PhatPhapVoBien.com. Phật Pháp Vô Biên
ĐỨC PHẬT - KINH PHẬT - LỜI PHẬT DẠY
No Result
View All Result
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Tịnh Độ
  • Kim Cương thừa
  • Thiền
  • Pháp Luận
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Tri thức và Phật pháp
No Result
View All Result

Những câu hỏi tế vi

2k
VIEWS
Chia sẻ trên FacebookChia sẻ trên Twitter

Mục lục

  1. “Cái là, cái đang là” chính là hoa nở, chim hót; là sự sống, là “sinh thể của mọi tồn thể”. Là “cái là”, là “cái đang là” của mọi hữu tồn duyên khởi sinh diệt.
  2. 2- Về tâm cùng tu với tuệ:
  3. Nguyên văn Việt dịch cụm từ này được tìm thấy trong kinh Đại Bát Niết-bàn của Nikāya: “Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định cùng tu với giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với định đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”.
  4. Giới thì ai cũng hiểu rồi nhưng định đây phải là chánh định như lập ngôn của đức Phật để so sánh nó khác xa với định của Bà-la-môn giáo, ấy là “ly dục, ly ác pháp” (Đức Đại Bồ-tát đã từ bỏ hai tầng định cao nhất là Vô sở hữu xú và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Vậy thì chánh định là định không dính mắc, không chấp thủ dù an trú tầng thiền nào. Rồi sử dụng định ấy (thường là cận hành định) để minh sát ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi – được gọi là cùng tu với tuệ. Còn tâm cùng tu với tuệ là muốn nói cái tâm đã đã yên lặng mọi tham ưu do chánh định mà có (kinh gọi là bát giải thoát tâm) để cùng tu với tuệ thì giải thoát hoàn toàn mọi lậu hoặc. Nói cách khác, giải thoát tâm là giải thoát phiền não chướng, giải thoát tuệ là giải thoát sở tri chướng.
  5. 3- Về pháp hữu vi:
  6. 4- Về tư niệm thực:
  7. Tư niệm thực là một trong 4 loại thức ăn. Do tôi thấy nhiều nơi giảng giải 4 loại thức ăn này không được rõ ràng hoặc chỉ nói cái phần ngọn hơi xa gốc nên tiện đây tôi ghi ra theo Abhidhamma.

Trả lời:

Nội dung email của cư sĩ tôi có thể tóm tắt thành 4 ý chính:

– Về “sati”  và “hoti” .

– Tâm cùng tu với tuệ

– Về pháp hữu vi

– Về tư niệm thực

Bây giờ ta đi từng câu một.

1- Về “sati”  và “hoti” .

Câu này khá phức tạp. Nó đòi hỏi trình độ học thuật, nhất là phân tích ngữ pháp Pāḷi. Do từ lâu khi đụng đến từ “sati” là người ta dịch là “niệm”, và ngay chữ niệm này người ta cũng hiểu năm bảy nghĩa khác nhau. Và từ“hoti” được dịch là là (being), là hiện hữu cũng là cách hiểu của nhiều người. Thật ra, những quyển tự điển Pāḷi-Anh thường chính xác hơn. Một từ Pāḷi người ta thường đưa ra nhiều nghĩa, tuỳ theo chỗ dùng, chức năng của nó đôi khi là động từ, đôi khi là danh từ – rồi họ còn dẫn nguồn tương thích.

Bây giờ, muốn hiểu cho thật chính xác, xin chị chịu khó đọc bài phân tích đúng “bài bản nhà trường” sau đây (đệ tử của tôi làm):

Imasmiṃ sati idaṃ hoti; imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.

(S 2.28)

“Khi điều này hiện hữu, điều kia hiện hữu; do sự sinh khởi của điều này, điều kia sinh khởi. Khi điều này diệt, điều kia diệt; do sự biết mất của điều này, điều kia biết  mất”.

Imasmiṃ sati idaṃ hoti

Theo các nhà ngữ pháp  Pāḷi “imasmiṃ sati”  được gọi là absolute clause [mệnh đề tuyệt đối]. Bởi vì nó hội đủ hai yếu tố: Có một participle (phân từ) “sati” và một chủ từ được chia ở locative (định sở cách)“imasmiṃ”. Mệnh đề tuyệt đối này diễn tả “khi hành động một xảy ra thì hành động hai xảy ra sau đó”.Như  vậy, câu “Imasmiṃ sati idaṃ hoti”  có  thể được dịch “khi điều này hiện hữu/sinh khởi điều kia [cũng] hiện hữu”.

