PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC
Hoang Phong chuyển ngữ
Trong lá thư tháng 9 năm 2013 (http://www.bouddhismes.net/node/1659) của Viện Nghiên Cứu Phật Học Pháp gửi cho các thành
viên có giới thiệu một bài báo nói về Phật Giáo Trung Quốc đã đăng trên trang
web Fait-religieux.com (http://www.fait-religieux.com/monde/asie_pacifique/2013/06/16). Xin chuyển ngữ dưới
đây.
Một sự đổi mới thật ngoạn mục thế nhưng cần phải hiểu với sự thận trọng
Năm 1980 số
nhà sư sót lại
trên lãnh thổ Trung Quốc vào khoảng vài nghìn người. Năm 1994 tông phái Đại
Thừa của Phật Giáo Hán gồm có khoảng 40 000 sư sãi và những người mới tu; năm
1997 con số này là 70 000 người, và vào giữa các năm 2006-2007 là 100 000 người.
Nói chung tỷ số gia tăng là 8% mỗi năm trong khoảng thời gian từ 1994 đến 2006.
Sự
đổi mới đó có vẻ thật ngoạn mục, thế nhưng phải cần thận trọng: trước năm 1949
và trước khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CCP) nắm chính quyền, Phật Giáo Hán gồm ít
nhất là 500 000 nhà sư. Nói cách khác là
trong sáu mươi năm con số các nhà sư tụt xuống còn 1/5, trong khi đó thì dân số
tăng lên gần gấp đôi.
Năm
1980 còn lại khoảng một trăm ngôi chùa Phật Giáo trên lãnh thổ Trung Quốc, con
số này tăng lên 5 000 vào năm 1994; 8 000 vào năm 1997, 15 000 vào năm 2006, và
ngày nay vẫn tiếp tục gia tăng. Có nhiều Ngôi
nhà Phật (nguyên
văn là Maisons de Bouddha, đại khái có nghĩa là chùa chiền không chính thức)
và các Ngôi Nhà dùng làm nơi tụng niệm
(nguyên văn là
Maisons pour la citation des soutra, có thể đây là các Tịnh xá?) mang
ít nhiều tính cách tư nhân và không được đưa vào con số thống kê chính thức về
chùa chiền.
Trước
năm 1949 có 40 000 ngôi chùa.
Phật Giáo Hán là tôn giáo được nhà nước ưu đãi
Ký giả phỏng vấn: Patricia Zhou
(Patricia Châu)
Hình bên: Zhe Ji (Kiết Tường)
Zhe Ji là một vị giảng sư (maître de
conférence / lecturer) của Viện Quốc Gia về Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương INALCO
(Institut
nationnal des langues et civilisations orientales / một cơ quan nghiên cứu và
giảng dạy về các ngôn ngữ và văn minh Đông Phương, được thành lập từ thế kỷ
XVII dưới triều đại của vua Louis XIV, cơ quan này trực thuộc Bộ Giáo Dục Đại Học
và Khảo Cứu, trụ sở đặt tại Paris, quận XIII) chuyên ngành về xã hội
học và lịch sử tôn giáo Trung Quốc. Từ năm 2010 Zhe Ji được giao trọng trách hướng
dẫn một chương trình mang tầm vóc quốc tế nhằm nghiên cứu về “Phật Giáo
sau thời kỳ Mao”, với sự tài trợ của thành phố Paris trong khuôn khổ một
chương trình lớn hơn mang tên là “Sự Bùng Lên” (Emergence / có thể dịch là sự Xuất Hiện).
Người ta nhận thấy rằng từ thập
niên 1980 đã có một sự đổi mới về tôn giáo trên lãnh thổ nước Công Hòa Nhân Dân
Trung Quốc (People’s Republic of China, PRC). Vậy đối với Phật Giáo thì như thế
nào?
