TẦM NHÌN XUYÊN SUỐT VỀ GIÁO LÝ PHẬT
HT. Thích Trí Quảng
nay mang tính chất xuyên suốt, không phải giáo lý Nguyên thủy riêng, giáo lý
Đại thừa riêng.
Thật vậy, Phật dạy chúng ta chân lý là cuộc sống của con người
luôn phát triển thì trí tuệ của chúng ta cũng phát triển theo mới làm cho Phật
giáo tồn tại. Nếu chúng ta cố chấp rằng tông phái mình nhất dẫn đến tình trạng
chê trách nhau thì Phật giáo sẽ bị suy yếu.
May mắn là đất nước chúng ta độc lập thống nhất và
Giáo hội chúng ta cũng thống nhất. Vì vậy, từ Đại hội Phật giáo toàn quốc năm
1981 cho đến nay Đại hội Phật giáo kỳ VII đã trải qua trên 35 năm, chúng ta vẫn
sống chung hài hòa trong ngôi nhà Phật pháp. Đó là nét đẹp nhất của Phật giáo
Việt Nam mà cộng đồng Phật giáo thế giới cũng công nhận nét son này. Thật vậy,
trong các kỳ hội nghị Phật giáo thế giới, tôi đã gặp các vị cao tăng của các
nước đều khen ngợi rằng chỉ ở Việt Nam mới có một Giáo hội và phải nói rằng
Giáo hội chúng ta đã kế thừa từ Phật giáo Nguyên thủy cho đến Phật giáo Phát
triển và Phật giáo Đại thừa. Điều đặc biệt hơn nữa, Phật giáo Đại thừa Việt Nam
mang tính chất Việt Nam mới có sinh hoạt đạo pháp gắn liền với dân tộc, hay đạo
Phật phục vụ dân tộc. Tại sao được như vậy. Vì chúng ta nhận thấy rõ đạo Phật
Việt Nam đã thể hiện lòng từ bi một cách sâu sắc qua việc làm vô cùng quan
trọng là cứu nước và cứu dân. Lịch sử Phật giáo thời Lý, Trần đã nói lên nét
đẹp nhất của sự gắn liền đạo Phật với dân tộc. Thiết nghĩ chúng ta cần triển
khai cốt lõi này rõ hơn để ứng dụng vào sinh hoạt của Phật giáo chúng ta trong
hiện tại.
Tôi được Giáo hội giao trách nhiệm nghiên cứu Phật
giáo để tư vấn cho Hội đồng Trị sự, tôi có cái nhìn xuyên suốt từ thời Phật tại
thế cho đến ngày nay tạo thành một dòng chảy duy nhất là ĐẠO PHẬT TRÍ TUỆ. Ai
nghĩ tu cách này đúng, cách khác sai là phạm sai lầm. Chỉ có một con đường duy
nhất từ con người tiến lên thành Phật gọi là Phật thừa, không có con đường nào
khác. Vì Phật khẳng định rằng Ngài đã thành Phật và chúng ta tu theo Ngài cũng
sẽ thành Phật. Tuy nhiên, bước đường tu của chúng ta có khác nhau vì hoàn cảnh
của từng người khác nhau, điểm này Phật gọi là nghiệp của chúng sanh không đồng
nhau, cho nên phải áp dụng pháp tu khác nhau, ví như mọi người có bệnh khác
nhau thì phải sử dụng thuốc khác nhau. Và thuốc hay pháp để chữa lành bệnh
nghiệp của chúng ta, nhưng khi chữa lành rồi thì có sức khỏe giống nhau.
Khởi đầu Phật thuyết pháp độ
năm anh em Kiều Trần Như, kế đến độ một ngàn đệ tử ngoại đạo do ba anh em Ca
Diếp lãnh đạo. Sau đó, Phật độ hai trăm ngoại đạo thờ thần lửa do Xá Lợi Phất
và Mục Kiền Liên dẫn tới. Tổng cộng một ngàn hai trăm vị này từ ngoại đạo đến
với Phật, Ngài đã chuyển họ từ niềm tin mù quáng sang tu học theo Phật đạo, nói
cách khác là Phật chuyển hóa sai lầm của họ, chuyển họ trở thành tu sĩ gồm có
Thanh văn, Duyên giác là hàng nhị thừa. Phật giáo Nguyên thủy phát xuất từ gốc
này. Theo ngoại đạo tu không đạt kết quả, nhưng theo Phật tu Bát chánh đạo, họ
liền chứng Niết-bàn.
Pháp căn bản là Tứ Thánh đế dùng chữa tất cả bệnh
của chúng sanh để cuối cùng chúng ta xa rời chấp trước pháp này pháp nọ thì
chứng được Niết-bàn. Trên bước đường tu, Phật dạy tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phải
xóa bỏ vọng tưởng điên đảo. Còn ở thế gian, kẹt tiền tài, danh vọng, địa vị làm
khổ chúng ta và theo ngoại đạo cũng bị sự chấp trước ràng buộc. Theo Phật dùng
Tứ Thánh đế xóa sạch tâm chấp trước để tâm chúng ta trống không. Vì vậy, Phật
dạy Tỳ-kheo tu Thiền Tứ niệm xứ, đó là giáo pháp căn bản trong đạo Phật. Tu
theo Phật phải thực tập pháp này, cuối cùng chúng ta không kẹt bốn việc. Việc
thứ nhất là kẹt vào sự chấp thân này làm chúng ta khổ. Ngoài ra, mối quan hệ
giữa ta và người, giữa người và người cũng làm chúng ta khổ. Thí dụ có người
tặng quà, chúng ta phải mang ơn, có người mời ăn, ta phải mời lại, nếu không
thì mang nợ. Điều này Phật dạy rằng thọ là khổ, nên cắt bớt quan hệ để được
giải thoát. Tuân thủ lời Phật dạy, tôi không quan hệ và cố tránh thọ lãnh bất
cứ cái gì của ai, vì sợ mang ơn. Nhưng chúng ta còn mang ơn đàn na thí chủ cho
chúng ta thực phẩm để sống. Đối với việc này, Phật dạy người tu sống tam thường
bất túc, cắt bớt được thứ gì là cắt, thọ nhiều khổ nhiều, thọ ít khổ ít, không
thọ không khổ. Tỳ-kheo bớt ăn mặc để không khổ.
Ngoài ra, trong mối quan hệ giữa ta với người, khi
họ hứa điều gì nhưng không giữ lời khiến ta buồn. Chúng ta nên quán chiếu rằng
giờ trước họ hứa vì thấy cái tốt của chúng ta, nhưng thời gian và không gian
đổi khác, tâm lý họ theo đó thay đổi, thấy cái xấu của chúng ta nên họ không
làm như đã hứa. Đối trước sự thay đổi của người khác, chúng ta nhớ lời Phật dạy
rằng tâm con người là vô thường, nghĩa là sự thay đổi là điều bình thường, nên
chúng ta không buồn giận.
Cuối cùng, Tỳ-kheo quán các pháp là vô ngã, tức
các pháp đều hoàn không, thấy ngã không, pháp không, vì thân chúng ta không có
thực và pháp cũng không thực. Tỳ-kheo quán sự vật là Không, không có gì tồn
tại, nên được giải thoát, xóa được phiền não trần lao nghiệp chướng. Đạt được
kết quả như vậy là hết bệnh thì không uống thuốc nữa. Thật vậy, sử dụng pháp Tứ
Thánh đế chứng được Bát chánh đạo, tức thấy chính xác và dùng chánh kiến này
thấy người có bệnh thì ta tùy bệnh mà cho thuốc, người không bệnh, chúng ta
không cho thuốc. Thể hiện lý này, Duy Ma bảo Mục Kiền Liên rằng phải thấy bệnh
mới cho thuốc, còn ông bốc thuốc gia truyền là sai, bệnh không hết còn nặng
thêm. Vì những thanh thiếu niên dòng Da Xá có mục tiêu lớn, muốn làm việc lớn,
nhưng ông lại đem pháp Tiểu thừa dạy họ, bảo họ không được làm gì cả, chỉ khất
thực thì làm sao họ chấp nhận. Đức Phật không phải gặp ai cũng khuyên tu. Người
tu không được, Phật không cho đi tu. Khi Phật thuyết pháp ở Lộc Uyển, năm mươi
thanh niên dòng Da Xá nghe pháp xong, họ xin xuất gia và được Phật chấp nhận.
Nhưng sau đó, cha mẹ vợ con của họ xin xuất gia, Phật không cho, vì với trí
tuệ, Ngài thấy họ tu tại gia sẽ cứu đời giúp người tốt hơn. Bồ-tát tạng từ đây
ra đời. Sinh hoạt của một Tỳ-kheo bị hạn chế nhiều mặt, không thể làm nhiều
việc, trong khi sinh hoạt của cư sĩ rộng hơn, họ được làm quan, làm tướng, làm
vua, hay kinh doanh, v.v… Bồ-tát thừa và Thanh văn thừa dành cho hai hạng người
khác nhau ở hai hoàn cảnh khác nhau. Đối với người xuất gia, nếu không tuân thủ
hạnh đầu đà là sai. Còn giới tại gia mà không thực hiện hạnh Đại thừa là sai.
Sau Phật Niết-bàn, Ngài di huấn
chúng ta rằng đệ tử Phật phải lấy trí tuệ làm thầy, vì Như Lai suy nghĩ, nói và
làm đều do trí tuệ chỉ đạo. Đệ tử Phật lấy trí tuệ làm thầy thì trí tuệ riêng
của một người chưa đủ, phải là trí tuệ tập thể của chư Tăng hòa hợp. Vì vậy,
Phật dạy mọi việc phải do chư Tăng quyết định chung. Ngày nay, Giáo hội chúng
ta với trí tuệ tập thể đã xây dựng Hiến chương và có những quyết định thay đổi
những điều khoản trong Hiến chương cho thích hợp với sinh hoạt hiện đại. Điển
hình là Đại hội Phật giáo kỳ VII đã đưa ra những quyết định quan trọng là Hòa
thượng trên 80 tuổi không được tham gia vào Hội đồng Trị sự, chỉ được suy tôn
vào Hội đồng Chứng minh, vì sức khỏe bị giới hạn nên khó có thể điều hành công
việc của lãnh đạo. Chúng ta có sự thay đổi như vậy, vì Giáo hội từ khi thành
lập đến nay đã hơn 35 năm thì những người sáng lập đều trên 70 tuổi, 80 tuổi.
Tôi trẻ nhất nhưng cũng đã 76 tuổi. Sự thay đổi thứ hai là một người lãnh đạo
không quá hai nhiệm kỳ. Nếu làm mãi thì lớp sau làm sao lên được. Điều thứ ba
là Hiến chương như thế, nhưng mỗi năm hoàn cảnh đất nước thay đổi, luật pháp
bên ngoài xã hội cũng thay đổi. Chúng ta cố giữ cái cũ sẽ bị lạc hậu. Vì vậy, Giáo
hội có thay đổi hàng năm, hay sáu tháng có sự thay đổi, tức đầu tháng 7 tới,
Hội nghị thường trực Trung ương Giáo hội xem có gì cần thay đổi cho sáu tháng
cuối năm thì sẽ ra nghị quyết cho sáu tháng cuối năm.
Thực hiện lời di huấn của Phật, chúng ta tôn trọng trí tuệ tập thể,
không phải cố chấp giữ những gì của hơn hai ngàn năm trước, vì xã hội đi lên,
ta phải đi lên. Chúng ta thấy xuyên suốt từ thời Phật tại thế cho đến thời Phật
giáo Nguyên thủy và tiến đến Phật giáo Đại thừa, thấy đó là một dòng thác trí
tuệ đã nuôi dưỡng mạng mạch Phật pháp trường tồn hơn 25 thế kỷ trên khắp năm
châu bốn biển. Tôi mong rằng quý vị thâm nhập dòng thác trí tuệ này để chúng ta
hành đạo được tự tại giải thoát. Cầu nguyện Phật gia hộ cho quý vị an lành trên
bước đường hành Bồ-tát hạnh.
HT.Thích Trí Quảng
Discussion about this post