Ngài trả lời không nghe liền bị Phật quở tại sao quên
mình theo vật. Phật nói tiếp, “có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không
tiếng”. Tính nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, cái gì biết không
tiếng? Vậy mà đa số chúng ta không chịu thừa nhận tính nghe của mình nên luôn
sống trong đau khổ lầm mê. Câu chuyện trong Kinh Lăng Nghiêm cho thấy Phật dạy
Ngài A Nan và những Thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm, không thông qua
phương tiện, không hai, không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ tát
Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải
thoát ngay tại đây và bây giờ.
Trong Thiền môn có một câu chuyện rất nổi tiếng
về Bồ tát Quán Thế Âm. Một Thiền sinh trên đường đi tham vấn đã đến một chùa nọ
có thờ Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, thấy vậy anh hỏi Thiền sư, “Bồ tát nghìn tay
nghìn mắt như vậy thì mắt nào là mắt chánh?” Thiền sư nói, “như người ngủ ban
đêm với tay ra sau tìm chiếc gối, ngay khi đó mắt chánh hiện tiền”. Chỗ này mọi
người tự biết, tôi không thể biết “cái gì biết tìm chiếc gối trong đêm tối”. Bồ
tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không
biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho
trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ tát thương yêu bằng trái tim hiểu
biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ
thù. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy “Phản Văn Văn Tự Tánh” là xoay cái hay
nghe nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng. Hòa Thượng chúng tôi dạy
biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm,
mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Vậy Thiền và Kinh đâu có khác, Phật và Tổ
không hai, đồng một con đường hướng thượng để thể nhập tính biết sáng suốt của
mình nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.
Như chúng ta đã biết, Thiền không lệ thuộc vào
một tư thế nào hay một hình thức, lễ nghi mà được vận dụng nhuần nhuyễn từ sáng
sớm mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ. Đối với người mới tu Thiền thì ngồi
Thiền là tư thế tối ưu trong bốn oai nghi vì tư thế ngồi giúp tâm dễ an định.
Thiền sư Đạo Nhất lúc còn là Thiền sinh đều ngồi Thiền hằng ngày rất tinh tấn
từ sáng sớm cho đến trưa. Một hôm, Thiền sư Nam Nhạc đến hỏi, “đại đức ngồi
Thiền để làm gì?” Ngài Đạo Nhất thưa, “ngồi Thiền để làm Phật”. Ngài Đạo Nhất
chỉ chấp vào việc ngồi Thiền của mình mà không chịu Thiền trong các oai nghi
khác, do đó khi ngồi thì yên, khi đi đứng hoạt động thì tâm niệm lăng xăng.
Thiền sư Nam Nhạc muốn phá chấp và cảnh tỉnh ông nên mỗi ngày đem gạch trước
chỗ ngài ngồi Thiền mài sột sạt. “Thầy mài gạch để làm gì?” “Mài gạch để thành
gương.” À! Tới đây quý vị đã biết ý Tổ sư chưa? Ngài Đạo Nhất chấp vào việc
ngồi Thiền và cho đó là cứu cánh, điều này cũng giống như người mài gạch mà
muốn thành gương, đem cát nấu mà muốn thành cơm thì không thể được. Sau đó ngài
Đạo Nhất thưa, “mài gạch đâu thể thành gương được?” Ngài Nam Nhạc hỏi lại,
“ngồi Thiền đâu thể thành Phật được?” “Vậy con làm thế nào mới đúng?” Thiền sư
nói, “như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?”
Chiếc xe là vật vô tri, con trâu là vật kéo nên khi bị đánh đau thì nó kéo xe.
