PHÁT TRIỂN LÒNG TỪ VÀ BI
Ringu Tulku
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Nếu mục đích của cuộc đời ta chỉ giới hạn
trong sự an bình, giải thoát của riêng ta, ta sẽ chẳng bao giờ chứng ngộ viên
mãn Phật tánh của ta. Theo Phật giáo Đại thừa, việc tự giới hạn trong sự giải
thoát riêng mình khỏi những khổ đau của sinh tử là một cạm bẫy. Đó không phải
là một con đường tuyệt hảo. Ta cần phát triển lòng từ và bi, bởi đó là chân tánh
của ta và con đường duy nhất để hoàn toàn phát triển và tỉnh thức bản thân ta.
Ở đây điều ta gọi là
lòng từ thì khác biệt với ý niệm tình yêu lãng mạn. Đó là sự hứng khởi, ý hướng
được biểu lộ bằng ước nguyện “Cầu mong tất cả chúng sinh được hạnh phúc.” Đối
với một Bồ Tát, từ ái (thương yêu) là ước muốn hạnh phúc cho tất cả, cho bản
thân cũng như cho người khác. Khởi điểm để phát triển lòng từ là nhận ra rằng
nếu việc bản thân ta cảm thấy hạnh phúc là điều đúng đắn thì điều đó cũng đúng
đắn đối với tất cả chúng sinh khác. Khi ta ước muốn tất cả chúng sinh thoát
khỏi đau khổ thì ta nói đến lòng bi mẫn. Mặc dù hai ý niệm rất gần nhau và có
cùng bản chất, những khác biệt không đáng kể minh chứng cho nét đặc biệt của
chúng.
Lòng từ và bi nằm
trong những nguyên lý quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Một vị Phật, một
bậc chứng ngộ, là người đã phát triển lòng từ, bi và trí tuệ tới mức độ cao
nhất của chúng. Bi mẫn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để thành tựu
Phật quả. Không có lòng bi mẫn thì không thể giác ngộ.
Từ và bi không chỉ
cần thiết cho sự giác ngộ, chúng cũng là một thành phần trọn vẹn của Phật tánh.
Trái với lòng thù ghét và những cảm xúc tiêu cực khác, là những gì nhất thời và
vì thế có thể được tịnh hóa, lòng bi mẫn thì cố hữu đối với bản tánh tối thượng
của chúng sinh. Khi thám hiểm những hình thức sâu xa hơn của lòng bi mẫn, ta
khám phá ra rằng thực ra nó là một trong những nội dung của chân tánh của tâm
Phật. Càng phát triển lòng từ và bi thì ta càng từ bỏ những cảm xúc tiêu cực.
PHÁT TRIỂN LÒNG TỪ ÁI1
Gampopa phân biệt ba hình thức của lòng từ
ái:
1. Đối với chúng sinh
- Có liên quan tới bản
tánh của thực tại, và - Không liên quan gì
tới đối tượng nhất định nào.
Lòng nhân từ liên
quan tới chúng sinh là điều ta thường gọi là lòng từ ái. Ta có thể tự hỏi liệu
có thể phát triển lòng từ hay không. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời rằng luôn
luôn có thể phát triển lòng từ bởi cho dù đôi khi ta có thể cảm thấy thù ghét
hay giận dữ, ta luôn luôn cảm nhận lòng từ ái, và so với việc cảm thấy sân hận,
việc cảm nhận lòng từ ái thì dễ chịu và tự nhiên hơn nhiều. Ta cảm thấy sân hận
khi ta rối loạn. Ta cảm thấy từ ái khi ta không bị rối loạn bởi lòng từ đến một
cách tự nhiên hơn. Ta không luôn luôn cảm thấy giận dữ và, bởi lòng từ và sự
thù ghét thì loại trừ nhau, ta nên cố gắng kéo dài những giây phút ta cảm thấy
yêu thương, từ ái. Nếu ta thành công, cuối cùng thì ta sẽ không cảm thấy điều
gì ngoài lòng từ ái. Bởi từ ái và sân hận không thể cùng hiện hữu, một cái phát
triển là đủ để cái kia biến mất. Cũng giống như nóng và lạnh: ta không thể đồng
thời cảm thấy nóng và lạnh. Những cảm xúc tiêu cực đến và đi. Nếu ta không để
cho những cảm xúc tiêu cực biểu lộ thì chúng sẽ không phát triển. Đồng thời,
nếu ta tập quen thuộc để cảm nhận lòng từ ái thì càng ngày ta sẽ cảm nhận nó
càng thường xuyên hơn.
Nếu Phật giáo định
nghĩa lòng từ như ước muốn tất cả chúng sinh được hạnh phúc, khởi điểm để phát
triển lòng từ ái này là nhận ra rằng, nếu ta ước muốn bản thân ta hạnh phúc,
thì tất cả chúng sinh cũng ước muốn giống y như thế. Tuy nhiên, tôi biết rằng ở
Tây phương, một số người tuyên bố là họ không thương yêu chính mình. Như thế
làm sao họ có thể phát triển lòng thương yêu đối với người khác? Tuy thế, tôi
nghĩ rằng hầu như chắc chắn là những người này hy vọng quá nhiều ở bản thân và
cảm thấy rất có lỗi khi không đạt được những tiêu chuẩn cao mà họ đặt ra cho
chính mình. Tội lỗi này, sự trách móc mà họ đổ lên bản thân đã ngăn cản họ
không ý thức được lòng từ ái mà họ thực sự cảm thấy đối với bản thân mình.
