
THÀNH ĐẠO
SỰ
KIỆN HY HỮU TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI
Thích
Huệ Thành
Ấn
Độ vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch có những biến
chuyển rất lớn về những vấn đề xã hội, văn hoá tư
tưởng và tôn giáo. Vào thời điểm này, Ấn Độ chưa phải
là một quốc gia rộng lớn độc lập mà bao gồm nhiều tiểu
vương quốc khác nhau. Và các tiểu vương quốc ở những khu
vực biên giới từ lâu được xem là man di nay đang vùng lên
chiếm ưu thế và họ có những thế lực nhất định trong
xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Bà-la-môn giáo từ lâu được
xem là tôn giáo chính thống đang bị suy giảm uy tín cũng như
quyền lực lãnh đạo tinh thần xã hội. Lòng người trở
nên hoang mang và hầu như mất đi nơi quy hướng.
Chính
bối cảnh này đã tạo tiền đề cho việc bùng phát hàng
chục giáo phái với các chủ thuyết khác nhau, đang cuồn cuộn
nổi lên chống phá bức thành trì kiên cố của tư tưởng
truyền thống. Kinh Sa Môn Quả đã cho biết thời này có đến
62 giáo phái cả thảy. Với sự bùng phát giáo phái như vậy,
đã mở ra một thời kỳ rối ren phức tạp về tư tưởng.
Nhiều bậc giáo chủ say sưa với căn bệnh hiếu biện, mãi
mê lý luận trong việc tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ, và tuy
vậy vẫn không thể tìm ra được một hướng đi chân chính
để phát triển tinh thần xã hội. Cũng chính vào thời điểm
này đức Phật ra đời.
Sự
kiện ra đời của đức Phật được xem là một bước ngoặt
lớn trong lịch sử nhân loại. Tuy thế, sự ra đời của Ngài
chỉ thực sự được biết đến và có ý nghĩa quan trọng
khi có sự kiện chứng ngộ Phật quả của Ngài. Nếu Bồ-tát
Siddhattha không thành Phật dưới cội Bồ-đề thì những gì
gắn liền với Ngài trước đó chắc hẳn đã rơi vào lãng
quên. Và sự có mặt của Phật giáo cũng chỉ thực sự được
bắt đầu sau sự kiện trọng đại này. Cũng chính vì vậy,
truyền thống nguyên thủy đã ghi sự kiện đản sanh và thành
đạo của Ngài cùng chung một ngày, đó là ngày trăng tròn
tháng Vesakha. Giờ chúng ta hãy cùng quay về ôn lại sự kiện
chứng ngộ lịch sử này.
Sau
đêm vượt thành lịch sử, thái tử Siddhattha đã từ giã
đời sống hệ lụy và bắt đầu dấn thân vào con đường
tầm sư học đạo. Trước tiên, Ngài tìm đến đạo sư Ālāra
Kālāma và học đạo với vị này, nhưng rồi Ngài đã bỏ
đi khi nhận thấy rằng đạo quả Vô sở hữu xứ của giáo
phái này không đem đến cho mình sự yểm ly, ly tham, đoạn
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Sau đó
Ngài lại tìm đến học đạo với đạo sư Uddaka Rāmaputta.
Giáo lý của vị này hướng hành giả đến sở đắc Phi tưởng
phi phi tưởng xứ, và thái tử Siddhattha đã đạt đến sở
đắc đó, ngang bằng với vị đạo sư lãnh đạo. Nhưng dù
đắc được thiền chứng Phi tưởng phi phi phi tưởng xứ
và được mời ở lại lãnh đạo giáo phái, Ngài vẫn một
mực từ chối vì mục đích của Ngài là mong muốn đạt đến
giải thoát khổ đau thật sự chứ không phải tìm đến địa
vị lãnh đạo hội chúng.