Vào thập niên 1980, Phật Giáo vẫn còn
trong tình trạng phải gặp nhiều khó khăn, mặc dù nhà nước ban hành một chính sách
mới về tự do tôn giáo. Các cơ quan chính phủ vẫn tạo nhiều khó khăn trong việc
trùng tu chùa chiền. Hơn nữa các nhà sư lại không có một nguồn tài trợ nào cả.
Những người Phật Giáo Trung Quốc phải nhờ vào sự giúp đỡ tài chính từ nước ngoài
như Hồng Kông, Đài Loan, các nước Đông Nam Á cũng như các nước Á Châu khác, chẳng
hạn như Nhật Bản và Hàn Quốc, trong việc trùng tu chùa chiền và tu viện.
Vào giữa thập niên 1990 người thế tục
mới bắt đầu hoặc trở lại quan tâm đến Phật Giáo . Nhờ kinh tế phát triển nên sự
thu nhập của họ cũng có phần khả quan hơn. Người Trung Quốc trên lục địa từ đó
mới bắt đầu dần dần tham gia vào việc tài trợ các công trình tùng tu chùa chiền.
Có đúng là chùa chiền và tu viện
đã bị tàn phá trong thời kỳ Cách mạng văn hóa hay không?
Không đúng như thế. Không nhất thiết là chùa chiền bị tàn phá, mà chỉ bị
trưng dụng để làm nơi sinh hoạt mang tính cách dân sự. Chùa chiền trở thành trường
học, cơ xưởng hay trụ sở chính quyền… Ngay cả ngày nay nhiều cảnh chùa vẫn chưa
được trả lại cho Phật Giáo.
Có bao nhiêu người theo Phật
Giáo ở Trung Quốc?
Theo kết quả các thống kê gần đây nhất
có khoảng từ 10% đến 20% dân chúng Trung Quốc ở tuổi trường thành tự nhận mình
là người Phật Giáo. Thật ra không thể nào biết chính xác được số người theo Phật
Giáo, bởi vì theo Phật Giáo không cần phải qua một nghi lễ chính thức nào cả chẳng
hạn như trường hợp của Thiên Chúa Giáo, hơn nữa bản tính của người Trung Quốc
không cố chấp về các vấn đề này. Vì thế các con số thống kể chỉ có tính cách phỏng
đoán. Theo kết quả của một cuộc nghiên cứu gần đây thì vào năm 2003 có 100 triệu
người Phật Giáo, và trong số này có 90.5 triệu người theo Phật Giáo Hán thuộc tông
phái Đại Thừa (người Hán là một sắc dân
đa số ở Trung Quốc và gồm 92% dân số – ghi chú trong bản gốc) và 7.6 triệu
người theo Phật Giáo Tây Tạng. Ngoài ra cũng có 1.5 triệu người theo Phật Giáo Theravada,
hầu hết thuộc sắc tộc Dai (sắc tộc Thái?) sinh sống ở tỉnh Vân Nam thuộc
nam Trung Quốc.
Hiện nay, trong số năm tôn giáo
chính thức được công nhận – là Phật Giáo, Lão Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và
Hồi Giáo (xin
lưu ý là trong số này không có Khổng Giáo) – Phật Giáo có số tín đồ và
những người xuất gia đông đảo hơn cả. Người ta ước tính số người Phật Giáo Hán
thuộc tông phái Đại Thừa là hơn 100 triệu người, tôi nghĩ rằng con số này không
quá đáng.
Chính quyền có chấp nhận sự
bành trướng của Phật Giáo hay chăng?