Cách
Đối phó với sự Thù ghét
Làm nguôi dịu sự thù ghét là giai đoạn đầu
tiên trong việc phát triển lòng từ ái. Để thành công, trước hết ta phải hoàn
toàn hiểu rằng việc cảm thấy thù ghét thật là vô lý. Ta thù ghét người nào đó
bởi họ làm hại ta, dù họ có ý định đó hay không, và ta cảm thấy bị tổn thương.
Tuy nhiên, họ làm tổn thương ta là bởi họ thực sự không được tự do chọn lựa.
Trong một vài trường hợp, họ thực sự tin rằng họ đang làm điều đúng đắn. Họ để
các sự kiện và hoàn cảnh điều khiển hay để cho những cảm xúc mạnh mẽ và không
thể kiểm soát thống trị họ. Họ không kiểm soát được bản thân. Một vài người
hoàn toàn bị nhận chìm bởi những cảm xúc giống như một người điên hay người say
rượu, là những người không thể được coi là hoàn toàn chịu trách nhiệm về các
hành động của mình. Ta không chấp những lời lẽ của một người say hay người điên
hoặc xử sự quá sức nặng nề đối với họ. Ta nên đối xử với những người làm hại ta
theo cùng cách như thế.
Có lẽ ta bị tổn
thương bởi những lời lẽ hay hành động khó chịu, nhưng người sẽ phải đau khổ
nhiều nhất vì hậu quả của những điều này là người thực sự làm hại ta. Quả thực,
người này chính là người, dưới tác động của những cảm xúc tiêu cực, sẽ tích tập
ác nghiệp mang lại những hậu quả tiêu cực. Nếu ta tin vào luật nhân quả, ta
hiểu rằng người làm hại người khác sẽ phải chịu những hậu quả đau đớn, không
phải bởi sự can thiệp ở bên ngoài, mà bởi sức mạnh của chính hành động. Vì thế
một người như thế đáng thương hơn là đáng ghét, và ta không có lý do nào mà
không tha thứ cho họ. Trái lại, ta có lý do chắc chắn để cảm thấy thương yêu
họ. Nhìn từ góc độ này, sự thù ghét hầu như trở thành phi lý. Điều đó không có
nghĩa là ta không nên cố gắng ngăn cản người đó làm hại ta hay bản thân họ,
nhưng ta không cần phải ghét họ.
Thù ghét có nghĩa là
thất bại, trong khi lòng từ ái là một chiến thắng. Sawami Vivekananda, một hiền
nhân Ấn Độ, đang đi xe lửa ở Ấn Độ. Một hành khách xấu tính đã tìm đủ mọi cách
để sỉ nhục ngài. Swami Vivekananda không trả lời. Khi người hành khách mệt
nhoài về việc sỉ nhục, ngài Vivekanada hỏi ông ta: “Nếu có người tặng ông một
món quà nhưng ông từ chối thì ai nhận món quà?” Người khách trả lời: “Người đó
nhận.” Khi đó Vivekanada nói: “Tôi không nhận những gì ông nói.” Không đáp lại
thù ghét bằng sự thù ghét là một chiến thắng bởi thù ghét làm phát triển sự
căng thẳng và những cảm xúc khó chịu, trong khi lòng từ ái mang lại sự an bình.
Thoát khỏi sự thù ghét, ganh tị, tham lam và bất mãn, ta có thể được hạnh phúc,
an bình và thoải mái trong sự ấm áp của lòng tốt. Lòng từ ái thì an bình và
phát triển một thái độ tích cực. Khi không có điều tiêu cực nào quấy rầy ta, ta
cảm thấy nhẹ nhàng, tự do và thanh thản. Những người quanh ta cũng sẽ cảm nhận
sự ấm áp này và nhận ra được lòng nhân từ của ta. Những người nồng nhiệt, những
người có một trái tim tốt lành, khiến cho mọi người muốn được chuyện trò với
họ, muốn được gần họ.
Mở rộng
lòng Từ ái đến Tất cả Chúng sinh
Việc phát triển lòng từ ái và một trái tim
rộng lượng không chỉ có nghĩa là từ bỏ sự thù ghét mà còn là ước muốn tất cả
chúng sinh được hạnh phúc.
Phương pháp truyền
thống của Tây Tạng để đạt được điều này được dựa trên cảm xúc của lòng biết ơn.
Đối với tôi, mong muốn đền đáp điều tốt lành cho những người rộng lượng với ta
dường như là điều thật tự nhiên. Bắt đầu với cảm xúc này, dần dần ta học mở
rộng lòng nhân từ này đến tất cả chúng sinh. Luận lý làm nền tảng cho cách tiếp
cận này là dần dần nó có thể gởi tới những người khác lòng từ ái mãnh liệt mà
ta cảm thấy đối với một người, để cuối cùng bao gồm tất cả chúng sinh.
Tôi không rõ cách
tiếp cận này có ý nghĩa gì đối với bạn không bởi khi đọc sách hay xem phim ảnh
Tây phương, tôi không có cảm tưởng là lòng biết ơn hay khát khao đền đáp lòng
tốt tỏ ra là chúng đang đóng một vai trò quan trọng trong xã hội Tây phương,
trong khi đó là mối ưu tư chính yếu đối với người Tây Tạng và, tôi nghĩ, trong
xã hội Đông phương nói chung. Trong một nền văn hóa như văn hóa của tôi, thái
độ này được bắt rễ thật sâu. Chẳng hạn như, khi một người chết, họ hối tiếc là
không có thời gian hay cơ hội để đền đáp những lòng tốt đã được dành cho họ, và
ước nguyện cuối cùng của họ luôn luôn là mong muốn những người thân sẽ báo đáp
các món nợ này tận đáy lòng. Tuy nhiên, sự vắng mặt của những ưu tư như thế
trong phim ảnh hay văn học không có nghĩa là người Tây phương không cảm nhận
lòng biết ơn trên một bình diện cá nhân.
