PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP
TẠI CÁC HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TT.TS. Thích Nguyên Đạt
Nhận
diện vấn đề
Giảng
dạy và học tập bậc đại học là một trong những lãnh vực quan yếu và nền tảng nhất của
giáo dục và đào tạo đại học, bởi chính đây là cơ sở để xác lập bản chất và tính
đặc thù khác biệt giữa giáo dục cấp học Phổ thông và Đại học. Các Học viện Phật
giáo Việt Nam là những trung tâm giáo dục và đào tạo cấp đại học của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, do vậy, giảng dạy và học tập bậc đại học cũng là một
vấn đề cốt lỏi quyết định tính đại học của các Học viện.
Tình
hình giảng dạy và học tập bậc đại học tại các Học viện Phật giáo Việt Nam
Cũng
như nền giáo dục đại học Việt Nam nói chung, giáo dục đại học ở các Học viện
Phật giáo Việt Nam đang gặp phải những tồn tại do lịch sử để lại. Những tồn tại
đó có thể tóm lược trong 3 nội dung lớn sau đây:
1. Phương
pháp giảng dạy và học tập không hiệu quả : giáo thọ/giảng viên quá phụ
thuộc vào các bài giảng và ít sử dụng các kỷ năng học tích cực; Tăng Ni sinh
viên thì có xu hướng tiếp tục thói quen học ký ức, thụ động; lớp học thì sĩ số
quá đông, và quá nhiều Tăng Ni sinh viên không tham dự đủ thời lượng ở lớp;
Tăng sinh viên mất quá nhiều thời gian học ở lớp mỗi ngày và học quá nhiều môn
trong một học kỳ, và sau giờ học, hầu hết Tăng Ni sinh viên không có thời gian
để làm bài tập có thể được cho về nhà làm.
2. Chuyên
môn nghiệp vụ không được nâng cao : Giáo thọ/giảng viên không hoặc ít có cơ
hội và điều kiện để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, giáo thọ/ giảng viên và Tăng
Ni sinh viên thiếu hiểu biết cơ bản về giáo dục và đào tạo, thiếu nhấn mạnh đến
sự phát triển các kỹ năng thông thường và nghề nghiệp; thiếu hiểu biết về mối
tương quan giữa việc sử dụng phương pháp dạy hiện tại với chất lượng và mức độ
tiếp thu của sinh viên; và thiếu sự chuẩn bị cho các giáo thọ/giảng viên trong
các lĩnh vực: Phương pháp sư phạm, thiết kế và phát triển giảng dạy nhằm hướng
đến cải tiến các môn học và chương trình đào tạo, và phát triển chuyên môn
nghiệp vụ.
3. Cơ
sở tổ chức hạ tầng, lạc hậu, không phù hợp : Thư viện, học liệu, phòng học,
cũng như trang thiết bị, nhất là trang thiết bị điện tử phục vụ cho giảng dạy
và học tập còn nghèo nàn, lạc hậu, không bắt kịp nhịp tiến bộ của xã hội và
công nghệ khoa học trong giáo dục.
Có
nhiều lý giải khác nhau cho những tồn tại trên đây, nhưng tựu trung, thường
được quy cho 2 chữ “lịch sử“. Hai chữ này có một nội hàm với
những chiều kích khá rộng khác nhau, có thể bao hàm: một triết lý giáo dục
truyền thống mang tính lịch sử (người thầy là tất cả, lời thầy là kim vàng
thước ngọc, và học viên tiếp nhận thụ động kiến thức từ người thầy một cách trung
thành), một cơ chế giáo dục (được thiết kế với nhiều môn học, nhiều học phần
hay tín chỉ trong chương trình đào tạo nhằm cung cấp cho học viên nhiều kiến
thức rộng), và những con người (chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục) còn bị
ảnh hưởng sâu sắc bởi hoàn cảnh giáo dục lịch sử.