Note:

– Imasmiṃ [nt.loc. sg, of ima]  =  điều này

– Sati [prp. loc. sg . of santa (√as)] =  đang hiện hữu,  đang có, đang là (hiện tại phân từ “sati” phải ở cùng tánh và số với chủ từ của nó “imasmiṃ”

– Imasmiṃ  sati [Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] = điều này hiện hữu

– Idaṃ (nt.nom. sg. of ima) = điều này, điều kia

– Hoti (3rd, sg. of √hū) = có, là, hiện hữu

– Idaṃ hoti [Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] =  điều kia hiện hữu.

– Sati  hoti [Definitive Relation = quan hệ xác định]

[nt= neutral (trung tánh); prp = present participle (hiện tại phân từ); loc = locative (định sở cách); sg = singular (số ít); nom = nominative (chủ cách)].

imass’ uppādā idaṃ uppajjati.

“Bởi vì sự sinh khởi của điều này, điều kia sinh khởi”  hay “điều này sinh khởi do sự sinh khởi của điều kia”

Note:

– Imassa [nt.gen.sg of ima] = của điều này

– Uppādā [m. abl. sg. of uppāda) = bởi sự sinh khởi, do sự sinh khởi

– Imass’ uppādā  = imassa uppādā [Possessor Relation = Liên hệ sở thuộc]  = do sự sinh khởi của điều này

– Idaṃ (nt.nom. sg. of ima) =  điều này

– Uppajjati [3rd, sg. of ud +√pad +ya + ti] = sinh khởi, được sinh ra

– Idaṃ  uppajjati [Active Subject Relation = Quan Hệ Chủ Từ trong dạng Chủ Động] =  điều kia sinh khởi

– Uppādā  uppajjati [Causality Relation = Quan Hệ Nguyên Nhân] =… sinh khởi bởi/ do sự sinh khởi….

[gen. =genitive (sở thuộc cách); abl =ablative (xuất xứ cách)]

Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati

Mệnh đề thứ hai là tương tự như trên nhưng mang nghiã ngược lại. Tức là “khi điều này diệt [biến mất], điều kia diệt [biến mất]. Do sự diệt của điều này, điều kia biến mất” 

Note:

– Asati = na sati = nghĩa phủ định của sati ở trên

– Nirodhā  (m. abl. sg.of nirodha) = do sự diệt.

– Nirujjhati (3rd,sg .of ni+√rudh + ya)=được phá hủy, biết mất, diệt.

Đoạn văn Pāḷi trên được tìm thấy trong bài kinh“dutiya-ariyasāvaka-sutta”, thuộc phẩm “gahapativagga” của Samyuṭṭanikāya. Nội dung trình bày về sự thực duyên khởi (paticasamuppada) hay tuỳ thuộc phát sanh:

Trích một đoạn:

 ‘imasmiṃ sati idaṃ hoti, imass’uppādā idaṃ uppajjati. Avijjāya sati saṅkhārā honti; saṅkhāresu sati viññāṇaṃ hoti; viññāṇe sati nāmarūpaṃ hoti; nāmarūpe sati saḷāyatanaṃ hoti; saḷāyatane sati phasso hoti; phasse sati vedanā hoti; vedanāya sati taṇhā hoti; taṇhāya sati upādānaṃ hoti; upādāne sati bhavo hoti; bhave sati jāti hoti; jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko samudayatī’ti (chiều thuận, chiều sinh khởi).

‘imasmiṃ asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati. Avijjāya asati saṅkhārā na honti; saṅkhāresu asati viññāṇaṃ na hoti; viññāṇe asati nāmarūpaṃ na hoti; nāmarūpe asati saḷāyatanaṃ na hoti … pe … jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko nirujjhatī’ti (chiều ngược, chiều diệt).