Trong truyền thống
Tây Tạng và Ấn Độ, người mẹ là mẫu mực tuyệt hảo của lòng từ ái, bởi bà là
người giúp đỡ ta theo cách thế ít vị kỷ nhất. Bà là người đã tận lực, hay cố
gắng hết sức mình, hy sinh tiện nghi và những lợi lạc tốt lành nhất của bà cho
chúng ta.
Tôi nghĩ thật là thú
vị khi đọc đoạn văn Gampopa mô tả vai trò của một bà mẹ:
[Tưởng nhớ lòng tốt
là cội gốc của lòng từ ái. Như thế ta xem xét lòng tốt của chúng sinh. Trong
văn cảnh này, người đã từng tốt lành nhất đối với hết thảy chúng ta trong đời
này là bà mẹ của riêng ta. Bằng cách nào? Bà đã từng tốt lành bằng cách sinh ra
ta, tốt lành bằng cách trải qua những gian khổ, tốt lành bằng cách nuôi dưỡng
sinh lực của ta, và tốt lành trong việc dạy ta những lề thói chung. Kinh Bát Nhã Ba La Mật trong Tám Ngàn câu Kệ
nói: “Tại sao như vậy? Bà mẹ này đã sinh ra ta, bà trải qua những gian khổ, bà
mang lại cho ta cuộc đời và dạy ta mọi sự về thế giới.”
Lòng tốt của việc Tạo
ra Thân thể ta
Thân thể này của
chúng ta không bắt đầu với một kích thước hoàn toàn phát triển, thịt da của nó đã
được phát triển đầy đủ với một diện mạo khỏe mạnh. Nó đã phát triển trong bụng
mẹ qua những giai đoạn phôi thai và bào thai, được dần dần tạo nên và nuôi
dưỡng bằng chất lỏng bổ dưỡng đến từ máu thịt của bà. Nó lớn lên nhờ sự nuôi
dưỡng đến từ thực phẩm mà bà dùng. Nó hình thành nhờ việc bà phải chịu đựng đủ
loại bối rối, bệnh tật, và khổ đau. Hơn nữa, nói chung, chính bà đã giúp tạo
nên thân thể này, nó bắt đầu từ một đứa bé nhỏ xíu và bây giờ trở thành thân
thể to lớn như một con yak.
Lòng tốt của việc Chịu đựng những Gian khổ
Thoạt đầu ta không
đến đây với đầy đủ y phục, được trang điểm đẹp đẽ, có tiền trong túi, và sự dự
phòng để du hành. Khi ta đến nơi không được biết tới này, nơi ta không biết một
ai, ta không có bất kỳ điều gì – tài sản duy nhất của ta là cái miệng la hét và
cái bao tử trống rỗng. Mẹ ta cho ta thực phẩm khiến ta không bị đói, cho ta
thức uống để ta không bị khát, cho ta quần áo để chống đỡ cái lạnh, và của cải
để khỏi bị nghèo khổ. Không phải là bà chỉ cho ta những gì bà không còn sử dụng
nữa: bản thân bà phải chịu đói, khát, và không có quần áo mới. Hơn nữa, bà
không chỉ hy sinh hạnh phúc của bà chừng nào mà sự hiện hữu này còn được quan
tâm, bà cũng túng thiếu trong việc sử dụng của cải (như những món cúng dường)
để chuẩn bị cho sự thịnh vượng của bà trong những đời sau. Tóm lại, không quan
tâm tới hạnh phúc của riêng mình trong đời này và đời sau, bà đã hiến mình để nuôi
dạy và chăm sóc đứa con của bà.
Bà cũng chẳng dễ dàng
và thích thú gì để có được những thứ cần thiết; để lo liệu cho đứa con, bà buộc
phải phạm tội, chịu đựng, và làm việc cực nhọc. Bà đã phạm tội bởi phải tham
gia vào việc đánh bắt cá, giết hại thú vật v.v.. để chăm sóc cho chúng ta. Bà
phải chịu đựng bởi những gì bà mang lại cho đứa con là kết quả của việc buôn
bán, lao động trong cánh đồng v.v.. giày ướt đẫm sương và lấy những vì sao làm
nón đội trong những đêm khuya khoắt hay những sớm tinh mơ, cưỡi ngựa giữa đàn
bê, bị quất bởi những ngọn cỏ dài, phơi chân cho chó cắn và lộ mặt cho đàn ông
nhòm ngó.
Bà cũng đối xử với kẻ
xa lạ này, người đã trở thành con của bà, với tình thương yêu còn hơn là bà
thương yêu cha mẹ, hay Đạo sư của bà, mặc dù bà không biết đứa bé này là ai hay
nó sẽ trở thành cái gì. Bà nhìn đứa con với đôi mắt trìu mến, cho nó sự ấm áp
dễ chịu của bà, nâng niu nó trong tay, và nói với nó những lời ngọt ngào: “Niềm
vui của mẹ, ôi mặt trời của mẹ, kho báu, cục cưng, không phải con là niềm vui
của mẹ sao v.v..”