Quan
niệm mới về giảng dạy và học tập bậc đại học
Trong
nền giáo dục hiện đại, một trong những vấn đề then chốt của giáo dục là phương
pháp giáo dục, bao gồm phương thức truyền đạt của giáo viên và phương thức thu
nhận của học viên ở cả 2 hoàn cảnh giáo dục là trong lớp học và ngoài lớp học.
Phương
pháp giáo dục, như chúng ta biết, nói chung có 3 hình thái hiện nay vẫn còn
đang ngự trị. Đó là:
1. Phương
pháp giáo dục người thầy đóng vai trò trung tâm (Teacher
centered method). Đây là phương pháp giáo dục truyền thống: người thầy –
giảng viên – chủ động truyền đạt kiến thức, còn học trò, học viên đóng vai trò
tiếp nhận thụ động. Người thầy ở đây là tất cả, có vị trí tối thượng, có vai
trò quyết định tro ng cả phương thức trao truyền cũng như loại kiến thức trao
truyền. Kiến thức mà người thầy trao truyền là kim chỉ nam, luôn đúng, và người
học trò chỉ việc cúi đầu ghi chép, ghi nhận và tiếp thu. Phương pháp này có thể
được biểu diễn bằng biểu đồ đơn giản sau: Thầy -> Trò.
2. Phương
pháp giáo dục học viên đóng vai trò trung tâm (learner centered
method):
Phương
pháp này đã được cỗ súy ở Âu Mỹ vào khoảng thập niên 70 – 80 của thế kỷ trước,
đặc biệt là ở trong môi trường giáo dục bậc đại học và trên đại học. Triế t lý
của phương pháp giáo dục này là rằng đối tượng của giáo dục không phải người
thầy mà chính là học viên, do đó học viên phải là người có vai trò trọng tâm
trong việc quyết định hướng giảng dạy, phương thức trao truyền và tiếp thu. Như
thế, trong phương pháp này vai trò trọng tâm giữa thầy và trò được đảo ngược:
người thầy tuy vẫn có chức năng truyền trao kiến thức, nhưng sự trao truyền
theo hướng ‘tùy theo nhu cầu’ của học viên. Học viên có quyền đòi hỏi và người
thầy phải đáp ứng; họ hoàn toàn chịu trách nhiệm việc học của họ, chủ động và
quyết định loại kiến thức cũng như kỹ năng mà họ cần. Bấy giờ biểu đồ của
phương pháp này có thể là: Thầy->Trò.
3. Phương
pháp giáo dục tương tác (interactive method): Đây là phương pháp
đương đại đang được áp dụng trong hầu hết các nền giáo dục. Trong phương pháp
này, thầy và trò cùng tương tác nhau trong truyền đạt và tiếp thu kiến thức.
Người thầy chủ động truyền đạt kiến thức mang tính khái niệm, cơ bản và theo
hướng gợi mở, luôn có ý thức chừa những khoảng không gian cần thiết cho học trò
phát triển tư duy sáng tạo, cũng như chủ động thiét kế chương trình, hoạt động
và kiểm tra và hướng dẫn học viên những nguồn học liệu thích hợp. Học viên chủ
động tham gia vào quá trình giáo dục trong lớp cũng như ngoài lớp: chủ động tiếp
thu kiến thức bằng cách tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận trong lớp, cũng
như nghiên cứu thêm ngoài lớp, dưới sự gợi ý và điều phối của người thầy. Biểu
đồ sẽ là: Thầy<->Trò.
Cả
ba phương pháp giáo dục được đề cập trên, mỗi phương pháp đều có những giá trị
lịch sử, cũng như những tính ưu và khuyết của riêng nó. Chẳng hạn, đối với cấp
tiểu học, trung học thì phương pháp giáo dục thứ nhất phần nào đó có lẽ là
phương pháp khá thích hợp trong việc hình thành nhân cách ổn định về mặt đạo
đức xã hội, cũng như xây dựng nên nền căn bản trong kiến thức của các em nhỏ;
còn phương pháp thứ hai và thứ ba tỏ ra ưu trội và phù hợp hơn ở các cấp học
đại học và sau đại học bởi tính kích thích phát triển nhân cách độc lập và tư
duy sáng tạo cần thiết nơi học viên.