Cũng vậy, chúng ta ai cũng có tánh biết ngay nơi thân này, như khi gặp lửa ta
liền biết nóng, khi gặp gió ta liền biết mát, có khi ta không suy nghĩ nhưng
vẫn thấy-nghe rõ ràng. Vậy cái gì biết thấy, biết nghe? Cái biết này luôn hiện
hữu nơi ta, mắt thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Trâu là dụ
cho tâm mình, xe là dụ cho thân, chúng ta Thiền là hành thẳng nơi tâm mọi lúc,
mọi nơi chứ không chỉ lúc ngồi Thiền. Người tại gia bận công lên việc xuống làm
sao có nhiều thời gian để ngồi Thiền. Nếu ta chấp như vậy thì tu hoài cũng dậm
chân tại chỗ, làm sao tu tiến cho được. Cho nên, người tại gia phải biết uyển
chuyển tu từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, tu như vậy mới đủ khả năng
hoá giải phiền não tham-sân-si. Người tại gia vì phải bận bịu với cơm áo gạo
tiền, cha mẹ, vợ chồng, con cái, giao tế bạn bè, giữ mối quan hệ làm ăn nên
phải Thiền bằng cách chú tâm, làm việc nào biết việc đó.
MỌI NGƯỜI THIỀN ĐỂ ĐƯỢC
BÌNH YÊN HẠNH PHÚC
Chúng tôi hướng dẫn niệm Bồ tát Quán Thế Âm cũng
y như niệm Phật Cầu vãng sanh, nhưng khác ở chỗ niệm Bồ tát để cầu cứu độ chúng
sinh ngay nơi cõi đời này. Phương pháp này thể hiện tình người trong cuộc sống,
lòng yêu thương nhân loại để cùng nhau dìu dắt mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời, giúp
cho nhiều người còn chìm đắm trong biển khổ sông mê thực tâm tỉnh giác, quay về
nguồn cội của chính mình, tức tin tâm mình là Phật. Phật đã dạy trong bầu vũ
trụ bao la này gồm có ba cõi sáu đường luân hồi, sống chết. Trong sáu nẻo luân
hồi có ba đường trên là trời, A tu la, người; ba đường dưới là địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật ở cõi người dưới cội cây Bồ
đề tại đất nước Ấn Độ, trong Kinh Người còn thọ ký về sau khi thế giới Ta bà
không còn ai biết Phật pháp thì đức Phật Di Lặc sẽ ra đời, cũng nơi cõi người, dưới
cội cây Long Hoa.
Tại sao Phật không ra đời ở các cõi khác như cõi
trời chẳng hạn? Vì người trời có quá nhiều phước báo nên tất cả đều hưởng lạc
thú đầy đủ, không bị khổ não, bức bách nên rất khó tu. Thường con người khi khổ
quá mới chịu tu, cụ thể như những người quá giàu có ở thế gian này, nếu có tu họ
cũng chỉ làm phước, đóng góp nhiều cho xã hội mà thôi. Người A tu la cũng có
phước báo hơn người, tương đương với cõi trời nhưng vì tâm sân hận quá mãnh
liệt nên lúc nào cũng gây chiến với người trời, do đó cũng không tu được. Ba
đường dưới cõi địa ngục quá khổ, súc sinh thì si mê, quỷ đói thì khát máu, sống
theo nghiệp báo nên không đủ nhận thức sáng suốt để tu. Chỉ có cõi người mới tu được nhờ có suy nghĩ, nhận
thức, biết suy xét, quán chiếu, tìm tòi, nếu đi theo chiều hướng thượng thì lợi
ích cho người và vật; ngược lại, nếu ác thì cùng hung cực ác không có loài nào
bằng. Chính vì lẽ đó nên loài người có đủ điều kiện tu hành vì có buồn vui lẫn
lộn với các sự khổ như sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa
khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không như ý khổ, thân này thịnh hay suy
đều khổ. Chính những cái khổ này làm cho con người có ý thức tu tâm sửa tánh,
nếu không biết tu lại càng khổ nhiều hơn.