Lòng tốt của việc Nuôi dưỡng Cuộc đời ta
Chúng ta không được
sinh ra như ta hiện nay, biết cách tự ăn một mình và được phú bẩm khả năng cần
thiết để hoàn thành những công việc khó khăn. Khi ta là những sinh vật bất lực,
vô dụng, không thể suy tưởng, mẹ ta không vứt bỏ ta mà làm vô số việc không thể
tưởng tượng nổi để nuôi dưỡng sự hiện hữu của ta. Bà ôm ta vào lòng, che chở ta
khỏi những hiểm họa của lửa hay nước, giúp ta thoát khỏi những vực thẳm nguy
hiểm, loại trừ mọi điều tai hại, và cầu nguyện cho ta. Vào những lúc đó, khi bà
lo lắng cho cuộc đời hay sức khỏe của ta, bà phải nhờ đến đủ loại bác sĩ, tiên
tri, khoa chiêm tinh, những câu thần chú, tụng đọc các bản văn, những buổi lễ
đặc biệt v.v..
Lòng tốt của việc Dạy cho ta những Lề thói chung
Thoạt đầu, ta không
là những người tài giỏi, từng trải, cứng cỏi như ta hiện nay. Ngoài việc nói
oang oang và quẫy đạp lung tung, ta hoàn toàn ngu dốt. Khi ta không biết cách
tự ăn một mình, chính bà đã dạy ta cách để ăn. Khi ta không biết cách mặc quần
áo, chính bà đã dạy ta. Khi ta không biết làm thế nào để đi, chính bà đã dạy
ta. Thậm chí khi ta không thể nói, chính bà đã dạy ta, lập lại “Má má, ba ba,”
v.v.. Khi đã dạy ta những thiện xảo, bà giúp ta trở thành một người quân bình,
củng cố những điểm yếu của ta và khai sáng cho ta điều chưa quen thuộc.]
Bạn nghĩ gì? Tôi bảo
đảm là nhiều người trong các bạn không đồng ý. Nhiều người Tây phương phản
kháng lại vấn đề này do bởi những khó khăn trong mối quan hệ với mẹ của họ. Tôi
muốn nói một cách đơn giản rằng tình thương của bà mẹ rất thường được cho là
điều đương nhiên, và được coi là cái gì tự nhiên. Bạn thường trông chờ quá
nhiều ở cha mẹ bạn. Bạn truy nguyên nguồn gốc của mọi vấn đề của bạn trong thời
thơ ấu và đổ lỗi cho cha mẹ bạn về mọi sự rắc rối.
Trong chừng mực nào
đó, thái độ này được liên kết với việc bạn thiếu niềm tin ở sự hóa thân. Không
tìm ra lý do nào khác có thể có, bạn nghĩ rằng mọi sự xảy ra cho bạn có thể chỉ
là kết quả của các sự kiện đã xảy ra trong đời hiện tại này, trong việc thai
nghén, sau khi bạn sinh ra, và trong thời thơ ấu của bạn. Bạn nghĩ rằng tình
thương yêu của bà mẹ thì tự nhiên và bạn chấp nhận nó như thế, không có sự nhận
thức sâu sắc hơn. Bạn coi mọi sự bạn nhận từ cha mẹ như điều gì họ mắc nợ bạn. Khi
mẹ bạn cho bạn mọi sự bà có, bạn nghĩ rằng điều đó bình thường và tự nhiên.
Thậm chí bạn còn không nhận ra điều đó. Trái lại, bạn thấy khó có thể tha thứ
cho hành vi vị kỷ nhỏ bé nhất của bà. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ về điều đó, một
đứa bé là một chúng sinh hoàn toàn bất lực, hoàn toàn trông cậy vào lòng tốt
của mẹ nó. Bà có thể giết nó một cách dễ dàng khi nó vừa sinh ra hay thậm chí
trước đó. Tục giết trẻ sơ sinh là có thật. Ở một vài quốc gia, việc ra đời của
một đứa bé gái được coi là một thảm họa bởi phải trao của hồi môn trong lễ
cưới; vì thế, một bé gái có nguy cơ bị giết chết.
Hơn nữa, một người mẹ
cũng chỉ là một chúng sinh như mọi người khác, với những vấn đề, những thị
hiếu, những điều ưa thích và không thích của riêng bà. Giả sử một bà mẹ từ bỏ
đứa con khi nó ra đời để theo một người đàn ông khác mà bà thương yêu. Ta có
thể nghĩ rằng bà không thương yêu con bà, trong khi thực ra chỉ vì bà chịu sự
tác động của một đam mê mãnh liệt. Ta có thể nói một cách thận trọng là bà
không thực sự làm chủ bản thân. Dĩ nhiên là ta có thể không tán thành cách cư
xử của bà với tư cách một bà mẹ, nhưng ta không có lý do gì để ghét bà. Thực
ra, nếu mẹ bạn không thương yêu hay giúp đỡ bạn thì đó là vấn đề của bà. Bạn
không thể làm người khác thương yêu bạn. Nếu bà thương yêu bạn và biểu lộ lòng
tốt đối với bạn thì điều đó hoàn toàn tốt lành, nhưng bà không có nghĩa vụ phải
làm điều đó. Bạn đã làm gì để xứng đáng nhận được lòng thương yêu của bà? Tôi
không nghĩ rằng việc thù ghét người nào đó là hợp lý chỉ vì người ấy không
thương yêu bạn! Không có lý do chính đáng nào để lý giải cho tất cả những gì bà
mẹ làm cho con bà. Thay vì bực tức bà về những lỗi lầm nhỏ bé nhất mà có thể bà
đã phạm, trái lại ta nên cảm thấy biết ơn bà về tất cả những điều tốt lành mà
bà đã mang lại cho ta. Tôi cho rằng rất cần phải nhớ tới điều này.