Ở
Việt Nam ta, vì do ảnh hưởng nặng nền giáo dục Nho học, nên phương pháp giáo
dục người ‘thầy là trung tâm’ và học viên chỉ là tiếp nhận thụ động vẫn
đang là một phương pháp giáo dục phổ biến ở mọi cấp giáo dục. Tuy nhiên, trước
xu hướng hội nhập, và toàn cầu hóa, ngành giáo dục Việt Nam đang cổ vũ phương
pháp giáo dục ‘học viên là trung tâm’ và phương pháp giáo dục ‘tương
tác’ trong các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó, được đặc biệt chú trọng là
phương pháp giáo dục ‘tương tác, một phương pháp giáo dục hiện đại vừa
phát huy vị thế của người thầy, vừa nhấn mạnh vai trò sáng tạo trong tư duy của
học viên.
Các
trường Phật học Việt Nam ở mọi cấp, đặc biệt là cấp đại học, và học viện, nên
chăng cần phải hòa vào dòng chảy của nền giáo dục quốc dân và đi t heo những
phương pháp giáo dục hiện đại này?
Phương
pháp giảng dạy và học tập tại các Học viện Phật giáo Vi ệt Nam – một đề xuất
Một
triết lý giáo dục đại học hôm nay đang được cổ vũ và rộng rãi chấp nhận là:
“Giáo
dục đại học không phải trang bị cho người học một lượng kiến thức càng nhiều
càng tốt, giúp người học có một kiến thức nền tảng vững chãi khi ra trường để
sống và hành nghề lâu dài, mà cần cung cấp cho người học những khái niệm căn
bản với những kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc sống hơn là tập trung vào
việc làm đầy kiến thức đã có sẵn.”
Do
đó, tự thân câu hỏi trên đây đã hàm trỏ một câu trả lời. Đó là, các Học viện
Phật giáo Việt Nam – những trung tâm giáo dục bậc đại học của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam – không thể cưỡng lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Điều
này nói rằng phương pháp giáo dục ‘tương tác’ nên được nỗ lực tiến hành
áp dụng tại các Học viện.
Phương
pháp giáo dục ‘tương tác’ này, trên bình diện hoạt động, nói
chung, có ba mảng phân biệt nhưng lại hàm tính giáo thoa. Đó là, hoạt động
giảng dạy, hoạt động học tập, và hoạt động thực hành. Ba mảng hoạt động này có
mối quan hệ hữu cơ với nhau, và luôn có những hoạt động tương tác giữa giảng
viên và học viên.
A.
Hoạt động giảng dạy: Giảng viên đóng vai trò chủ đạo, thường gồm
những hình thái sau:
–
Giảng bài (lectures): trình bày về một chủ đề thuộc học phần nào đó ở môi
trường lớp học. Trong hoạt động này, người thầy có nhiệm vụ trình bày và nhiệm
vụ của học viên là lắng nghe và ghi chép. Dĩ nhiên, một sự tương tác nhất định
giữa giảng viên và học viên vẫn thường được thực hiện trong khi bài được giảng.
–
Thuyết trình (seminars): thường là sự trình bày của một học viên hay một
nhóm học viên về một chủ đề hay một tài liệu dưới sự điều phối của giảng viên ở
môi trường lớp học.
–
Hướng dẫn (tutorial): Trong hoạt động này, giảng viên cho học viên những phản
hồi, nhận xét hay hướng dẫn thêm về bài làm hay học tập của học viên. Hoạt động
hướng dẫn có thể được thực hiện chung ở môi trường lớp học, nhưng thường xảy ra
một cách riêng tư hơn ở môi trường ngoài lớp học.
–
Thảo luận (workshop): Bàn thảo hay luận bàn một cách không chính thức về
một đề tài hay vấn đề cụ thể nào đó giữa học viên và giảng viên hay với một
chuyên gia.
B. Hoạt
động học tập: Chủ thể của hoạt động này là học viên. Học viên được yêu cầu
chủ động trong việc học tập của bản thân, học ngoài lớp học, ngoài bài giảng,
thảo luận hay hướng dẫn của giảng viên trên lớp, có thể bao gồm:
–
Đọc tài liệu: Học viên đọc tài liệu do giảng viên cung c ấp hoặc gợi ý, chuẩn
bị trước khi vào lớp học, hoặc để mở rộng thêm kiến thức sau lớp học.
–
Ghi chép: Trong lớp học, giảng viên giảng bài, chốt những điểm quan
trọng trong thảo luận, học viên lắng nghe và ghi chép những điểm ý tưởng chính.
Ngoài lớp học, họ c viên cũng cần thực hiện thao tác ghi lại những điểm quan
trọng từ tài liệu, hoặc những ý tưởng có thể lóe lên trong quá trình đọc tài
liệu.
– Tư
duy: Tư duy phê phán luôn là tinh thần cốt lỏi của đại học. Giảng viên cần tạo
điều kiện và khích lệ tinh thần tư duy phê phán nơi học viên.
–
Lập kế hoạch: Để việc học tập có kết quả mong đơi, giảng viên cần hướng dẫn học
viên những thao tác lập kế hoạch học tập và nghiên cứu hiệu quả.
–
Nghiên cứu: Nghiên cứu gắn liền với đại học; giá trị của đại học một
phần rất lớ n được xác lập qua giá trị của nghiên cứu. Giảng viên cần cung cấp
và hướng dẫn học viên những kỹ năng nghiên cứu, và gợi ý những đề tài nghiên
cứu cho học viên, và học viên cần luôn có tinh thần sẳn sàng tham gia nghiên
cứu.
–
Viết báo cáo: Theo cùng kỹ năng nghiên cứu là những thao tác viết báo cáo. Viết
báo cáo khoa học luôn đòi hỏi những chuẩn mực nhất định về thể thức, cấu trúc,
văn phong, trình bày. Sinh viên đại học cần nắm vững và thành tạo thao tác viết
báo cáo khoa học.
C. Hoạt
động thực hành: Chủ thể hoạt động này cũng là những sinh viên đại học dưới
sự hướng dẫn cố vấn của vị giáo sư hương dẫn. Hoạt động này có thể gồm:
–
Làm việc nhóm: Tinh thần và kỹ năng làm việc cộng tác, tập thể cũng cần được
nhấn mạnh ở bậc đại học.
–
Thực hành thí nghiệm: Sinh viên đại học, nhất là những sinh viên của các
chuyên ngành khoa học tự nhiên, cần nắm vững những kỹ năng, quy trình và thao
tác bắt buộc tại phòng lab – phòng thí nghiệm.
–
Thực tập thực địa: Thực tập thực địa luôn là một phần bắt buộc trong chương
trình đào tạo đại học của bất kỳ ngành học nào. Ở các Học viện Phật giáo, phần
quan trọng này vẫn đang còn bị bỏ trống.
Ba
mảng hoạt động trong giảng dạy và học tập theo phương pháp giáo dục ‘tương tác’
vừa được trình bày có thể được biểu diễn bằng biểu đồ sau:
Như
biểu đồ trên cho thấy, cả ba mảng hoạt động giảng dạy, học tập và thực hành
được trình bày trên đây vừa có tính phân biệt độc lập vừa có tính giao thoa
tương tác: giao thoa trong hoạt động và tương tác giữa giảng viên và sinh viên.
Trong đó, học viên và sinh viên là chủ thể trung tâm của mọi hoạt động học tập
và thực hành và người thầy – giảng viên – là chủ thể trao truyền kiến thức,
giảng dạy, và hướng dẫn. Sự tương tác giữa người thầy – giảng viên và học viên
bao gồm cả môi trường lớp học lẫn môi trường ngoài lớp học.
Ngày
nay, với sự hỗ trợ của tiện nghi công nghệ thông tin, internet, điện thoại vô
tuyến, sự tương tác giữa thầy và trò, giữa giảng viên và sinh viên rất thuận
lợi và dễ dàng.
Giải
pháp hướng đến phương pháp giáo dục ‘tương tác’
Nhằm
hướng đến một phương pháp giảng dạy và học tập hiệu quả rất đại học như
được trình bày trên đây, các Học viện Phật giáo Việt Nam, người viết thiết
nghĩ, cần thực thi hai việc sau đây:
1. Cải
thiện thiết chế tổ chức: chương trình đào tạo cần phải được thiết kế lại
sao cho thời lượng học tại lớp được giảm tải, nâng thời lượng làm việc ngoài
lớp, cũng như sao cho chất lượng mang tính chiều sâu hơn là chiều rộng; cải
tiến và nâng cao cơ sở hạ tầng: thư viện, phòng học và trang thiết bị giảng dạy
và học tập theo hướng công nghệ hóa, tin học hóa.
2. Nâng
cao chuyên môn nghiệp vụ: đội ngũ giảng viên và đội ngũ quản lý điều hành
học viện cần được tạo điều kiện để nâng cao nghiệp vụ sư phạm và chuyên môn,
chẳng hạn như mở các khóa bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, quản lý giáo dục , hợp
tác giáo dục với các trung tâm đại học khác cả trong nước và ngoài nước để nâng
cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giảng viên, hạn chế tối đa những nhiệm vụ
ngoài lề để giảng viên, nhân viên có được thời gian tập trung cho việc giảng
dạy, nghiên cứu và điều hành. Một điều quan trọng nữa là cần có cơ chế lương
bỗng, và tưởng thưởng thích đáng ổn định tâm lý và kích thích tính phấn đấu nơi
mỗi giảng viên và nhân viên học viện.
Kết
luận
Trong
giai đoạn mới của giáo dục đại học, mục tiêu, nội dung và phương pháp giảng dạy
cũng có nhiều biến đổi. Và theo đó, cũng có nhiều góc độ nhận diện vấn đề và
cách thức tiếp cận để giải quyết vấn đề. Những gì vừa được trình bày trên đây
cũng chỉ là một trong những góc độ nhận diện và tiếp cận.
Rõ
ràng các Học viện Phật giáo Việt Nam tuy đã và đang phải đối diện nhiều khó
khăn khách quan và chủ quan của lịch sử và hoàn cảnh nhưng vẫn luôn đã và đang
trong ý thức tự nâng mình lên để bắt nhịp với bước tiến của thời đại. Đành
rằng, con đường giáo dục là một con đường dài thật dài, nhưng chân trời chắc
chắn sẽ mỗi hé sáng theo từng bước chân đi tới.
THÍCH NGUYÊN ĐẠT – Phó Viện trưởng Học viện PGVN tại Huế (Học Viện Phật Giáo Việt Nam Huế Thừa Thiên)
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Doyle, K.O.(1983), Evaluating Teaching, San Francisco: New Lexington Press,
USA. 2.
Lê Ngọc Oánh (2006), Thư viện góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy và học
tập ở bậc đại học, Bản tin thư viện – công nghệ thông tin. 3.
Ngô Tứ Thành (2008), Giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy ở các trường
đại học ICT hiện
nay, Tạp chí
khoa học ĐHQGHN, Khoa học xã hội và Nhân văn 24 (2008) 237 – 242. 4.
Shahida Sajad (2010), Effective teaching methods at higher education level,
Department of special education, University of Karachi, Pakistan. 5.
Teaching methods at college and university, www. palgrave.com.
Discussion about this post