Hy vọng cư sĩ thấy “sati” và “hoti”  trong đoạn kinh văn trên mang ngữ nghĩa như thế nào rồi. Vậy “sati” ở đây được dịch theo hiện tại phân từ, có nghĩa là “đang hiện hữu, đang có, đang là” chứ không phải là “niệm” theo nghĩa thông thường. “Hoti” cũng nghĩa như vậy. Cả hai “sati” và “hoti” nằm trong thế tương lập quan hệ xác định (Xin lỗi cư sĩ, tại chỗ này tôi tự giới hạn không bàn đến hai phạm trù “có, không” vì nó phức tạp, cần một bài viết dài dòng hơn. Lại nữa, cái sâu sắc, tế vi, trẩn mật từ nguyên bổn Pāḷi mà không một chuyển ngữ nào có thể nói được chính là từ “sati” và “hoti”. Tại sao vậy? Cái đang hiện hữu, đang là, là nghĩa động, trong lúc dịch là có, “có cái này thì có cái kia” hoặc “cái này có thì cái kia có”  lại là nghĩa tĩnh? Thì làm sao nói được“cái hiện hữu ấy đang sinh khởi!” mà hành giả minh sát tuệ nào cũng đang hiện quán?)

Còn chữ “being” mà triết gia Heidegger và Bùi Giáng nói tới, nó không đơn giản là “động từ là” mà lại nói tới“thực tại đang là”, là cái “hữu thể”  đang vận hành, đang diễn tiến qua “thời thể” như đã được nêu ở trên. “Cái là, cái đang là – seiend, étant, being”  thật sự không phải dễ hiểu đối với các triết gia Tây phương kể từ thời Platon. Chữ “là”  là quá hiển nhiên, ai cũng biết, ai cũng quen, ai cũng thừa hiểu “là” là thế nào rồi, nhưng Heidegger tuyên bố ngay rằng sự việc không phải minh bạch dễ dàng như vậy đâu:“Trong thời đại của chúng ta hiện nay, chúng ta có trả lời được câu hỏi về ý nghĩa mà chúng ta hiểu thực sự về chữ là?” (cf. Sein und Zeit, p.1: “Haben wir heute eine Antwort auf die Frage nach dem, was wir mit dem Wort “seiend” eigentlich meinen?”).  

“Cái là, cái đang là” chính là hoa nở, chim hót; là sự sống, là “sinh thể của mọi tồn thể”. Là “cái là”, là “cái đang là” của mọi hữu tồn duyên khởi sinh diệt.

2- Về tâm cùng tu với tuệ:

Nguyên văn Việt dịch cụm từ này được tìm thấy trong kinh Đại Bát Niết-bàn của Nikāya: “Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định cùng tu với giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với định đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”.

Giới thì ai cũng hiểu rồi nhưng định đây phải là chánh định như lập ngôn của đức Phật để so sánh nó khác xa với định của Bà-la-môn giáo, ấy là “ly dục, ly ác pháp” (Đức Đại Bồ-tát đã từ bỏ hai tầng định cao nhất là Vô sở hữu xú và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Vậy thì chánh định là định không dính mắc, không chấp thủ dù an trú tầng thiền nào. Rồi sử dụng định ấy (thường là cận hành định) để minh sát ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi – được gọi là cùng tu với tuệ. Còn tâm cùng tu với tuệ là muốn nói cái tâm đã đã yên lặng mọi tham ưu do chánh định mà có (kinh gọi là bát giải thoát tâm) để cùng tu với tuệ thì giải thoát hoàn toàn mọi lậu hoặc. Nói cách khác, giải thoát tâm là giải thoát phiền não chướng, giải thoát tuệ là giải thoát sở tri chướng.

3- Về pháp hữu vi:

Trong Pāḷi, từ Saṅkhāra có nơi thì dịch là “hữu vi”, có nơi dịch là “hành”, đều đúng cả nhưng mà tuỳ nội dung chuyên chở của nó.

3.1- Saṅkhāra dịch là hành, được hiểu là tạo tác các nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp bất động làm nên thức tái sanh vào tứ ác đạo, người bất hạnh, người hữu phúc, trời Dục giới, trời Sắc giới và trời Vô sắc giới. Saṅkhāra – hành – này được dùng trong thập nhị duyên khởi: Vô minh, hành, thức…

3.2- Saṅkhāra dịch là hữu vi, hàm chỉ các pháp được kết hợp, được cấu tạo, được làm nên. Hữu vi này cũng có nhiều dạng: Một, thế giới vật chất từ hạt cát đến sơn hà nhật nguyệt, sum la vạn tượng được kết hợp bởi các yếu tố, đơn vị vật chất đều được gọi là hữu vi. Hai, thế giới tinh thần được kết hợp bởi các yếu tố tâm lý, các trạng thái tâm lý diễn tiến một cách tự nhiên cũng được gọi là hữu vi.

Loại hữu vi 3.2 này bị chi phối bởi những định luật tự nhiên của vũ trụ (5 định luật – ngoại trừ định luật nghiệp báo) nên những hữu vi ấy đều vô thường, vô ngã nhưng không có dukkha.

3.3- Saṅkhāra dịch là hành, đây là loại hành do mình chế biến, đẻ ra; loại hành do tâm lý, tình cảm, sở thích, quan niệm chủ quan của mình tự tạo, hành ấy mới đưa đến dukkha. Hành này là hành trong  hành uẩn; và chính hành này mới đầy đủ tam tướng vô thường, vô ngã, dukkha. Nó biến đổi từ thương ra ghét, từ ghét ra hận rồi tạo ra các nghiệp.

Sabbe saṅkhāra aniccāti (tất cả hành là vô thường).

Sabbe saṅkhārādukkhāti (tất cả hành là khổ).

Còn: Sabbe dhammā-anattāti (tất cả pháp đều vô ngã). Pháp hữu vi, pháp vô vi đều vô ngã. Pháp vô vi không phải là pháp cấu tạo, kết hợp; cũng không phải là pháp do mình đẻ ra, chế biến ra nên pháp vô vi là vô ngã nhưng không vô thường, không khổ. Niết-bàn là pháp vô vi.

Tóm lại, khi nói các “pháp hữu vi” là muốn nói đến thế giới thiên nhiên, ngoại vật, cái gì cũng do cấu tạo, kết hợp, duyên sinh. Thời đại vật lý lượng tử ngày nay họ hiểu rất rõ điều này. Thế giới hữu vi này chúng vô thường, vô ngã nhưng không có dukkha. Khi nói các “pháp hành” là nói đến sự duyên khởi của căn trần thức; và chính ở đây, chúng vô thường, vô ngã và có cả dukkha. Đức Phật nhấn mạnh duyên khởi này, thấy rõ nó để chấm dứt dukkha chứ không bàn đến vũ trụ vạn hữu. Trùng trùng duyên khởi sum la vạn tượng như kinh Hoa Nghiêm thì đúng nhưng đức Phật chỉ nói “nắm lá trong tay thôi”, vừa đủ cho chúng sanh thoát khổ.

4- Về tư niệm thực:

Tư niệm thực là một trong 4 loại thức ăn. Do tôi thấy nhiều nơi giảng giải 4 loại thức ăn này không được rõ ràng hoặc chỉ nói cái phần ngọn hơi xa gốc nên tiện đây tôi ghi ra theo Abhidhamma.

– Đoàn thực (kabalikāra-āhāra): Thức ăn vo tròn. Thời đức Phật người ta ăn bằng bàn tay phải, sử dụng mấy ngón tay để vo tròn thức ăn nên gọi là đoàn thực (đoàn là tròn). Đây là thức ăn của cõi người dùng để nuôi dưỡng cơ thể, các tế bào sắc chất (hiện nay cách ăn này còn tồn tại ở Ấn Độ, Srī Laṅkā, Myanmar, Thái Lan…).

– Xúc thực (phassa-āhāra): Thức ăn của xúc giác. Do xúc mới có thọ. Khi mắt tiếp xúc với sắc liền phát sanh cảm thọ. Tương tự như vậy là tai, mũi, lưỡi, thân đối với thanh, hương, vị, xúc. Nhờ ăn “sắc thanh hương vị xúc” nên nó cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng các cảm thọ.

– Tư thực (cetanā-āhāra): Thức ăn của tư, tức là tư tâm sở (cetanā), là tư tác. Cái gì là thức ăn của tư tác? Chính là hành nghiệp: Nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp bất động. Chính vì thức ăn là tất cả mọi hành nghiệp này, chúng cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng chúng hữu tình tái sanh trong ba hữu: Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.

– Thức thực (viññāṇa-āhāra): Hàm chỉ thức ăn của thức tái sanh. Thức ăn của thức tái sanh là cận tử nghiệp (hoặc năng lực của nghiệp cuối cùng trước khi lâm tử). Sau khi “ăn” nghiệp ấy, nó lấy “chất bổ” ở đấy để nuôi dưỡng danh-sắc trong kiếp sống kế.

Tóm lại, cách nói gì, cách trả lời nào tôi cũng cảm giác chúng chỉ là những khái niệm vật vờ, dập dờn trên cái thực. Nhưng giới hạn muôn đời của ngôn ngữ là vậy, tôi cũng không biết làm gì khác hơn. 

 

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Tin bài có liên quan

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

何期自性能生萬法。 “Hà Kỳ Tự Tánh Năng Sanh Vạn Pháp?” “Ngờ Đâu Tự Tánh Sanh Ra Muôn Pháp.”

Ý Tưởng Của Phật Giáo Cho Tiến Trình Xây Dựng Hòa Bình Thế Giới Hiện Nay

Ý tưởng của Phật giáo cho tiến trình xây dựng hòa bình thế giới hiện nay

Ý Thức – Vô Thức

Ý Thức – Vô Thức

Ý Niệm Tung Hoành Trong Mê Lộ Của Tâm

Ý Niệm Niết Bàn Trong Đạo Phật

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-La Ở Gandhara

Ý Nghĩa Trọng Đại Của Thủ Bản Kinh Phật Viết Trên Vỏ Cây Bô-la Ở Gandhara

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Triết Lý Và Hành Trì Của Khái Niệm Niết Bàn Nhìn Từ Quan Niệm Ái Diệt Là Niết Bàn

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-Hàm

Ý Nghĩa Tích Cực Trong Tư Tưởng Trung Đạo Của Phật Giáo Qua Kinh A-hàm

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 5

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Ý Nghĩa Sự Sống Chương 4

Load More

Discussion about this post

Tu Tập Tâm Linh Và Hộ Trì Chánh Pháp Trong Mùa An Cư Kiết Hạ

Tu Tập Tâm Linh Và Hộ Trì Chánh Pháp Trong Mùa An Cư Kiết Hạ

Tu tập tâm linh và hộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo...

Kinh Bách Dụ: Nói Hay Làm Dở

Kinh Bách Dụ: Nói hay làm dở

Thuở xưa, có một ông trưởng giả giàu có, cùng nhiều người lái buôn vào biển tìm của báu. Ông...

Tham Đắm Mùi Vị

Tham Đắm Mùi Vị

KINH TĂNG NHẤT A HÀMHán Dịch: Tam tạng Cù-đàm Tăng-già-đề-bàViệt dịch: Thích Đức Thắng - Hiệu đính & Chú thích:...

Từ Vua Nhậu Hồng Hường Đến Vua Chay Tịnh Thực Quán

Từ vua nhậu Hồng Hường đến vua chay Tịnh Thực Quán

TỪ VUA NHẬU HỒNG HƯỜNG ĐẾN VUA CHAY TỊNH THỰC QUÁN Nguyễn Mạnh Hùng Chị THanh chủ quán cùng nhị...

Nắng Muộn

Nắng muộn

Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm...

Tâm Ý Quyết Định Kết Quả

Tâm Ý Quyết Định Kết Quả

Đức Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo” hay “Tâm dẫn đầu các pháp”, tâm ý quyết định kết quả...

Thiền Về Bản Tính Của Tâm

Thiền Về Bản Tính Của Tâm

THIỀN VỀ BẢN TÍNH CỦA TÂMdịch theo ‘Guided Meditations on the Lamrim’ của Tỳ kheo ni Thubten ChodronBạch Nga (Lozang...

Tinh Thần Cứu Thế Của Thanh Niên Tăng

Tinh thần cứu thế của thanh niên tăng

Thích Nhất Hạnh dịchBài giảng của Pháp Sư Diễn Bồi – người Trung Quốc Tại chùa Ấn Quang, ngày 13...

Áo Cà Sa

Áo Cà Sa

VÀI HIỂU BIẾT VỀ CHIẾC ÁO CÀ SA Thị Giới Không khí trang nghiêm của những đạo tràng với những...

Chế Độ Ăn Thuần Chay Có Tốt Cho Sức Khỏe?

Chế độ ăn thuần chay có tốt cho sức khỏe?

CHẾ ĐỘ ĂN THUẦN CHAY CÓ TỐT CHO SỨC KHỎE?Jessica Brown BBC Future | 6 tháng 3 2020 Số người cắt...

Trọn Lòng Theo Phật

Trọn lòng theo Phật

Đức Phật hoàn hảo trên mọi phương diện. Người có một đạo lý tuyệt vời, dù cho mấy nghìn năm...

Ht. Tịnh Không Chính Thức Trả Lời Những Hiểu Lầm Về Dự Báo Đại Nạn Năm 2012

Ht. Tịnh Không Chính Thức Trả Lời Những Hiểu Lầm Về Dự Báo Đại Nạn Năm 2012

HT. Tịnh Không chính thức trả lời những hiểu lầm về dự báo đại nạn năm 2012 Các vị đồng...

Cơn Mưa Cam Lồ – Cúng Dường Sur

Cơn Mưa Cam Lồ – Cúng Dường Sur

CƠN MƯA CAM LỒ – CÚNG DƯỜNG SUR Những Chỉ Dẫn Chung Và Riêng Cần Thiết Để Cúng Dường Sur...

Sống Hài Hòa Cùng Thiên Nhiên

SỐNG HÀI HÒA CÙNG THIÊN NHIÊNNguyễn Thế Đăng Vào thập niên 70 của thế kỷ trước. Câu lạc bộ Roma...

Tu Mau Kẻo Trễ

TU MAU KẺO TRỄ  VÀ TU PHÁP NÀO CHO KỊP HỘI LONG HOA Soạn Giả Cư Sĩ B. Đ. Nói...

Tu Tập Tâm Linh Và Hộ Trì Chánh Pháp Trong Mùa An Cư Kiết Hạ

Kinh Bách Dụ: Nói hay làm dở

Tham Đắm Mùi Vị

Từ vua nhậu Hồng Hường đến vua chay Tịnh Thực Quán

Nắng muộn

Tâm Ý Quyết Định Kết Quả

Thiền Về Bản Tính Của Tâm

Tinh thần cứu thế của thanh niên tăng

Áo Cà Sa

Chế độ ăn thuần chay có tốt cho sức khỏe?

Trọn lòng theo Phật

Ht. Tịnh Không Chính Thức Trả Lời Những Hiểu Lầm Về Dự Báo Đại Nạn Năm 2012

Cơn Mưa Cam Lồ – Cúng Dường Sur

Sống Hài Hòa Cùng Thiên Nhiên

Tu Mau Kẻo Trễ

Tin mới nhận

Cảm Nghĩ Về “Ngọn Lửa Thích Quảng Đức” Cách Đây 50 Năm

Tán thán Đức Phật như thế nào?

Chùa Phú Thạnh, Tx Châu Đốc, Tỉnh An Giang

Đôi nét về cuộc đời và sự giáo hóa của Đức Phật

Không làm các điều ác, Nên làm các việc lành, Tự thanh tịnh Tâm

Trung ương GHPGVN đề nghị tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật thành đạo trang nghiêm, phù hợp

Như Lai – Bậc ngôn hành hợp nhất

Phật tại tâm là gì?

Chùa Phước Long xã Tân Nhuận Đông, Châu Thành Đồng Tháp

Ni Trưởng Thích Nữ Trí Thuận đã Viên Tịch

Phật phá trừ lòng dục của nam giới

Đức Phật là người Thầy giáo vĩ đại

Lời Phật dạy: ‘Nghe” là một pháp tu thù thắng

Bồ Tát Quảng Đức: Trái Tim Từ Bi Và Sự Thật Thích Giác Tâm

Đức Phật dạy có 5 điều người tu hành cần nên tránh

LỄ KÍNH CHƯ PHẬT – TÔN KÍNH ĐỐI VỚI CHÚNG SANH KHÔNG ĐỒNG KHÔNG GIAN DUY THỨ (tập 2)

Từ lời dạy của Đức Phật với Rāhula – nghĩ về tuổi trẻ Phật giáo

Quan Âm tu viện cùng chiến sĩ bộ đội Biên phòng hạ thủy 7 đóa sen cầu vồng

Đức Phật nói về nguyên nhân thất bại ở đời

Lời nguyện đêm thành đạo

Tin mới nhận

Tìm Hiểu Kinh Bộc Lưu

Thiên Thai tứ Giáo Nghi

Thiền Đại Thừa

Giáo Pháp là công truyền

Các Câu Trích Dẫn Giáo Lý Của Đức Phật – Bài 2

Dòng Thời Gian và Mùa Xuân Mầu Nhiệm

Kinh Bách Dụ: Ca nhi đánh nhạc

Phía sau những bài kiểm tra và tình thầy trò

Áo Bay Các Cõi Lời Thơ: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm Phổ Nhạc: Hưng Việt

Khéo tích công bồi đức

Thư gởi bạn (2.4.2020) về “độc cư, thiền định, kham nhẫn, tri túc” trong mùa “cô-vi 19”

Hổ thẹn với chú chăn bò!

Tình Bạn – Ht.thích Trí Quảng

Phải trái một bàn tay

Thi Kệ Niệm Phật

Tuổi Trẻ Ăn Chay

Không Thường Cũng Không Đoạn

Gần một ngàn thiền sinh đi thiền hành cùng thiền sư Thích Nhất Hạnh trong khóa tu mùa hè 2016

Những Hạt Ngọc Trí Tuệ Phật Giáo

33. Phật Giáo Có Chủ Trương Hoả Táng Không?

Tin mới nhận

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 65)

Chú Giải Kinh Pháp Cú Trọn Bộ 4 Quyển

Kinh Phật gồm những kinh, chú nào?

Không Phải Là Lời Của Phật *

Video Thuyết Giảng Của HT. Thích Thông Phương

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 45)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 210)

Giải Nghĩa Kinh Kim Cang, Bát Nhã & 33 Bài Kệ Của Các Vị Tổ Ấn – Hoa

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 151)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 360)

Nhân nhỏ quả lớn

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 28)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 31)

Các Bản Dịch Của Tỳ Khưu Indacanda

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 319)

Giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ (Phần 51)

GIỚI THIỆU KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh

Kinh Bách Dụ: Thấy người tô vách nhà

Kinh Kim Cang Lược Giải : cuộc đàm luận giữa Phật và tôn giả Tu-bồ-đề

Tin mới nhận

Các Cách Niệm Phật

Căn nguyên của tai nạn và bệnh tật (Tập 2)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 241)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 53)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 3)

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 45)

Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (Tập 10)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 171)

Con Đường Đạt Đến Nhân Sinh Hạnh Phúc (Tập 27)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (tập 50)

Thế Giới Cực Lạc – Phân Tích Ứng Dụng Kinh A Di Đà

Lá Thư Tinh Độ

Luận Tịnh Độ

Một Câu A Di Đà Phật Niệm Đến Cùng

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 365)

Hộ Niệm Và Khai Thị Cho Người Lâm Chung

Học Phật vấn đáp – Pháp Sư Tịnh Không trả lời câu hỏi của các đồng tu (Tập 11)

Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh (Tập 287)

Quan niệm về Tịnh Độ

Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (Tập 40)

2007-2022. © Phật Pháp Vô Biên.
Nhà tài trợ : Thiết kế & SEO bởi www.SoHoa.App

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
Menu
  • Trang chủ
  • Giới thiệu
  • Điều khoản sử dụng
  • Quyền riêng tư
  • Công đức vô lượng
No Result
View All Result
  • Điều khoản sử dụng
  • Giới thiệu
  • Kim Cương thừa
  • Luật – Nghiên cứu – Sách Phật giáo
  • Pháp Luận
  • Phật Pháp Nhiệm Màu
  • Quyền riêng tư
  • Thiền
  • Tịnh Độ
  • Tịnh Không Pháp Ngữ
  • Trang chủ
  • Tri thức và Phật pháp
  • Website quá tải – khẩn mong tấm lòng Bồ tát muôn phương

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.

Chinese (Simplified)EnglishFrenchGermanJapaneseKoreanRussianSpanishVietnamese