Tu tập
và Xử sự với những Cảm xúc
Khi gặp những hoàn cảnh khó khăn và bất hòa,
ta thường bị những cảm xúc tiêu cực áp đảo đến nỗi không có thời giờ hay tỉnh
táo để nghĩ đến sự thương yêu. Chỉ nghe các giáo lý về lòng từ và bi không thôi
sẽ không thể lập tức chuyển hóa được ta hay tức thì biến ta thành những vị Bồ
Tát toàn hảo. Đặc biệt là nếu ta có khuynh hướng sân hận thì dĩ nhiên là ta sẽ
lại nóng giận Ta sẽ không cảm thấy có lỗi mà thậm chí cũng không băn khoăn nếu
điều này xảy ra. Thậm chí Đức Tilopa đã nói rằng sự kiện đơn giản của việc giận
dữ không làm cho ta quá sai lầm. Tuy nhiên, sự dính mắc vào sân hận và việc
mong muốn trả thù thì thực sự tệ hại và có thể làm hại ta rất nhiều. Ta nên xét
xem có lợi lạc gì trong việc duy trì sự sân hận này, trong việc dính mắc vào
nó. Chẳng có gì hết: nó chỉ làm tổn hại ta và tổn thương những người khác.
Bằng cách phát triển
lòng từ ái, chúng ta có thể dần dần thay đổi. Bằng cách duy trì sự tỉnh giác và
ý thức về sự vô ích của sân hận, ta sẽ kiểm soát bản thân tốt hơn. Dần dần càng
ngày ta càng bớt sân hận về những việc nhỏ bé, và cường độ giận dữ của ta cũng
suy giảm. Điều đó không có nghĩa là ta nên kềm giữ và đè nén mọi cảm xúc giận
dữ, mà chỉ đơn giản là ta nên thay đổi sự định hướng của tâm ta. Cảm xúc giống
như những con sóng và chúng luôn luôn êm dịu. Mỗi khi ta ý thức rằng ta đang
giận dữ, ta nên cố gắng lái sự chú tâm của ta tới một điều gì khác có thể thay
thế cho những cảm xúc giận dữ của ta.
Có rất nhiều phương
pháp (kỹ thuật) tuyệt vời giúp ta xử sự và chuyển hóa những cảm xúc tiêu cực.
Trong thực tế Phật giáo đã chủ yếu tập trung vào những phương pháp như thế, và
chúng ta sẽ đi vào chi tiết sau này.
Có ba cấp độ khác
nhau trong việc xử sự với các cảm xúc: con đường Thanh Văn, con đường Đại thừa,
và con đường Mật thừa.
Con đường của các vị
Thanh Văn dạy cách đối trị: cách thức xử sự với một cảm xúc tiêu cực là nghĩ
tới cảm xúc đối nghịch. Khi ta cảm thấy giận dữ, ta nghĩ tới điều gì làm sinh
khởi lòng từ và bi, là điều sẽ thay thế cho sự giận dữ. Ta không đàn áp giận
dữ, ta chỉ cố gắng cảm nhận lòng từ và bi thay vì giận dữ. Sẽ là sự đàn áp khi
ta tràn đầy sân hận nhưng không biểu lộ ra, trong khi ở đây thì hoàn toàn khác
biệt: ta quên đi sự giận dữ và chỉ nghĩ đến từ và bi. Giận dữ không còn hiện
diện nữa. Nó giống như việc ta làm ấm căn phòng để cái lạnh biến mất. Ta không
“đè nén” cái lạnh; ta chỉ làm ấm căn phòng. Đó là cách thức của các Thanh Văn,
con đường Phật giáo nói chung, cấp bậc đầu tiên.
Phương pháp thứ hai
để xử sự với những cảm xúc của ta là phương pháp của Đại thừa, điểm chính yếu
của nó là sự hiểu biết về tánh Không cùng với phương pháp nói trên. Nói cách
khác, nếu ta thấu hiểu bản tánh đích thực của sự giận dữ, chân tánh của tâm,
khi giận dữ xuất hiện, tất cả những gì ta phải làm là suy niệm rằng không có
điều gì chọc giận ta, không có người giận dữ, và không có sự giận dữ bên trong
ta hiện diện một cách độc lập. Để đến được sự hiểu biết này, ta có hai phương
pháp, đó là phân tích và thiền định. Ta có thể tiếp cận cảm xúc bằng cách phân
tích nó một cách thông tuệ, hay ta có thể suy niệm nó bằng sự thiền định: ta để
cơn giận tràn ngập ta và ta nhìn vào nó. Khi đó ta sẽ khám phá ra rằng cơn giận
đó không hiện hữu một cách độc lập. Trong cả hai trường hợp, sự giận dữ biến
mất. Chính xác hơn, ta khám phá rằng không có điều gì mà ta có thể tách biệt ra
là “tôi” hay “giận dữ.” Giận dữ biến mất nhờ sự hiểu biết của ta, nhờ việc ta
nhận ra chân tánh của các hiện tượng và của tâm ta. Đó là cách thức của
Madhyamika,2con đường của các Bồ Tát.
Cuối cùng có phương
pháp của Kim Cương thừa, là việc hoàn toàn chấp nhận sự giận dữ như nó hiển lộ.
Ta nhìn giận dữ xuất hiện và ta để nó đến mà không phản kháng lại nó. Khi đó ta
buông lỏng vào sự giận dữ, giận dữ sẽ tự biến mất. Nó không thể tác động đến
chúng ta nữa bởi ta không có cảm xúc tiêu cực đối với nó. Ta không ủng hộ nó mà
cũng không chống lại nó: ta ý thức về sự hiện diện của nó nhưng không dính mắc
vào nó. Ta chỉ để bản thân ta nghỉ ngơi trong sự giận dữ này, tự nó tan biến và
chuyển hóa thành trí tuệ. Trong trường hợp này ta nói về “sự giải thoát (khỏi
cảm xúc) bằng trí tuệ.”