Người Phật tử tại gia do bộn bề công việc nên
dính mắc vào gia đình, cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc bị áp lực ngoài xã
hội nên phải biết ứng dụng Thiền trong mọi hoàn cảnh thì họa may mới có chút phần an lạc trong cuộc sống,
nếu không sẽ chịu nhiều phiền muộn khổ đau. Thiền chỉ là bước đầu để cột tâm
con khỉ ý thức của chính mình, xưa nay chúng ta quen chạy rong ruỗi đầu này đầu
kia, muốn cho tâm an định thì phải chú tâm vào câu niệm Quán Thế Âm Bồ tát, chú
tâm vào mọi oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi, nhờ vậy mới từ từ đánh bật những vọng niệm lăng xăng khác. Thiền Chỉ lâu
ngày thuần thục thì phát sinh định tĩnh, nhưng trụ vào đây mãi sẽ trở thành si
định vì không có trí tuệ nên không đủ sức hóa giải phiền não tham-sân-si. Do đó ta phải chuyển qua Thiền Quán để
thấy rõ thực chất thân tâm và hoàn cảnh. Nhờ xem xét, quán chiếu, ta thấy thân
này không thật có, do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành bởi tinh cha, huyết
mẹ cùng với thần thức một chúng sinh. Nếu thân này thiệt thì trước sau như một
không biến chuyển, đổi thay, bởi nó giả nên phải già-bệnh-chết. Rồi hằng ngày ta
phải vay mượn các thức ăn uống để nuôi thân, mượn vô rồi phải trả ra, cứ như
thế hết vay mượn lại trả ra, cho đến khi nào không còn vay mượn nữa thì mạng
sống chấm dứt. Nhưng chết không phải là hết, chết chỉ là thay hình đổi dạng, nếu
trong đời này ta không biết tu tâm sửa tánh để sống có nhân cách đạo đức và
giúp đỡ người khác thì mình khó có cơ hội làm người trở lại khi mất thân này.
Chính vì vậy, ai biết tu Thiền sẽ sống một đời
bình yên, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Ai không biết tu Thiền khi phước
hết họa đến sẽ trả quả xấu ác, lúc này dù có ăn năn hối
hận cũng đã muộn. Phật dạy “giống như con rùa mù 100 năm mới trồi lên trong
biển cả, để tìm được bọng cây chui vào rất khó”. Cũng vậy, nếu ngay trong hiện
đời ta không biết gieo trồng phước báo thì khó có cơ hội được làm người trở
lại. Người tại gia phải cố gắng gia công Thiền định trong bốn oai nghi
cho đến khi nào tâm dứt hết các tạp niệm phải quấy, hơn thua, buồn
thương, giận ghét mà lặng lẽ, thanh tịnh mới thật là an nhiên, tự tại. Có nhiều
người nhất là độ tuổi học sinh, sinh viên nói “tu cái gì cũng bỏ hết” thành ra
ngu ngốc, không biết gì hay sao? Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm
lăng xăng tạp loạn để tập trung vào một việc thì sáng thêm chớ làm sao ngu
được. Khi làm việc cũng vậy, nếu buông hết chuyện tạp, tập trung, chú tâm vào
công việc thì kết quả sẽ tốt hơn. Khi ta càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách
tự nhiên, trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng, phân minh. Chúng ta thử
nghiệm xét lại xem khi nào mình rối mà việc này, việc kia cứ dồn dập đến thì
mình quên trước, quên sau, không có đầu đuôi gì hết. Khi ấy chúng ta chỉ cần
ngồi Thiền, tập trung lại một chút sẽ nhớ rõ ràng trở lại, chính vì vậy nhiều
người mới tập tu Thiền. Nhiều người nói không nhớ gì hết nhưng sao đến lúc ngồi
Thiền lại nhớ nghĩ đủ chuyện trên đời. Lúc chưa Thiền ta không có thời gian
định tâm nên việc này việc kia chồng chéo lên nhau nên mình không nhớ, khi ngồi
Thiền tâm an tịnh nên ta nhớ biết rõ ràng đủ thứ chuyện. Xưa nay ta lãng quên
không biết ứng dụng Thiền vào cuộc sống nên thấy khó tu, giờ đã tu nên khi ngồi
lại thấy rõ ràng từng vọng niệm thương ghét phát sinh nhưng không dính mắc
theo, chỉ nhìn chúng rõ ràng thì tự động chúng lặng xuống, ta khỏi cần phải xua
đuổi hay đối trị gì hết.