Sau
đó, Ngài lại lên đường tìm đến Uruvelā; và tại đây,
Ngài dừng chân hành trì khổ hạnh với những pháp môn khổ
hạnh khốc liệt, như nhịn ăn, nằm giường gai, không tắm
rửa… Trong kinh Đại Sư Tử Hống, Trung Bộ I, đức Phật
đã mô tả rất nhiều phương pháp tu tập khổ hạnh mà Ngài
đã kinh qua, và đây là kết quả của việc tu tập khổ hạnh:
“Vì ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những ngọn cỏ
hay như những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, bàn trôn
của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá
ít, các xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi
banh. Vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống
như rui cột nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi
của Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như
ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm
sâu. Vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nheo khô cằn
như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị
cơn gió nóng làm cho nhăn nheo khô cằn. Này Sariputta, nếu Ta
nghĩ: ‘Ta sờ vào bụng’ chính da xương sống Ta bị nắm
lấy. Nếu Ta nghĩ: ‘Ta hãy sờ xương sống’ thì chính da
bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Sariputta, da
bụng của Ta bám chặt xương sống. Này Sariputta, nếu Ta nghĩ:
‘Ta đi đại tiện hay tiểu tiện’ thì Ta ngã quỵ úp xuống
đất, vì Ta ăn quá ít. Này Sariputta, nếu Ta muốn thoa dịu
thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Sariputta, trong khi
Ta lấy tay xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi
thân Ta, vì Ta ăn quá ít.”
Nhưng
với tất cả những phương pháp đưa đến sự kiệt quệ
thân xác như vậy, Ngài vẫn không thể đạt đến chân lý
cứu cánh tối thượng. Vì thế, Ngài đã phá bỏ đời sống
khổ hạnh và bắt đầu một đời sống mới bằng bát cơm
trộn sữa. Sau bát cơm này, cơ thể của Ngài trở nên dễ
chịu và tinh thần sảng khoái. Rồi Ngài nhớ lại sự kiện
lúc còn thơ ấu, khi Ngài cùng phụ vương ra đồng làm lễ
hạ điền, ngồi một mình dưới cây hồng táo, Ngài đã thể
nhập được trạng thái ly dục, ly bất thiện pháp, một trạng
thái thiền định. Suy nghĩ với phương pháp này có thể đưa
đến giác ngộ, Ngài đã bắt đầu ngồi tư duy thiền định
dưới cội Bồ-đề, và sau 49 ngày đêm tham thiền, vào đêm
cuối cùng, lúc sao mai vừa mọc, Ngài đạt được Tam minh
và chứng đắc tuệ giác vô thượng.
Sự
kiện giác ngộ của Ngài đã được kinh diễn tả tuần tự
từ việc Ngài thể nhập vào Sơ thiền cho đến Tứ thiền
và sau đó hướng tâm đến Tam minh. Trước tiên, Ngài hướng
tâm đến Túc mạng minh: Thấy rõ vô lượng những kiếp sống
trước đây của mình. Sau đó hướng tâm đến Thiên nhãn
minh: Thấy biết tất cả những kiếp sống của chúng sanh
với những hành nghiệp tạo tác của họ. Và sau cùng, Ngài
hướng tâm đến Lậu tận minh: Đoạn trừ tất cả mọi phiền
não, lậu hoặc. Đến đây, màn vô minh được vén lên, trí
tuệ bừng sáng và Ngài chứng đắc được đạo quả giải
thoát tối hậu.
Sự
kiện chứng ngộ của Ngài được gọi là Thành đạo. Sau
khi Thành đạo, đức Phật đã bắt đầu khởi hành thuyết
pháp, từ đây Tăng đoàn được hình thành, và cũng là thời
điểm khởi đầu cho việc ra đời của một tôn giáo mới
– Phật giáo.
Sự
kiện thành đạo của đức Phật đã mở ra một trào lưu
tư tưởng mới. Với học thuyết Duyên khởi vô ngã, Ngài
đã phá bỏ quan điểm hữu thần cố hữu của Bà-la-môn giáo
và các giáo phái khác, cũng như phá bỏ quan niệm về một
Tiểu ngã (Atman) thường hằng và một Phạm thiên (Brahman)
toàn năng vĩnh cữu. Ngài không đưa ra một giáo thuyết hướng
con người đến chỗ siêu hình, hay việc phục tùng tôn thờ
một Thượng đế nào đó mà Ngài chú trọng vào đời sống
nhân sinh, dựa trên việc khảo sát tâm lý để tìm phương
pháp giúp nhân loại thoát khỏi nỗi đau khổ trầm luân đang
đè nặng lên họ từ vô lượng kiếp. Học thuyết của Ngài
là những gì mới mẽ, khác hẳn với quan niệm của các giáo
phái đương thời và cả về sau này, như Ngài đã nói: “Khai
mở ra những gì chưa được khai mở.” Ta hãy xem Radhakrishnan
nhận định về học thuyết của đức Phật: “Nếu luân
lý học lại lập cước trên đám cát biến chuyển của siêu
hình hay thần học thì nó không có một sự tôn nghiêm vững
chắc. Phật muốn xây dựng luận lý tôn nghiêm trên tảng
đá của thực nghiệm tâm lý. Nguyên thủy Phật giáo tương
tự như chủ nghĩa thực tiễn, cố chuyển dịch trung tâm điểm
từ sự phụng sự Thượng đế sang phụng sự con người.
Đức Phật không nhiệt thành về sự việc xây dựng một
biểu đồ mới về vũ trụ mà chú trọng vào việc giảng
dạy một ý nghĩa mới về bổn phận. Chính ưu điểm của
Phật là mở đường cho một tôn giáo biệt lập với tín
điều và giáo hội, nghi lễ và thánh hóa. Ngài chỉ nhấn
mạnh vào sự hóa thành tâm hồn từ bên trong và vào một
hệ thống tự tu đạo. Ngài chứng minh rằng sự cứu rỗi
không ở tại sự thu nhận một mớ tín điều đáng nghi ngờ
hay là những việc làm đen tối để làm nguôi lòng một Thượng
đế biết giận dữ. Sự cứu rỗi cốt ở sự tu sửa tính
cách và sùng tín điều lành. Luật pháp luân lý không phải
là một phát minh may mắn của một tinh thần đặc biệt, hay
tín điều của một thiên khải đáng ngờ, nó là một biểu
thị tất nhiên của sự thật về sự vật. Theo Phật, mê
muội về sự thật ấy là nguyên nhân của khổ đau.” (Indian
philosophy, tr. 358).
Sự
kiện Thành đạo của Ngài còn đưa ra một phương pháp tu
tập chân chính, một lối sống thích hợp cho những ai muốn
tìm đến một đời sống quân bình giữa thể xác và tinh
thần. Phương pháp ấy thoát ra khỏi hai hình thái cực đoan
là hưởng thọ dục lạc và hành trì ép xác, hai phương pháp
mà hầu hết mọi giáo phái bấy giờ đang ứng dụng. Chính
kinh nghiệm của Ngài khi còn sống đời vương giả và sáu
năm hành trì khổ hạnh đã minh chứng sống động cho lời
nói của Ngài. Ngài nhận thấy rằng thọ hưởng dục lạc
đem lại cho con người tham đắm và sa đọa, còn hành trì
khổ hạnh đem đến cho con người kiệt quệ thể chất cũng
như tinh thần. Từ bỏ hai lối sống đó, Ngài chủ trương
một lối sống mới, đó là lối sống Trung đạo. Và lối
sống này đã trở thành một điểm giáo lý quan trọng của
Ngài khi Ngài còn tại thế cũng như được triển khai sâu
rộng theo nhiều khía cạnh về sau này.
Sự
kiện Thành đạo của Ngài còn đem lại niềm tin cho con người
về khả năng của mình. Đó là khả năng có thể đoạn trừ
phiền não khổ đau để chứng ngộ Niết-bàn. Ta biết rằng
sự kiện thành đạo của Ngài không phải là một sự mặc
khải nào đó, mà là một quá trình nỗ lực đoạn trừ vô
minh phiền não, vượt qua tất cả những tham dục để khai
mở trí tuệ, một trí tuệ vượt ra khỏi những tri thức
thường tình của thế gian. Như vậy, sự kiện Thành đạo
của Ngài cho chúng ta thấy rằng thái độ rụt rè và bám
víu tìm cầu sự cứu rỗi ở các đấng thần linh là điều
không cần thiết. Vì rằng tất cả mọi người đều có khả
năng giác ngộ như nhau, sự khác biệt về giai cấp, chủng
tộc, màu da… chỉ là quan niệm do con người tạo ra, và như
Ngài đã từng nói: “Không có giai cấp trong con người có
máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”.
Đã
hơn hai mươi lăm thế kỷ trôi qua từ sau sự kiện Thành đạo
của đức Thế Tôn, nhưng giáo thuyết được nói ra từ sở
chứng của Ngài ngày nay vẫn hiện hữu và tỏa sáng khắp
mọi phương trời, vẫn mãi là liều thuốc hữu ích trong việc
đoạn trừ khổ đau và đem lại hòa bình cho nhân loại. Kỷ
niệm sự kiện Thành đạo của Ngài, chúng ta vô cùng tri ân
những giá trị cao cả mà Ngài đã đem đến cho nhân loại
trong hơn 25 thế kỷ qua, và những giá trị đó sẽ là chất
liệu làm thăng hoa đời sống thể chất và tinh thần cho những
ai biết ứng dụng nó vào trong đời sống của mình.
Thích
Huệ Thành
Người
gửi bài: Tâm Minh
Discussion about this post