Đây là ba phương pháp
của Phật giáo để kiểm soát cảm xúc. Hãy nỗ lực sử dụng cả ba phương pháp trong
trường hợp này hay theo thứ tự ngẫu nhiên.
Những
Dấu hiệu và Lợi ích của việc Phát triển lòng Từ Ái
Nhờ sự tu tập này, dần dần chúng ta học cách
sống mà không cảm thấy thù ghét ngay cả đối với kẻ thù. Càng ngày chúng ta càng
phát triển lòng từ ái. Các bản văn nói rằng lòng từ ái có thể được coi là chân
thật khi nước mắt trào ra từ đôi mắt ta và ta nổi gai ốc khi nghĩ đến những khổ
đau của chúng sinh. Nếu đó là những gì ta cảm nhận đối với tất cả chúng sinh,
ta có thể nói về lòng từ và bi vô lượng. Nếu ta không còn quan tâm đến lợi lạc
cá nhân mà mối bận tâm duy nhất của ta là hạnh phúc của người khác, thì ta đã
phát triển lòng từ ái một cách toàn hảo.
Thực hành này khiến
ta tích tập những công đức to lớn nhất. Gampopa trích dẫn Tràng Hoa Quý báu:3 “Công đức của việc bố thí ba lần mỗi
ngày, mỗi lần ba trăm món ăn thích hợp cho một vị vua, thì thậm chí không thể
so sánh với công đức được tạo ra bởi lòng từ ái chỉ trong chốc lát.” Gampopa
cũng đề cập đến tám kết quả tích cực của việc nuôi dưỡng lòng từ ái, được liệt
kê trong cùng bản Kinh đó: được trời và người yêu mến, được trời và người bảo
vệ, có tâm thức hoan hỉ, gặp những hoàn cảnh vừa ý, không là nạn nhân của việc
đánh thuốc độc, không bị vũ khí làm bị thương, có thể thành tựu hầu hết các ước
nguyện, và cuối cùng, được sinh trong các cõi linh thánh. Tám kết quả này kéo
dài cho tới khi ta chắc chắn được giải thoát khỏi sinh tử.
Có nhiều câu chuyện
minh họa những kết quả tích cực của việc thiền định về lòng từ và bi. Một trong
những câu chuyện này nói về một tinh linh xấu ác vô cùng quyền uy mà có lần
viếng thăm trại của một Lạt ma. Hắn đi tới đi lui trong trại mà thậm chí không
ai nhìn thấy hắn. “Tất cả những Lạt ma này thật là vô dụng,” hắn nghĩ. “Ta có thể
làm tất cả những điều ác hại nào ta thích đối với bất kỳ ai trong bọn họ.” Hắn
đi thẳng tới lều của Lạt ma cao cấp nhất. Hắn nhìn thấy một ông lão nhỏ bé đang
ngồi trong hộp thiền định. Hắn đi vào và ngồi trên đầu vị Lạt ma, nghĩ rằng
mình có thể đè bẹp ngài. Nhưng vị Lạt ma già không kháng cự. Thay vào đó, thân
ngài bắt đầu bẹt ra, và vì thế ngài bắt đầu cười. Ngài co rút lại nhưng cười
mãi không thôi. Thình lình tinh linh xấu ác cảm thấy thật buồn bã. Vị Lạt ma
già càng cười thì tinh linh càng cảm thấy buồn. Hắn bắt đầu kêu khóc và không
thể ngừng lại. Hắn khóc lóc thảm thiết và bỏ đi. Trong hơn một năm hắn không
thể làm hại ai, thậm chí không thể nghĩ tới điều đó. Vị Lạt ma già đã từng
thiền định về lòng từ và bi.
Việc thiền định về
lòng từ bảo vệ ta giống như một áo giáp che chở khỏi mọi tác động xấu. Tốt hơn
nữa, thiền định này cho phép ta giúp đỡ và được giúp đỡ. Khi ta cảm thấy được
chăm sóc tốt đẹp, được trợ giúp bởi những gì mà ta có thể gọi là các năng lực
tích cực, điều đó không phải là “năng lực” bên ngoài mà là lòng từ ái của chính
ta đang vận hành. Việc chữa lành bằng lòng từ là một phương pháp truyền thống
vô cùng hữu hiệu!
PHÁT TRIỂN LÒNG BI MẪN4
Phương diện thứ hai của cách đối trị thứ ba
là sự phát triển lòng bi mẫn.
Lòng bi mẫn là cốt lõi,
là tinh túy của tất cả giáo lý của Đức Phật. Nếu bạn thấu hiểu lòng bi mẫn là
gì và thực hành nó thì bạn thực hành Phật giáo. Không có lòng bi mẫn, bạn không
thực hành Phật giáo.
Đức Phật cũng nói
rằng nếu bạn có lòng bi mẫn, bạn sở hữu tất cả các giáo lý và thực hành của Đức
Phật. Nếu bạn thiếu lòng bi mẫn, bạn chẳng hiểu biết gì.
Giống như ta đã phân
biệt ba hình thức của lòng từ ái, cũng có ba hình thức của lòng bi mẫn:
- Liên
quan tới chúng sinh, - Liên
quan tới Giáo Pháp, và - Không
có sự liên quan (quy chiếu).