Có. Phật Giáo Hán thuộc tông phái Đại
Thừa hiện nay là tôn giáo mà chính quyền Trung Quốc ưu đãi nhất. Sự kiện này xảy
ra là vì nhiều lý do. Trước hết, Phật Giáo là một tôn giáo toàn cầu và đã tạo
được một hình ảnh đẹp ở Á Châu cũng như trong thế giới Tây Phương, trong khi đó
Lão Giáo chỉ giới hạn trong các xã hội Trung Quốc. Chính quyền dựa vào các khía
cạnh sinh động của Phật Giáo để phô trương cho mọi người biết là có tự do tôn
giáo ở Trung Quốc. Phật Giáo còn là một mối dây liên kết buộc chặt các xã hội
và các dân tộc Á Châu; Bắc Kinh lợi dụng mối dây liên hệ đó trong chính sách đối
ngoại của mình từ những năm 1950. Một thí dụ điển hình là “Diễn đàn Phật
Giáo thế giới” (Forum Mondial du Bouddhisme) do chính quyền Trung Quốc dàn
cảnh từ năm 2006. Diễn đàn này được tổ chức ba năm một lần và đã lôi kéo được
hàng trăm các đại biểu Phật Giáo trên thế giới, tất nhiên là ngoại trừ những
người Phật Giáo trung thành với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma.
Hơn nữa, các biến cố xảy ra năm 1999
liên quan đến phong trào Pháp Luân Công cũng đã khiến cho chính quyền ý thức được
là phải chú ý đến nhu cầu tôn giáo trong dân chúng. Ngày 25 tháng 4 năm 1999 Pháp
Luân Công đã huy động được hàng ngàn người kéo nhau đến trước trụ sở trung ương
của chính phủ ở Bắc Kinh để hô hào phản
đối. Sau biến cố đó phong trào này, dù đã quy tụ được ngay từ lúc đầu hàng triệu
tín đồ, được xếp vào các giáo phái cần phải đàn áp. Sau vố đó của Pháp Luân Công
(trong nguyên bản
là chữ échauder / scald / bị bỏng) chính quyền Trung Quốc bắt đầu quay
sang ủng hộ Phật Giáo Hán nhằm đặt tôn giáo này dưới sự canh chừng chặt chẽ và sử
dụng tín ngưỡng này để tràn ngập thị trường tôn giáo.
Pháp Luân Công tất nhiên không phải
là đối thủ duy nhất của chính quyền trên mặt tôn giáo. Thật không có một chút
nghi ngờ nào cả, tôn giáo đang phát triển nhanh nhất hiện nay ở Trung Quốc là
Tin Lành – nhất là nhóm Phúc Âm (Evangile / Gospels). Tin Lành tỏ ra rất tích cực
và yêu sách rất mạnh. Những người theo Tin Lành có nhiều mối dây liên lạc với
nước ngoài, họ không ngần ngại nêu lên vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền. Những
người theo Tin Lành tổ chức cả một hệ thống riêng cho họ, bắt đầu từ trong gia đình
cho đến làng mạc, thật hết sức khó để kiểm soát. Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo cũng
gây cho nhà nước Trung Quốc nhiều khó khăn trên mặt ngoại giao và chính sách sắc
tộc. Do đó chính quyền bèn quay sang dùng Phật Giáo như một phương tiện nhằm ngăn
chận sự bành trướng của các tôn giáo ấy.
Sau hết là trên phương diện đối nội, chính phủ
ủng hộ Phật Giáo cũng là nhắm vào mục đích kinh tế. Kể từ năm 1990 các cơ quan
chính quyền địa phương rất hăng say trong việc xây dựng và trùng tu chùa chiền
nhằm gia tăng thêm việc buôn bán và thu hút khách du lịch. Chính quyền đang mong
ngôi chùa Xingjiao ở Tây An (Xi’An) thuộc tỉnh Sơn Tây (Shanxi) sẽ được đưa vào
danh sách di sản thế giới của tổ chức Liên Hiệp Quốc UNESCO (xem hình của hãng
thông tấn AFP).
Các cơ quan chính quyền quản
lý Phật Giáo bằng cách nào?
Việc kiểm soát trực thuộc Văn Phòng Cục
Tôn Giáo (Bureau
des Affaires Religieux, BAR) qua trung gian của tổ chức chính thức là
Tổng Hội Phật Giáo. Tuy nhiên Văn Phòng Tôn Giáo này đôi khi cũng can thiệp trực
tiếp: chẳng hạn như trực tiếp kiểm soát người giữ chức vụ quan trọng nhất là vị
Tổng Thư Ký của Tổng Hội, bởi vì vị này nằm giữ tất cả quyền hành, trong khi vị
chủ tịch của Tổng Hội thì chỉ giữ trọng trách hành lễ. Vị Tổng Thư Ký hiện nay
của Tổng Hội là một cựu nhân viên của Văn Phòng Cục Tôn Giáo và đã được chính cơ
quan này cử sang làm Tổng Thư Ký cho Tổng Hội Phật Giáo.
Văn Phòng Cục Tôn Giáo giám sát việc
lập danh sách và quản lý các người tu hành cũng như các nơi thờ phụng. Các tu
viện lớn nếu muốn tổ chức các buổi lễ thụ phong thì phải có sự chấp thuận của Văn
Phòng Cục Tôn Giáo và Hội Đồng Nhân Dân (Association Nationale).
Chính quyền cũng đứng ra kết hợp các
chức sắc lãnh đạo Phật Giáo nhằm đưa họ vào hệ thống chính trị của nhà nước, chẳng
hạn như cách đặt họ vào các chức vụ trong Hội Đồng Nhân Dân Quốc Gia (Assemblée
Populaire Nationale, APN / National People’s Congress, NPC) hoặc là Hội Nghị Cố
Vấn Chính Trị Nhân Dân Trung Quốc (Conférence Consultative Politique du Peuple
Chinois, CCPPC / Chine People’s Political Consultative Conference, CPPCC). Các
biện pháp này là do Mặt Trận Thống Nhất chủ xướng, một cơ quan trực thuộc Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (Parti Communiste Chinois, PCC / Chinese Communist Party,
CCP) giữ trọng trách điều hành các “tập thể xã hội”, trong đó gồm có
cả các “tập thể tôn giáo”.
Tinh trạng tài chính của chùa
chiền như thế nào?
Tình trạng tài chính của 15 000 chùa
chiền nằm trong danh sách chính thức rất khác biệt nhau. Các ngôi chùa ở những
nơi du lịch hoặc trung tâm các thành phố lớn thường có những nguồn tài chính
quan trọng hơn so với những ngôi chùa nhỏ ở các vùng hẻo lánh.
Tình trạng tài chính của các ngôi chùa
nổi tiếng, chẳng hạn như ngôi chùa Lingyin ở Hàng Châu (Hangzhou), hay các ngôi
chùa trong vùng núi Wutai ở Sơn Tây (Shanxi) rất khả quan, nhờ vào sự cúng dường
của Phật tử. Trường hợp của một ngôi chùa lớn ở Thượng Hải là một thí dụ cho thấy
một ý niệm nào đó về sự kiện trên đây: trong hai tuần lễ liền vào dịp Tết Nguyên
Đán, ngôi chùa này thu được 10 triệu nhân dân tệ tiền cúng dường (hơn một triệu
euros).
Hầu hết các chùa lớn đều có một vị
thầy nổi tiếng, và các chùa này sống nhờ vào tiền cúng dường của các đệ tử các
vị ấy. Ngoài ra một số chùa còn có thêm một nguồn lợi tức khác nữa mang lại bằng
cách tổ chức các nghi lễ (cầu siêu, cầu an…), đảm trách việc cúng dường,
nhất là nhờ các dịp ma chay.
Du lịch có phải là một nguồn
thu nhập tài chính của các chùa lớn hay không?
Không đúng như thế. Du lịch và vé vào
cửa có thể là một nguồn thu nhập đối với các chùa không được nhiều người biết đến,
hoặc không có các vị thầy nổi tiếng trụ trì. Đối với các chùa lớn và nổi tiếng thì
tiền cúng dường là nguồn tài chính quan trọng nhất.
Tuy nhiên cũng có một trường hợp ngoại
lệ là ngôi chùa Thiếu Lâm ở Hà Nam (Henan), nổi tiếng nhờ vào truyền thống lâu
đời về võ thuật. Ngôi chùa này sống nhờ vào du lịch, các Phật tử không cúng dường
nhiều vì họ cho rằng chùa tận dụng quá đáng các hình thức buôn bán và các phương
tiện truyền thông. Mỗi năm nhờ vào tiền bán vé chùa thu vào hàng nhiều triệu
euros. Thế nhưng 70% thì lại lọt vào ngân quỹ chính quyền địa phương, phần của chùa
chỉ còn 30%, hơn nữa việc chi tiêu 30% ấy còn phải đặt dưới sự kiểm soát của một
kế toán viên do chính quyền địa phương cử đến.
Hơn thế nữa trước đây vị trụ trì chùa
Thiếu Lâm là Shi Yongxin đã nhiều lần xin phép chính quyền địa phương cho tín đồ
và các người du lịch đến viếng chùa miễn phí nhưng không được chấp thuận, lý do
là có sự tranh dành quyền lợi về tài chính giữa chính quyền địa phương và chùa,
và hơn nữa chính quyền địa phương cũng không muốn sự kiện ấy có thể làm lu mờ
uy thế của mình nơi địa phương. Các nhà sư Thiếu Lâm nổi tiếng là giỏi võ nghệ
(xem hình D.R.).
Ngoài ra chùa chiền còn có các nguồn lợi nào khác nữa hay
chăng?
Có. Các xí nghiệp hợp doanh với chính quyền địa phương
trong các dự án xây cất chùa chiền ở các nơi du lịch thì thường sau đó phải thuê
các nhà sư đảm trách cho việc lễ lạc. Các xí nghiệp kinh doanh trong ngành du lịch
hễ thấy nơi nào có di tích văn hóa – chẳng hạn như có chùa chiền – thì xem đấy
là một nơi có nhiều lợi điểm và sẵn sàng đầu tư vào các nơi này. Nhiều trường hợp
xảy ra thật hết sức ngoạn mục, chẳng hạn như ngôi chùa Nanshan (Nam Sơn) ở Hải
Nam (Hainan). Ngược lại các công trình xây dựng các pho tượng Phật khổng lồ thường
thấy tổ chức khắp nơi chỉ nhờ vào các đóng góp tư nhân. Các công trình này không
cần đến ngay cả sự kêu gọi cúng dường của các vị tu hành.
Ngoài ra cũng có những người Phật Giáo tự thành lập các
khu du lịch nhằm góp phần phát triển kinh tế địa phương. Trong trường hợp này có
thể nêu lên một thí dụ điển hình là ngôi chùa Li Li Gucheng ở tỉnh Cam Túc
(Gansu). Một Phật tử nhờ tiền cúng dường đã xây dựng được một khu du lịch thật
đồ sộ theo kiến trúc La Mã, và trong khu du lịch này nhiều toà nhà được dành riêng
cho việc thiền định.
Các tín đồ Phật Giáo nói chung không thích trông thấy các hình
thức sinh hoạt du lịch như thế, bởi vì theo họ chùa chiền phải được dành cho việc
tu hành và một cuộc sống khắc khổ. Du lịch chỉ là một hình thức mua bán và trao
đổi dịch vụ, khác hẳn với việc hành hương mang tính cách thiêng liêng, tự
nguyện và bất vụ lợi: người hành hương không bắt buộc phải cúng dường.
Tôn giáo đảm trách vai trò nào trong nền kinh tế Trung
Quốc?
Các sinh hoạt trong lãnh vực tôn giáo đã trở thành một yếu
tố quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Ngành du lịch tôn giáo, đối với tất
cả các tôn giáo nói chung, giữ một vai trò quan trọng đối với các sinh hoạt du
lịch địa phương, cũng như trong việc phát triển kinh tế ở các nơi này. Một số
chùa chiền được xem là các xí nghiệp và được điều hành đúng theo cách quản lý của
các xí nghiệp.
Khuynh hướng đó được chính thức xem như thuộc vào bối cảnh
sinh hoạt chung của Trung Quốc, thật hết sức rõ ràng đấy là một cách thương mại
hóa xã hội (marchandisation
de la société / commercialitisation of the society). Ngày nay chính
các tổ chức chính quyền địa phương cũng được xem như là các xí nghiệp và phải
được quản lý đúng theo nguyên tắc kinh tế thị trường; các trường học, các đại
học cũng như bệnh viện cũng không tránh khỏi nguyên tắc đó…
Trung Quốc ngày nay được quản lý bởi hai nguyên tắc lô-gic
chủ yếu nhất là: quyền lực (pouvoir / power) và thị trường (marché / market).
Tín ngưỡng có phải là một sức mạnh ngăn chận quyền lực hay
không?
Không, hiện nay các chùa chiền quan trọng cũng như các vị
lãnh đạo Phật Giáo Hán nổi tiếng đều cảm thấy thoải mái được nhà nước tin dùng
và đều chấp nhận quy luật thị trường. Họ không hề nghĩ đến việc đi ngược lại
hai nguyên tắc trên đây, cũng không hề đề nghị một giá trị nào đi ngược lại, và
cũng không đủ can đảm tạo áp lực buộc những người nắm giữ quyền hành chính trị
phải tự vấn lương tâm mình trên phương diện đạo đức, hay nghĩ đến là tự mình phải
dấn thân vào các phong trào xã hội. Dầu sao cũng có vài người Phật Giáo dám làm
chuyện ấy với tính cách cá nhân, và không được một sự hậu thuẫn chính thức nào.
Chùa chiền tổ chức các sinh hoạt từ thiện (philantropy),
nhưng lại không trực tiếp tổ chức các chương trình nhân đạo hay tạo ra bất cứ một
phong trào nào, lý do là bất cứ một sự huy động nào không do chính quyền giật dây
đều bị cấm đoán trên lãnh thổ Trung Quốc. Có một sự cách biệt hết sức lớn lao
giữa giữa Phật Giáo Hán và Phật Giáo dấn thân, tương tự như ở Đài Loan và Việt
Nam, chẳng hạn như do thiền sư Thích Nhất Hạnh chủ trương. Ở Trung Quốc nếu nói
lên lòng từ bi thì được cho phép, thế nhưng nếu nói đến khổ đau thì lại là một
việc cấm kỵ. Nếu nêu lên vấn đề khổ đau trong xã hội thì sự chỉ đạo đúng đắn của
Đảng sẽ còn ra gì nữa. Người ta có thể nói đến karma (nghiệp), nhưng không được nói đến
công lý! Thật hết sức đáng tiếc, nếu Phật Giáo Hán từng mang nhiều giá trị tinh
thần thật phong phú và đáng kính thì ngày nay ở nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc
không còn ai nghe thấy một lời phát biểu đạo đức nào nhằm cải thiện một xã hội đang
biến thành con mồi của những sự khủng hoảng giá trị sâu xa. Phật Giáo Hán đã trở
thành một tôn giáo câm nín trước những vấn đề công lý và xã hội.
Vài lời ghi chú của người dịch
Phật Giáo
Hán vào thời kỳ hưng thịnh và siêu việt nhất dưới thời nhà Đường, với các vị đại
sư như Huyền Trang, Nghĩa Tịnh, Huệ Năng…, ngày nay đã trở thành một phương
tiện kinh tế và một công cụ chính trị với các nhà sư “hiền lành” hơn
nhiều. Người ta cũng hiểu rằng nền văn minh Trung Quốc từng đạt được mức phát
triển cao độ nhất ở thời nhà Đường vào các thế kