QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ TÍNH DỤC, HÔN NHÂN VÀ ĐỒNG TÍNH
Damien Keown-Gia Quốc (dịch)
Giáo
lý Phật giáo nhìn sự sinh như là việc bắt đầu của một
vòng luân hồi khác. Phật giáo không xem sự phát sinh đời
sống mới như là một sự xác thực rằng con người đang
đóng một vai trò trong kế hoạch thiêng liêng, mà là một
hành động sai lầm trong tiến trình ngộ nhập Niết bàn.
Điều
đó không có nghĩa là người Phật tử xem việc một đứa
trẻ chào đời là nguyên nhân của khổ đau, mà ngược lại.
Vì mục đích của lời Phật dạy là không tìm kiếm sự sinh,
mà là chấm dứt nó.
Tính
dục là lĩnh vực mà giữa Phật giáo và Cơ Đốc giáo, nếu
thoạt nhìn, dường như có những điểm khác biệt khá lớn,
nhưng nếu xem xét kỹ hơn – như trường hợp sinh thái học
– hóa ra lại có những điểm chung hơn so với những nhận
định trước đó. Cơ Đốc giáo thường được nhìn nhận
là cấm hẳn vấn đề tính dục và quan tâm sâu sắc đến
sự trinh tiết cũng như đời sống không tình dục, trong khi
Phật giáo được xem là linh động và ít chú trọng hơn về
lĩnh vực này. Nghệ thuật ái tình của Tây Tạng, mà nay đã
quen thuộc với phương Tây, cùng với vô số các loại sách
phổ biến về tính ái (Tantric sex) cũng chỉ góp thêm ấn tượng
rằng Phật giáo có một sự “giải phóng” nhiều hơn trong
quan điểm về đạo đức tính dục.
Người
phương Tây theo đạo Phật với hy vọng tìm kiếm sự tán
thành thái độ phóng thoáng về “tự do tính dục”, song
dường như họ đang thất vọng. Ngược lại với niềm tin
của quần chúng, Phật giáo thường thận trọng khi bàn về
vấn đề tính dục, và những xã hội Phật giáo truyền thống
có xu hướng e ngại, thậm chí cả thẹn khi bàn về vấn đề
này. Hầu hết những tu sĩ Phật giáo ngượng ngùng khi bàn
đến vấn đề tình dục và sinh sản, đặc biệt với nữ
giới, và do quan điểm chậm thay đổi, nên vấn đề trên
vẫn thuộc đề tài cấm kỵ. Giới luật hàm chứa các điều
khoản cấm các Tỳ kheo nói chuyện với người nữ về những
vấn đề mang tính khiêu dâm hay tình dục, và có thể được
hiểu rằng, bàn luận những vấn đề về tình dục một cách
công khai là hết sức “mạo hiểm”. Mặc dù trường phái
Tantric có hưng thịnh hay suy thoái theo lịch sử, thì nghệ
thuật tình ái mà họ đã tạo dựng chỉ với mục đích chính
là chuyển tải những ý nghĩa triết học và giáo lý tôn giáo
hơn là dùng cho các nghi lễ liên quan đến tính dục. Mặc
dù vậy, những ý tưởng này chỉ là thứ yếu, nó vẫn còn
mắc kẹt trong tiến trình lịch sử Phật giáo.
Cũng
có thể hữu ích khi khám phá quan điểm ban đầu của Cơ Đốc
giáo. Cho dù những quan điểm hiện nay đã thay đổi nhiều
và Cơ Đốc giáo bây giờ có những quan điểm khác xa so với
thời kỳ đầu, nhưng những quan điểm truyền thống về vấn
đề tính dục chắc chắn phải liên quan đến vấn đề sinh
sản, và vấn đề sinh sản thì tất nhiên là tốt và đáng
mong chờ. Trong Cựu ước, Thượng đế nhấn mạnh đến một
ước muốn sáng tạo của Ngài rằng: “Hãy sinh sôi nảy
nở thật nhiều…” (Sáng thế ký 1.22). Trong con mắt của
Thánh kinh Cựu ước, việc tạo ra kẻ nối dõi là việc làm
có giá trị, duy trì tình trạng không vợ chồng là đáng xấu
hổ. Trong quá trình tạo ra kẻ nối dõi, đấng sinh thành được
xem là đang thực hiện một phần trong công việc sáng tạo
của Thượng đế. Cho dù Thượng đế là tác giả đầu tiên
của sự sống, thì những đôi cha mẹ có kết hôn đang hợp
tác cùng Ngài truyền lại món quà thiêng liêng này. Tầm quan
trọng của vai trò đó dẫn tới việc hình thành nguyên tắc
pháp luật và xã hội cho vấn đề này, đó là kết hôn, được
trao truyền thánh thể và lễ cưới được tổ chức trong
nhà thờ.
Nhận
xét của Phật giáo về vấn đề tính dục có sự khác biệt
ngay từ quan điểm đầu tiên. Giáo lý Phật giáo nhấn mạnh
không bắt buộc việc truyền lại giống nòi, hay đúng hơn
là dấu hiệu của món quà thiêng liêng. Học thuyết Phật
giáo nhìn sự sinh là việc bắt đầu của một vòng luân hồi
khác. Giáo lý Phật giáo không xem sự phát sinh đời sống
mới như là một sự xác thực rằng con người đang đóng
một vai trò trong kế hoạch thiêng liêng mà là một hành động
sai lầm trong tiến trình ngộ nhập Niết bàn. Điều đó không
có nghĩa là người Phật tử xem việc một đứa trẻ chào
đời là nguyên nhân của khổ đau, mà ngược lại, điều
đó còn được hân hoan ca tụng, chỉ trong lĩnh vực triết
học, mục đích của lời Phật dạy là không tìm kiếm sự
sinh, mà là chấm dứt nó.
Tuy
nhiên, để cân bằng vấn đề này, có một viễn cảnh thích
hợp mà từ đó sự sinh được nhìn nhận như là một sự
kiện lạc quan. Rằng đạt được sự “tái sinh làm người
là quý” là một điều đáng mừng, bởi vì theo giáo lý truyền
thống, tái sinh làm người là một cơ hội thuận lợi cho
tiến trình ngộ nhập Niết bàn. Hơn nữa, tái sinh không cần
thiết phải nhìn như là một khâu trong chuỗi luân hồi và
thay vào đó, có thể được khái niệm hóa như là một cơ
hội vĩ đại để tăng trưởng tâm linh: bằng cách này, cho
dù tái sinh, thì cũng xem nó là cơ hội tăng trưởng và mục
đích Niết bàn càng gần hơn.
Những
sự nguy hiểm của tham dục
Theo
lời Phật dạy, như trong đoạn trích dẫn ở dưới, Phật
giáo nhìn chung có thái độ dè dặt khi đối diện với vấn
đề tính dục. Bởi vì, Phật giáo có truyền thống khắc
kỷ với quan điểm kiểm soát tham dục và sự ham muốn là
điều kiện tiên quyết để tăng trưởng đạo đức. Chân
lý thứ hai trong Tứ đế dạy rằng, nguyên nhân của khổ
là do tham đắm. Trong đó, tham dục là một trong những tham
đắm mạnh mẽ nhất, và tham dục cũng biểu thị cho sự trở
ngại lớn nhất trên bước đường giải thoát. Đức Phật
dạy, Ngài không thấy một sức mạnh nào khuất phục được
tâm trí đàn ông bằng hình dáng của phụ nữ. Có thể đó
là nguyên nhân mà Ngài khuyên A Nan rằng một Tỳ kheo nên đối
xử với phái nữ như thế nào:
Lời
dạy như thế có thể được xem là bằng chứng không chỉ
“không ưa” phụ nữ hiện rõ trong Phật giáo (mặc dù điều
này thường chẳng có gì làm bằng cớ) mà còn là sự nhận
thức mối nguy hiểm do tham dục tạo ra đối với các thành
viên của cộng đồng Tăng. Vị Tỳ kheo có thể tiếp xúc
với phái nữ hàng ngày ở trong làng khi họ đi khất thực,
nhận vật phẩm do họ cúng dường, và Đức Phật cũng nhận
thức rất rõ rằng sức hút giữa họ bùng lên dễ dàng như
thế nào. Ngài cũng chỉ ra những điểm tương tự của tham
dục khởi lên từ người nữ và cũng cảnh báo sự nguy hiểm
của cảm giác tham đắm đàn ông của phái nữ.
Cho
dù phái nữ được cho là con rắn Maya, thì điều đó không
chỉ ra rằng chính phái nữ hay phái nam là nguyên nhân cơ bản,
mà chính sự tham đắm tình dục khởi lên khi có sự cận
kề của hai người khác giới, đẩy cả hai vào vòng luân
hồi. Sự nghi ngờ về tình dục không chỉ dành riêng cho Phật
giáo mà điều tương tự cũng xuất hiện trong trường phái
khắc kỷ của Cơ Đốc giáo, một số tôn giáo và triết lý
khác. Họ cho rằng, phương cách giải quyết là chinh phục
sự tham đắm.
Kết
hôn
Với
những ai không thể thích nghi được với đời sống tu hành
khắc khổ thì họ sống đời sống vợ chồng. Trong Phật
giáo, tình trạng hôn nhân, về cơ bản là sự kết giao thế
tục của đôi bên, và đôi vợ chồng phải có bổn phận
đối với nhau. Kết hôn không là một việc thiêng liêng, và
các Tỳ kheo không được tham dự các lễ cưới. Họ cũng
bị cấm, theo giới luật, không được mai mối cho hai người
kết thành vợ chồng. Tuy nhiên, theo phong tục cưới hỏi hiện
nay, đôi vợ chồng thường đến các tu viện sau lễ cưới
để được chúc phúc và thực hiện một buổi lễ đơn giản
trong lời kinh nguyện cầu. Một bản kinh nguyên thủy trong
Kinh tạng Pàli – Sigalovada Sutta – tóm lược bổn phận của
người chồng và vợ như sau:
– Năm
bổn phận của chồng đối với vợ: Tôn trọng nhau; lịch
sự, nhã nhặn với nhau; chung thủy; trao cho vợ quyền hành
(trong gia đình); cung cấp cho vợ những vật trang sức cần
thiết.
– Năm
bổn phận của vợ đối với chồng: Thể hiện tốt trách
nhiệm của mình đối với chồng; biểu hiện lòng mến khách
đối với dòng dõi giữa 2 gia đình; chung thủy; giữ gìn tài
sản của chồng; khéo léo và linh động thực hiện các việc
kinh doanh.
Khi
chế độ một vợ một chồng được khuyến khích và là mô
hình chiếm ưu thế, nhiều sự thay đổi trong các hình thức
cưới hỏi tại các địa phương đã diễn ra đối với Phật
giáo trên khắp thế giới. Nhiều bản văn xưa kể về sự
đa dạng của những cuộc (hôn nhân do) sắp đặt tạm thời
hay lâu dài đi sâu vào cả hai nguyên nhân tình cảm và kinh
tế; và ở những khu vực khác nhau của Phật giáo Á châu,
chế độ đa thê hay đa phu đã từng (và hiện vẫn còn) tồn
tại.
Hình
thức đa dạng trong các cuộc hôn nhân sắp đặt trong các
cộng đồng Phật giáo chứng tỏ văn hóa địa phương có
tác động mạnh hơn pháp Phật, và những vấn đề đó về
cơ bản được xem là trách nhiệm của quyền uy thế tục.
Phật giáo tự mình không đề ra bất cứ hình thức nghi lễ
kết hôn nào và cũng chẳng có một “văn phòng” dịch vụ
kết hôn Phật giáo. Tuy nhiên, Phật tử phương Tây bắt đầu
phát triển dịch vụ kết hôn theo mô hình của Cơ Đốc giáo,
đơn giản bởi vì đám cưới ở nhà thờ là một phần quen
thuộc trong đời sống hàng ngày ở phương Tây.
Vì
kết hôn không phải là vấn đề tôn giáo, nên Phật giáo
cũng không phản đối việc ly hôn. Nhưng vì do sức ép xã
hội trong các xã hội truyền thống (phương Đông) nên chuyện
ly hôn không phổ biến như các xã hội phương Tây. Một vài
nhóm Phật tử phương Tây, như Tổ chức Thân hữu Phật tử
phương Tây, đã thử nghiệm những hình thức mới của đời
sống cộng đồng không hôn nhân để vượt qua định kiến
chỉ có gia đình hạt nhân của xứ sở này.
Một
số thành viên trong nhóm hiện sống trong cộng đồng một
giới tính và tổ chức của họ xem việc định hướng tính
dục cá nhân, chẳng hạn như đúng giới, đồng tính, chuyển
đổi giới tính…, là không quan trọng. Người ta cho rằng,
một ai đó khi họ tiến xa trên con đường tâm linh, vấn đề
tính dục sẽ được vượt qua và những khuôn mẫu giới tính
sẽ biến mất, hướng đến một loại trạng thái lưỡng
tính lý tưởng (trong một con người bao gồm cả nam lẫn nữ).
Khi
người Phật tử tại gia được tự do kết hôn và có gia
đình thì cũng có một sự cảm nhận rõ ràng rằng, trong Phật
giáo, những người Phật tử tại gia có vị trí thấp hơn
so với những tu sĩ, và nó chỉ thích hợp với những ai chưa
vượt qua sự ràng buộc với đời sống thế tục. Điều
này tương tự như lời khuyên của Thánh Paul rằng, mặc dù
đời sống trinh trắng là tối thượng, nhưng nếu không tiết
dục được, “tốt hơn hết là hãy kết hôn, vì thà kết
hôn còn hơn bị thiêu đốt” (1 Corinthians 7:9). Những người
Phật tử đã kết hôn có thể tự nguyện thực hành đời
sống không quan hệ vợ chồng trong khoảng thời gian dài hay
ngắn.
Chẳng
hạn, ở Nam Á, trong ngày lễ Bố tát, người Phật tử thuần
thành được khuyến khích kiêng cữ quan hệ vợ chồng. Cho
dù có những sự ngoại lệ, đặc biệt nhất là ở Nhật,
người Phật tử lý tưởng là người từ bỏ đời sống
gia đình, kiềm chế tham dục và sống một mình hay trong cộng
đồng độc thân. Trong lĩnh vực này, Đức Phật đã đưa
ra một khuôn mẫu hoàn thiện: năm 29 tuổi, Ngài từ bỏ đời
sống gia đình và sống độc thân suốt thời gian còn lại.
Giới
điều thứ ba
Có
rất nhiều giới điều nhằm chỉnh đốn thái độ tính dục,
đặc biệt đối với Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, mà chúng ta sẽ
bàn sau; chuẩn mực tính dục đối với người Phật tử được
khống
chế chủ yếu bởi giới thứ ba: cấm tà dâm. Từ ngữ này
còn khá mơ hồ, nó đã không định nghĩa thái độ nào cấu
thành tội “tà dâm”. Cho dù nó không xác định rõ ràng
“sự ham muốn vợ của người khác”, như giới thứ ba,
giới điều này vẫn thường được giải thích rộng rãi
trong cộng đồng Phật tử, đầu tiên và trên hết, là cấm
đoán ngoại tình.
Quan
hệ trước hôn nhân rất ít khi được nói đến, nhưng giới
điều này đã cho thấy rằng, hôn nhân là thích hợp cho hành
động tính dục. Những nguồn tư liệu ban đầu chỉ định
rõ các hạng người nữ bị ngăn gần gũi bạn tình, chẳng
hạn những mối quan hệ thân cận và những bé gái dễ tổn
thương; những nhà bình giải thời Trung cổ đã giảng rộng
điều này, bao gồm cả việc cấm đoán về thời gian, nơi
chốn và phương pháp giao hợp.
Những
giáo điều tổng quát khác cũng ngăn ngừa thái độ tình dục.
Chẳng hạn nguyên tắc Ahimsa (bất hại) yêu cầu rằng không
nên cố ý làm tổn thương tâm hồn và thể xác của người
khác, chẳng hạn, nghiêm cấm hiếp dâm, giao cấu với trẻ
em, quấy rối tình dục, loạn luân. Hơn nữa, tất cả mọi
mối quan hệ, trong đó có quan hệ tính dục, phải được
thể hiện bằng đức tính thương yêu và lòng từ bi vô hạn.
“Nguyên tắc vàng” dạy rằng: Cái gì mà mình không muốn
thì đừng làm cho người khác. Điều này đặc biệt ứng
dụng cho kẻ ngoại tình, vì người ta cho rằng, nếu như bạn
không muốn ai xâm phạm vợ mình thì bạn không nên xâm phạm
vợ người khác.
Hơn
nữa, thành phần giới cấm của Bát chánh đạo liên quan đến
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là muốn giữ gìn hạnh
kiểm, chẳng hạn yêu cầu nói đúng sự thật, trung thực,
chân thành, từ đó tránh nói dối, gian dối trong quan hệ tình
dục. Ngoại tình cũng kéo theo việc phá vỡ lời thệ nguyện
trung thành với nhau trong ngày cưới, và vì thế, điều đó
cũng bị ngăn cấm bằng những chuẩn mực hạnh kiểm cũng
như giới cấm thứ ba.
Đồng
tính luyến ái
Vấn
đề đồng tính luyến ái thổi bùng và làm nóng các cuộc
tranh luận trong rất nhiều truyền thống tôn giáo và tạo
sự chia rẽ nghiêm trọng giữa những người cấp tiến và
người vâng theo truyền thống. Giáo hội Anh giáo, với gần
80 triệu tín đồ, đã triệu tập một hội nghị mở rộng
của các nhà lãnh đạo nhà thờ ở Luân Đôn vào tháng 10
năm 2003 với nỗ lực ngăn chặn sự phân ly bằng việc chấp
nhận giám mục đồng tính ở nhà thờ Episcopal tại Mỹ. Có
những dấu hiệu cho thấy rằng những sự căng thẳng như
thế nổi lên trong Phật giáo, tuy mức độ có thấp hơn.
Chính
Đức Phật cũng không bao giờ phê phán về mặt đạo
đức đối với những hành động tình dục đồng tính.
Những nguồn tư liệu sớm nhất cho thấy rằng đồng tính
luyến ái không được bàn luận như là vấn đề đạo đức.
Tuy nhiên, có rất nhiều cuộc trao đổi về hoạt động đồng
tính luyến ái được phản ánh trong luật Tỳ kheo. Bất
cứ loại hoạt động tính dục nào, cho dù đó là đồng tính
hay khác tính, đều bị giới luật ngăn cấm và có nhiều
loại hình phạt đối với những người vi phạm. Dâm
dục là điều cấm đầu tiên trong bốn Ba la di và bất cứ
vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni nào phạm phải giới này đều bị
tẩn xuất suốt đời. Những lỗi nhẹ hơn, chẳng hạn thủ
dâm hay phạm hạnh không tốt thì hình phạt tùy theo đó cũng
sẽ nhẹ hơn.
Vấn
đề đồng tính luyến ái nổi lên rõ ràng liên quan đến
tổ chức Tăng. Những người đồng tính không được
thọ giới Tỳ kheo, trong đó bao gồm cả người ái nam ái
nữ và cả loại người mà kinh điển Pali gọi là Pandakas.
Thuật ngữ này không rõ ràng chỉ cho người nào hay
hành động nào, nhưng Peter Harvey, trong tác phẩm An Introduction
to Buddhist: Foundations, Values and Issues (Trường Đại học
Cambridge ấn hành, năm 2000), đã kết luận rằng, Pandakas chỉ
cho loại người loạn chức năng ham muốn tình dục đồng
tính nam. Còn Zwilling thì cho rằng Pandakas là loại ham muốn
xấu xa, có thể là “lệch lạc tình dục, đồng tính luyến
ái”. Hạng người đó Đức Phật không cho gia nhập Tăng
đoàn, bởi vì có thể họ sẽ làm xấu phẩm hạnh của các
thành viên khác. Sự nguy hại đó ảnh hưởng đến uy tín
của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đối với xã hội và có nguy cơ
phá vỡ đời sống Tăng vì nó cản trở tiến trình tu tập.
Tuy
nhiên, hình như không có một sự ngăn cản nào không cho những
người đồng tính tu hành, những người không làm gì thể
hiện xu hướng tình dục của họ. Đạo Phật tin rằng, giới
tính có thể thay đổi từ đời này sang đời khác và một
số Phật tử giải thích đồng tính là kết quả của giới
tính kiếp trước thể hiện trong đời sống tiện tại. Thậm
chí có những câu chuyện nói về sự thay đổi giới tính
trong đời sống hiện tại, chẳng hạn, vì nghiệp báo mà
người nam trở thành người nữ và ngược lại…; những
sự biến đổi như thế không ngăn cản tiến trình tu tập.
Xu hướng tình dục thậm chí giới cũng dễ thay đổi, do đó,
tự họ cũng mơ hồ về phẩm hạnh.
Tuy
nhiên, thời nay, có những Tỳ kheo đồng tính sống trong Tăng
đã trở thành vấn đề tranh luận. Vào tháng 7 năm 2003, Hòa
thượng Pisarn Thamapatee, một trong những vị Tỳ kheo nổi tiếng
của Thái Lan, đã cho rằng có cả nghìn vị Tỳ kheo đồng
tính trong số 300.000 Tỳ kheo trên đất nước này, tuy nhiên
nhiều người khác lại ước đoán một con số thấp hơn nhiều.
Cho dù đó là con số thực, ngài đã ra lệnh trục xuất họ
khỏi Tăng đoàn và cần phải có sự nghiêm khắc hơn đối
với các thành viên thọ giới. Ngài bộc lộ quan điểm rằng,
những người tình dục lệch lạc không được khoác pháp
phục, bởi: “Một số Tỳ kheo đồng tính là nguyên
nhân của mọi sự rắc rối trong tu viện”. Rõ ràng,
vấn đề đồng tính hiện nay trong Tăng đoàn ở một vài
quốc gia cũng tạo nên sự tranh luận không kém so với hiện
tượng tu sĩ đồng tính trong một số trường phái Cơ Đốc
giáo.
Quan
niệm của Đức Dalai Lama về vấn đề đồng tính
Trong
những bài giảng vào thập niên 1990, Đức Dalai Lama đã đưa
ra những lời tuyên bố liên quan đến những nguyên tắc tính
dục trong những bài viết của mình và trong các buổi nói
chuyện trước đám đông, điều này đã tạo nên sự quan
tâm của những người đồng tính ở Bắc Mỹ. Những người
lãnh đạo các nhóm đồng tính nam và đồng tính nữ ở vùng
San Francisco đã thỉnh cầu ngài có một buổi nói chuyện để
trình bày rõ ràng những quan điểm của ngài. Buổi nói chuyện
đã được tổ chức tại San Francisco vào ngày 11 tháng 6 năm
1997. Khi thảo luận với người đồng tính nam, người đại
diện Phật giáo – Đức Dalai Lama – xác nhận nhân phẩm
và quyền của đồng tính nam và đồng tính nữ, nhưng
ngài cũng cho rằng, sự thủ dâm hay giao hợp đường
miệng, hậu môn là không thích hợp và người tu Phật cần
phải tránh.
Theo
những bài viết đáng tin cậy được trích dẫn trước đây,
Đức Dalai Lama tuyên bố rằng bất cứ một bộ phận nào
ngoài âm đạo, như miệng, hậu môn, tay, bắp chân, đều không
được sử dụng trong giao hợp. Ngài cũng kiến nghị rằng,
một cách nhìn nhận bài trừ tính dục như thế để ghi nhận
rằng, mục đích của tính dục như quan điểm người Ấn,
là để sinh con, và cũng là điều để giải thích tại sao
tất cả những hoạt động tình dục khác không đưa đến
sinh con thì đều bị bài trừ. Tuy nhiên, ngài nói thêm, điều
này chỉ tốt cho những người tu Phật phát nguyện từ bỏ
mọi hành động tính dục nếu như việc ngăn chặn sự ham
muốn đó có những kết quả bất lợi, chẳng hạn như sự
nóng nảy, bạo loạn liên quan đến sự thất bại.
Đức
Dalai Lama chỉ ra rằng, những giới cấm của Phật ứng dụng
tùy vào thời gian, nền văn hóa và xã hội mà con người ở
đó tuân hành. Chẳng hạn, các vị Tỳ kheo mặc áo hoại sắc
bởi vì vào thời điểm đó, nó phù hợp với người nghèo
Ấn Độ. Ngài kiến nghị: “Nếu đồng tính luyến ái
là một phần trong các tiêu chuẩn được cộng đồng thừa
nhận, thì điều đó cũng có thể được chấp nhận. Thế
nhưng, không một cá nhân hay vị thầy nào có thể tự thay
đổi giới luật. Tôi cũng không đủ thẩm quyền tái định
nghĩa những giới điều đó bởi vì không ai có thể quyết
định hay ban hành sắc lệnh”. Ngài kết luận: “Việc
xác định lại như thế chỉ được quyết định trong một
hội nghị Tăng già với sự có mặt của tất cả các trường
phái Phật giáo. Điều này không phải chưa từng có trong lịch
sử Phật giáo khi muốn xác định lại một vấn đề, nhưng
nó phải được thực hiện ở cấp độ tập thể”.
Ngài nói thêm, điều đó thật hữu ích để nghiên cứu sâu
hơn nguồn gốc của giới luật về đề tài tính dục.
Damien
Keown
Gia
Quốc (dịch)
(Nguyệt
san Giác Ngộ)
Discussion about this post