Ngày xưa khi Đức Phật
ngồi Thiền dưới cội bồ-đề và chứng được Túc Mạng Minh, Ngài nhớ lại vô số kiếp
trước đã làm gì, ở đâu như nhớ chuyện ngày hôm qua. Khi buông hết các tạp niệm
lăng xăng ta tưởng như quên hết mọi việc nhưng trái lại càng Thiền càng nhớ rõ
nhưng tâm không dính mắc, việc gì cần nhớ thì nhớ, không cần thì thôi. Hiểu như
vậy ta mới thấy tâm mình là kho chứa đựng các thứ buồn thương, giận ghét, tốt
xấu, phải quấy, hơn thua. Những thứ cần biết thì ta không biết, những thứ không
cần biết ta lại tìm tòi để dính mắc vào đó nên sinh ra phiền muộn, khổ đau. Tóm
lại, chúng ta nên nhớ việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì đừng
bận tâm đến. Người khéo tu Thiền trong mọi hoàn cảnh lúc nào cũng nhớ quay lại chính
mình, nhận ra và sống được với Phật tính sáng suốt; ngoài ra tất cả đều là vô
thường hư ảo nên không cần chú tâm đến làm gì, như thế các tạp niệm lăng xăng từ
từ không có chỗ bám víu sẽ tan hòa vào hư không. Đến đây
thì,
Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,
Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.
Đây là bài kệ của vua
Trần Nhân Tông khi còn làm Thái Thượng Hoàng. Ở giữa cuộc đời này mà ta luôn
sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và còn đóng góp
lợi ích cho xã hội. Sống và làm việc như vậy mà không bị dính nhiễm bụi trần
nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Người đã thể nhập chân lý không còn lo toan, bận
bịu một thứ gì. Việc gì cần làm thì làm, làm trong vui vẻ, an nhiên; cho nên đói
thì ăn mà không thèm khát, khi mệt thì đi ngủ một giấc ngon lành như Lục tổ nói,
“duỗi thẳng hai chân ngủ”. Ngay nơi thân này mình đã sống với ông Phật của
chính mình nên đâu cần tìm cầu, tìm kiếm nơi khác, khỏi phải lăng xăng chạy tìm
Phật pháp ở phương nào. Ý nghĩa câu kệ cuối cùng rất quan trọng, khi làm việc,
tiếp xúc, đối duyên chạm cảnh thì tâm hằng biết mà không tính toán so đo, do đó
bình an, tự tại nên không cần phải hỏi tới Thiền. Tâm không vướng mắc với trần
cảnh, thấy tức là biết mà không dính vào hình ảnh sự vật, như vậy không phải Thiền
là gì? Còn đi tìm kiếm, còn hỏi Thiền là dư rồi, tới đó trong nhà đã có báu nên
thôi tìm kiếm, đối cảnh đã vô tâm nên không phải hỏi Thiền.
Như vậy, quyền cao chức
trọng, địa vị danh vọng, nhà lầu xe hơi, tiền bạc dư dã, vợ đẹp con xinh, những
thứ này người thế gian ai cũng ước ao mong muốn; nhưng vị vua Thiền sư Trần
Nhân Tông tuy có đầy đủ mà dám bỏ hết để lên núi tu hành và thành tựu đạo pháp.
Gương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông là ông vua thiền sư đã biết áp dụng
Thiền khi làm Thái thượng hoàng, đã truyền mãi đến bây giờ hơn 700 năm, chúng
ta may mắn là người dân đất Việt nên được thừa hưởng trực tiếp tinh ba của ngài
nhờ biết Thiền trong cuộc sống. Vua Trần Nhân Tông đã biết áp dụng “Thiền”
trong cuộc sống, nên khi xuất gia lên núi Yên Tử tu hành chỉ trong thời gian
ngắn đã sáng đạo. Thiền sư xuống núi khuyên dạy mọi người giữ năm giới, tu mười
điều thiện và phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại nhân loại.
Nhờ vậy Phật giáo đời Trần là một nét son vàng chiếu sáng khắp toàn thể nhân
gian nước Việt, phát triển tinh thần làm chủ bản thân nhờ biết “thiền” trong
gia đình và cuộc sống.
Chỉ cần mọi người chúng
ta noi theo gương hạnh của người xưa qua sự hướng dẫn của chư Tăng ni trong
thời hiện tại. Chúng ta có đầy đủ lòng kính trọng Tam bảo và tin tâm mình là
Phật mà cố gắng kiên trì, bền bỉ, dù không thành tựu trọn vẹn trong kiếp này,
ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau vì đã ta có chất Thiền trong người.
Cứ như thế, ta sẽ hành Bồ tát đạo dưới nhiều hình thức khi thì làm thủ tướng,
nữ hoàng, người nam, người nữ để tuỳ duyên hoá độ chúng sinh theo tinh thần của
Bồ tát Quán Thế Âm đang đi vào đời để cùng chia vui sớt khổ. Muốn được thành
tựu viên mãn ta phải dùng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ để quét sạch
mọi ma mị trong tâm, cho đến khi nào thanh tịnh, sáng suốt, lặng lẽ mà hằng
chiếu soi muôn sự vật. Cảnh là cảnh, vật là vật, ta là ta cùng hoà hợp nhịp
nhàng với nhau bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu
biết. Mỗi hành giả tu Thiền nên lấy bài kệ của Thiền sư Huyền Giác để nghiệm
xét chính mình:
Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai,
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.
“Tỉnh tỉnh lặng lặng phải” là sao? “Tỉnh tỉnh”
có nghĩa là chúng ta thường biết rõ ràng, “lặng lặng” có nghĩa là không vọng
niệm lăng xăng, cho nên “tỉnh tỉnh lặng lặng” là thành tựu viên mãn. Phật đã
sống được như vậy trọn vẹn nên không có gì làm cho Ngài dao động, suốt 49 năm
giáo hóa bị người mắng chửi, vu oan giá họa bằng mọi thủ
đoạn nhưng Phật vẫn an nhiên, tự tại mà chứng minh sự trong sáng của mình. “Vô
ký lặng lặng sai” là sao? Ở đây ý nói người tu Thiền nhờ chú tâm vào một chỗ
nên tâm an định nhưng không có trí tuệ, do đó rơi vào hôn trầm, không biết gì. “Lặng
lặng tỉnh tỉnh phải” cũng giống như đã nói, còn “loạn tưởng tỉnh tỉnh sai” ý
nói chúng ta sử dụng Thiền quán nhiều mà phát sinh trí tuệ,
nhưng có trí tuệ mà cứ nhớ hoài Thiện pháp, không buông xả được nên khi đó
chúng là vọng niệm lăng xăng, tức loạn tưởng. Chỉ có “tỉnh tỉnh lặng lặng” là
đúng, coi như thành tựu Phật đạo mà bình thản, an nhiên, tự tại. Chút duyên
lành có được ngày hôm nay nhờ ân giáo dưỡng của Hòa Thượng tôn sư Trúc Lâm Phụng Hoàng và sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa Thượng trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu.
Chúng con nguyện khắc cốt khi tâm, cố gắng tu hành cho đến khi nào viên mãn mới
thôi. Công ơn của thầy Tổ bao la, rộng lớn không gì có thể sánh bằng, dù thành
Phật vô số kiếp cũng chưa chắc trả hết công lao này. Khi sống được với hương vị
của Thiền, mỗi hành giả sẽ dần hồi gột rửa các tập khí, thói quen xấu ác có
tính cách hại người hại vật, cho đến khi nào hết sạch
vọng niệm thì thành tựu Phật đạo viên mãn.
Mọi người đều có tánh
biết sáng suốt của mình, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn,
thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, không thêm một niệm nào để phân tích sự vật
tốt hay xấu, đúng hay sai; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Cái thấy biết này
nói theo tổ Huệ Khả ở Trung Hoa là “thường biết rõ ràng”, nói không thể đến.
Chỗ đó thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe; như cái hay thấy nương nơi mắt thấy
rõ ràng không lầm lẫn, cảnh vật có thể đổi thay trăm ngàn thứ nhưng cái hay
thấy không bao giờ thay đổi. Cái hay thấy lúc nào cũng hiện tiền, mở mắt thấy
sáng, nhắm mắt thấy tối. Thấy tối, thấy sáng là do sự nhắm mở của con mắt chớ
không liên can gì đến cái thấy; như người có mắt sáng đi vào phòng tối thì vẫn
thấy tối đen; như bóng đèn điện gắn bóng vào thì điện cháy, mở bóng ra thì điện
tắt, có cháy có tắt là do bóng đèn chớ điện đâu bao giờ bị mất. Như vậy, cái
hay thấy thì thường hằng, cảnh vật thì khi có khi không, thấy tức là tâm thấy,
vì có thấy tức là có biết, biết tức là tâm thấy. Vậy rõ ràng mỗi người chúng ta
ai cũng đều biết, thấy tức biết mình có Phật tánh, chỉ tại vì ta không chịu
thừa nhận đó thôi.
Có chú Sa di đến tham vấn Thiền sư để tìm ra chân lý sống của
chính mình. Một hôm Thiền sư gọi chú lại bảo, “ta nghe Thăng Long rất náo loạn,
ngươi có biết chăng?” “Kính bạch thầy, nước con an ổn.” “Vậy ngươi do xem Kinh được
hay do thưa hỏi được?” “Con chẳng do xem Kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được.”
Thiền sư nói, “tại sao nhiều người chẳng xem Kinh, chẳng thưa hỏi mà họ chẳng
được?” “Tại vì họ chẳng chịu thừa nhận đó thôi!” Thiền sư nói, “ông biết, ta
cũng biết, hãy khéo gìn giữ và bảo trì!” Bây giờ chúng ta đã thấy chưa? Nếu thấy
thì hãy ráng gìn giữ và bảo trì, còn nếu chưa thấy thì phải cố gắng nghiên tầm
học hỏi, tu tập cho giỏi để nhận lại cái biết sáng suốt của chính mình. Nếu
nhận được thì chúng ta sẽ đi thẳng đến một bầu trời trong sáng mà các thứ tối
tăm khác không thể nào che lấp được. Chúng tôi lúc nào cũng thầm cầu nguyện cho
tất cả mọi người đi trọn con đường sáng để chúng ta được sống yêu thương và
hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và tha thứ, độ lượng và cảm thông, lấy
niềm vui của tất cả chúng sinh làm niềm vui chính mình.
Bây giờ tất cả mọi người hãy lắng lòng trong sạch để cùng chúng
tôi nhận lại hòn ngọc vô giá mà ta đã lãng quên từ lâu nay. Chân thành thay! Chân
thành thay! Chú Sa di đến học đạo tìm cầu chân lý chưa kịp thưa hỏi đã bị ông
thầy tung ra cái bẫy để thử nghiệm người đệ tử có bị miệng lưỡi của Hòa Thượng
lừa hay không. “Ta nghe Thăng Long rất náo loạn, ngươi có biết chăng?”, chú Sa di
này quả đúng là người có tỉnh giác nên không bị Thiền sư lừa. “Dạ thưa thầy,
nước con an ổn”. Chúng ta nghe chú Sa di trả lời như vậy có thấy lạ kỳ không?
Ngày xưa kinh đô của nước Việt Nam là Thăng Long, mà đã là kinh đô thì cuộc
sống nơi đây phải ồn ào, náo nhiệt, người đến người đi rất đông đúc, phồn vinh.
Vậy mà chú vẫn sáng suốt trả lời, “nước con an ổn”. Chúng ta nghe có điếc tai
không? Ông thầy hỏi một đường, đệ tử trả lời một nẻo, sao kỳ lạ quá? Thiền sư
mới thầm nghĩ thì ra chú đã vào đến cổng nhà Thiền, nhưng vào cổng chưa phải là
xong. Thiền sư sợ đệ tử lọt vào chỗ hiểu biết rồi sinh kiến giải mà trong nhà Thiền
thường gọi là Khẩu Đầu Thiền (Thiền trên miệng lưỡi), chỉ bắt chước nói lại lời
của người xưa mà mình thực sự không phải chứng đạo hay tự thấy. Tới đây Thiền sư
bồi thêm một câu, nếu chú Sa di ấy không phải là người chứng thiệt thì sẽ ôm
câu này mà nghi vấn cả đời, “ngươi do xem Kinh được hay do thưa hỏi được?” Chú
đệ tử liền nói như đinh đóng cột, “con chẳng do xem Kinh được, cũng chẳng do
thưa hỏi được”. Thiền sư lúc này mới thầm khen trong lòng chú đệ tử đã vào đến
nhà Thiền. Không ngờ chú Sa di quá lợi hại, câu thứ nhất chú trả lời in tuồng như
loài sư tử còn ở trong hang nhưng đã biết gióng lên tiếng gióng loài sư tử, làm
cho muôn loài thú khiếp sợ. Câu thứ hai chú trả lời để khẳng định mình đang
sống với cái tính biết sáng suốt, thanh tịnh hằng tri, hằng giác. Nhưng để kiểm
chứng đệ tử của mình đã thật sống với bản tâm chân thật hay chưa nên Thiền sư đã
bồi thêm câu, “tại sao nhiều người chẳng do xem Kinh, cũng chẳng do thưa hỏi mà
họ chẳng được?” Vì đã thật sống với bản tâm chân thật rồi nên chú Sa di đã xác
định lại, “vì họ chẳng chịu thừa nhận đó thôi!” Tới đây Thiền sư mới xác nhận,
“ông như thế, ta cũng như thế, hãy khéo gìn giữ và bảo trì!” Cho nên,
Cái biết ai cũng có
Ngay nơi thân mọi người
Chỉ vì ta không nhận
Nên đành chịu khổ đau.
Khi mê thì Phật độ
Khi biết thì tự độ
Đó là lý nhiệm mầu
Của tất cả chư Phật.
Tại vì chúng ta không chịu thừa nhận nên suốt đời sống trong đau
khổ lầm mê, thôi thì chỗ này chúng tôi cũng không giúp gì được cho ai mà chính
mọi hành giả phải tự nhận lấy. Nhận được thì chúng ta sẽ sống một đời thánh
thiện, đạo đức, luôn vì lợi ích tha nhân, lấy niềm vui nhân loại làm niềm vui
chính mình. Phật tánh sáng suốt mà chúng tôi đang nói với tất cả mọi người là “Phật
tại tâm”, Phật không có trong núi rừng, chẳng phải tìm cầu bên ngoài mà ngay
nơi chính mình nhận ra.
Bây giờ chúng ta hãy nghe chuyện vị vua Thiền sư Trần Thái Tông,
ông Tổ của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã lên núi xin Quốc sư Trúc Lâm làm Phật.
Quốc sư ân cần nắm tay vua bảo, “trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm
ta, nếu tâm lắng lặng thường biết rõ ràng thì đó chính là tâm Phật. Bệ hạ giác
ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật, không cần phải khổ nhọc tìm cầu bên
ngoài”. Ngay nơi đây mọi hành giả tu Thiền sẽ nhận lại cái sẵn có nơi mình, cái
đó rỗng rang, sáng suốt, nhiệm mầu, nói không thể đến. Trong nhà Phật có nhiều
danh từ để chỉ ra cái biết sáng suốt của mình. Để nói lên sự bình đẳng của một
chúng sinh Phật đã từng xác quyết, “ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ
thành”. Phật là danh từ chung, ai cũng có quyền sống với cái biết sáng suốt của
mình nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, hay còn gọi là “Phật tánh”. Ngày
xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân
thiên hạ và quyền uy thế lực và phải mất 11 năm lao công nhọc sức mới tìm ra chân
lý sống cho con người. Chúng ta bây giờ đâu cần khổ nhọc tìm cầu vì Phật đã chỉ
dạy tường tận, rõ ràng, chúng ta cứ y như thế mà gìn giữ, hành trì. Giữ tròn
năm giới, thường quán niệm về Phật và biết tu Thiền trong mọi hoàn cảnh thì
chúng ta sẽ là bậc hiền Thánh trong hiện tại và mai sau, luôn làm lợi ích cho
bản thân, gia đình và xã hội.
Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống của muôn loài và
thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp, là mẫu người đạo đức xứng
đáng làm bậc hiền thánh trong hiện tại và mai sau. Không giết hại là đem lại
bình an cho tất cả chúng sinh, không sợ oán ghét, thù hằn vay trả, lại còn hay
phóng sinh giúp người, cứu vật là tinh thần Bồ tát trong thời hiện đại. Sở dĩ
thế giới loài người lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, binh đao, con người sống
tàn nhẫn và độc ác với nhau là do nhân giết hại mà ra. Rồi thiên tai, lũ lụt,
hỏa hoạn, sóng thần, động đất làm tổn hại biết bao con người và tài sản cũng từ
sự phá hủy môi trường thiên nhiên. Cho nên, để bảo vệ sự sống chung của cõi Ta
Bà mọi người không nên giết hại, lại còn trải rộng lòng từ đến tất cả chúng
sinh. Không gian tham, trộm cướp là đem lại sự an tâm cho con người, không sợ
bị chiếm đoạt của cải, lại hay bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi thấy
người bất hạnh. Gian tham, trộm cướp là nhân dẫn đến nghèo cùng, khốn khổ vô số
kiếp, vì vậy Bồ tát cần nối vòng tay lớn để giúp đỡ chúng sinh trong cơn hoạn
nạn. Không tà dâm là bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và người, đem lại sự
yên tâm cho nhân loại, không sợ bị mất mát, thiệt thòi, lại hay khuyên người
chung thủy, bảo vệ hạnh phúc gia đình nên không có sự nghi ngờ, ghen tuông của
vợ hoặc chồng. Không nói dối để hại người hại vật, lại hay nói lời thật để giúp
người vững niềm tin trong cuộc sống. Nhân nói dối sẽ làm người mất tin tưởng
nên nói người không nghe. Do vậy Bồ tát phải học hạnh lắng nghe và nói lời hòa
nhã, êm dịu để đem niềm vui đến mọi người. Không uống rượu và dùng các chất độc
hại như xì ke, ma túy vì nó là những thứ làm chính mình khổ đau, lại còn ảnh hưởng
đến gia đình và xã hội. Nó là nhân dẫn đến bệnh hoạn, si mê, trong hiện tại và
mai sau sẽ chịu quả nghèo cùng, dốt nát, tối tăm, bị bệnh tâm thần vô số kiếp.
Người cư sĩ tại gia nếu gìn giữ được như vậy và thường xuyên quán tưởng về
Phật, biết tu Thiền trong mọi hoàn cảnh thì sẽ là viên ngọc quý cho đời và luôn
sống an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Mỗi hành giả tu Thiền hãy nên nhớ bài kệ này mà
cùng nhau động viên, tự răn nhắc chính mình, tin tâm mình là Phật để chúng ta
có đầy đủ niềm tin, đầy đủ dũng lực vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời để được
sống yêu thương với trái tim hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.
Nam
mô Thánh đức Bồ tát Quán Thế Âm.
Discussion about this post