Loại bi mẫn đầu tiên
phát khởi trong ta khi ta nhìn thấy cảnh khốn khổ, những vấn đề, và những đau
khổ của chúng sinh. Chúng ta mủi lòng, xúc động, và ước muốn giúp đỡ họ thoát
khỏi nỗi khổ của họ. Ta muốn làm điều gì đó cho họ.
Loại bi mẫn thứ hai
đánh dấu sự tăng trưởng mức độ hiểu biết của ta. Giai đoạn đầu tiên thì đầy cảm
xúc, và bản thân ta đau đớn trước cảnh tượng khốn khổ của chúng sinh. Việc đi
vào cấp độ bi mẫn thứ hai cho thấy sự hiểu biết của ta về Giáo pháp và về Bốn
Chân lý Cao quý (Tứ Diệu Đế) – và vì thế
lòng bi mẫn của ta – thì sâu sắc hơn.
Loại bi mẫn thứ ba
xuất hiện với sự hiểu biết toàn hảo, sự hoàn toàn chứng ngộ chân tánh của các
sự việc, của tánh Không. Khi đó ta nhận thấy thật rõ ràng là thực ra những
chúng sinh quá nhiều đau khổ đó không nhất thiết phải đau khổ. Họ đau khổ do
bởi mê lầm, bởi họ suy nghĩ và nhìn các sự việc theo một cách thức sai lầm. Nếu
họ có thể nhìn vào các sự việc một cách khác biệt, không khái niệm hóa, thì họ
có thể thoát khỏi mọi đau khổ. Lòng bi mẫn trở nên vô cùng mạnh mẽ khi ta nhận
ra rằng những đau khổ, mặc dù hiện diện ở khắp nơi, thực ra không có nền tảng
và dễ bị tiệt trừ. Điều tách rời chúng sinh với sự giải thoát là một bức vách
mỏng manh như thế! Và tuy thế, do bởi vô minh, bởi hiểu sai chân tánh của các
sự việc, đau khổ của họ thật dữ dội và hoàn toàn vô ích. Khi bản thân ta đã đi
tới mặt bên kia của vấn đề, ta nhận ra sự phí phạm, là điều khiến cho một lòng
bi mẫn lớn lao sinh khởi thật tự nhiên trong ta. Đồng thời, ta mất mọi điểm quy
chiếu nhờ hiểu rằng trong cách thế thực sự, vững chắc, thực có thì không hề có
chúng sinh đau khổ. Dĩ nhiên, ở một bình diện tương đối – nghĩa là từ quan điểm
của riêng họ – họ đau khổ ghê gớm. Sự hợp nhất của trí tuệ và lòng bi mẫn phát
khởi từ việc nhận ra chân tánh của các sự việc. Đây là tâm yếu của Đức Phật:
lòng bi mẫn không có sự quy chiếu.
Loại bi mẫn cuối cùng
này là hình thức khách quan của hai loại bi mẫn trước, nhưng dĩ nhiên là để bắt
đầu, ta phải phát triển lòng bi mẫn với sự quy chiếu (bi mẫn có điều kiện) đối
với chúng sinh.
Phương pháp cho phép
ta phát triển lòng bi mẫn thì giống hệt phương pháp được dùng để phát triển
lòng từ ái. Ta quán tưởng mẹ của ta và hình dung bà đang trải qua đau khổ ghê
gớm. Hãy hình dung bà đang bị hành hạ: lòng bi mẫn của chúng ta sẽ dữ dội biết
bao! Hiện nay những chúng sinh khác, như những chúng sinh bị tái sinh trong địa
ngục, phải liên tục chịu đựng những hành hạ ghê gớm như thế! Theo truyền thống
của chúng tôi, ta nghĩ tới bà mẹ của ta, nhưng thay vì bà mẹ, bạn có thể quán
tưởng tới người mà bạn cảm thấy lòng từ ái to lớn nhất và hình dung bạn vô cùng
yêu thương người ấy, làm thế nào bạn có thể đứng yên nếu có điều gì không hay
xảy ra cho người ấy. Khi đã phát triển cảm xúc mãnh liệt này, bạn cố gắng trải
rộng nó tới chúng sinh khác, biết rằng
với tất cả những chúng sinh đó, bạn từng có mối liên hệ tương tự như mối liên
hệ mà bạn hiện có với người này. Chúng ta đã lang thang trong sinh tử lâu dài
tới nỗi ở một thời điểm nào đó, tất cả các chúng sinh đều là những bà mẹ, thân
quyến, hay bằng hữu của ta. Tất cả những chúng sinh này đều có lòng từ ái và
thiện lành đối với ta tương tự như lòng từ ái và thiện lành mà bà mẹ của ta đã
trải rộng cho ta trong đời này. Vì thế cũng là bình thường khi ta cảm nhận lòng
từ, bi và sự biết ơn tương tự mà ta cảm thấy đối với bà mẹ trong đời này của
ta. Ý niệm căn bản là nếu ta có thể yêu thương một người một cách mãnh liệt,
thì ta có thể phát triển cùng loại cảm xúc đó đối với hai, mười hay một ngàn
người hoặc hơn nữa. Trước tiên, ta phát triển lòng nhân từ và bi mẫn đối với
những người gần gũi ta, và sau đó ta mở rộng những cảm xúc này tới những người
ta cảm thấy dửng dưng, và cuối cùng bao gồm những kẻ thù của ta.
Thay vì hình dung bà
mẹ của ta hay người nào thân thiết với ta, ta cũng có thể hình dung những gì ta
sẽ kinh nghiệm nếu bản thân ta phải chịu đựng những hành hạ không thể chịu đựng
nổi ở các cõi địa ngục khác nhau, và theo cách này phát triển một lòng bi mẫn
to lớn đối với tất cả chúng sinh đang phải đau khổ như thế. Tất cả chúng sinh
đều tìm kiếm sự sung sướng, hạnh phúc, yên bình, và an ổn, nhưng bởi vô minh
nên họ làm điều hoàn toàn trái ngược với những gì bảo đảm cho hạnh phúc lâu dài
mà họ tìm kiếm. Họ đã tích tập ác nghiệp và liên tục thâu thập nguyên nhân của
những đau khổ theo sau – giống như những người mù đi loanh quanh giữa một sa
mạc nóng cháy, không biết cách nào ra khỏi nơi đó. Chúng ta khao khát hạnh phúc
và sợ hãi đau khổ, và ở điểm này thì chúng sinh khác cũng không có gì khác biệt
chúng ta. Khi ta nhận ra sự hiển nhiên này, ta ước muốn cứu giúp họ một cách tự
nhiên.
Ta càng phát triển
lòng bi mẫn thì nó càng trở nên tự nhiên hơn. Khi ta thiền định sâu xa và liên
tục về lòng bi mẫn, ta đi tới một cấp độ ở đó ta là lòng bi mẫn, và mọi sự ích kỷ, mọi tánh duy ngã sẽ biến mất. Đây
là cái ta gọi là sự hoàn toàn thành tựu lòng bi mẫn.
Gampopa trích dẫn Bản văn Bàn về sự Chứng ngộ của Đức Quán Thế
Âm, trong đó nói: “Nếu có một thứ có thể đặt trong bàn tay ta để tượng
trưng cho những phẩm tính của Đức Phật, cái đó là gì? Đó là lòng đại bi!” Ngài
cũng trích dẫn Kinh điển Bí mật của các
Đấng Như Lai,5 trong đó nói: “Trí tuệ cốt tủy nguyên sơ thấu
biết tất cả được bắt rễ nơi lòng bi mẫn.”
Nếu bạn đã phát triển
lòng từ ái ước muốn hạnh phúc cho tất cả chúng sinh, và lòng bi mẫn thúc đẩy
bạn giải thoát tất cả khỏi sự đau khổ, có thể là bạn sẽ không còn quan tâm đến
việc giải thoát riêng một mình bạn nữa và một cách tự động, dù bạn có muốn hay
không, trong thực tế bạn đã trở thành một Bồ Tát.
Để trở thành một vị
Phật toàn giác, trước hết bạn cần trở thành một Bồ Tát. Vì thế sự phát triển
lòng từ và bi là con đường chân thật, trực tiếp dẫn tới giác ngộ.
Ngay cả trên một bình
diện tương đối, việc có một trái tim tràn đầy lòng từ và bi có thể giúp chúng
ta giải quyết những khó khăn nhất thời của ta. Nếu ta chỉ nhân từ và bi mẫn,
làm thế nào ta có thể có những vấn đề về tinh thần hay tâm lý? Những vấn đề như
thế phát sinh từ lòng vị kỷ, từ sự bám luyến vào cái ngã của ta và sự sợ hãi là
kết quả. Không bám luyến thì không có sự sợ hãi, và không sợ hãi thì không có
các vấn đề!
Lòng khoan dung có
thể là bước đầu tiên hướng tới lòng bi mẫn. Khoan dung có nghĩa là tha thứ,
không ôm giữ sự hận thù, cố gắng hiểu biết sâu xa hơn những động lực của người
khác, và không lấy oán báo oán, một thái độ căn bản từ đó lòng bi mẫn có thể
phát khởi. Lòng bi mẫn cố gắng giải quyết các vấn đề trên căn bản này. Điều này
có nghĩa là nếu có người muốn làm hại bạn, bạn không dùng sự thù ghét để đáp
lại thù ghét, và ở tuyệt đỉnh của nó, bạn ước muốn giúp đỡ những đối thủ của
bạn thoát khỏi hận thù và những nguyên nhân của nó.
Tuy nhiên ta không
nên lẫn lộn khoan dung với sự thụ động. Khoan dung không có nghĩa là chịu đựng
mọi sự, để cho ta bị lợi dụng và bị đánh đập. Ta nên bi mẫn và làm những điều
tốt lành cho người khác – và bản thân ta. Cũng có một vài điều ta không nên
khoan dung, chẳng hạn như những độc chất trong tâm. Khoan dung không thích hợp
với sự sân hận của ta: ta không nên để cho sân hận phát triển và chế ngự ta.
Khoan dung không thích hợp với những người giết hại và áp bức những người khác,
và ta không nên để họ làm điều đó. Ta không nên dùng đến bạo lực, vũ khí hay sự
xung đột, nhưng ta cũng không chấp nhận mọi sự một cách thụ động. Ta nên kiên
quyết bảo vệ những gì ta cân nhắc đúng đắn, nhưng tránh làm hại người khác càng
nhiều càng tốt.
Chú thích:
1. jampa (byamspa); Phạn. maitri.
2. Trung Đạo, một trong những trường phái triết học của Phật giáo Đại thừa.
3. Ratnavali.
4. nying je (snying rje); Phạn. karuna.
5. Tathagatacintyaguhyanirde.
Tríchdịch trong nguyên tác: “Path to Buddhahood –
Teaching on Gampopa’s Jewel Ornament of Liberation” (Con
Đường dẫn đến Phật Quả – Giáo huấn về Pháp Bảo của sự Giải thoát của Đức
Gampopa) của
Ringu Tulku Thanh
Liên dịch sang Việt ngữ
Discussion about this post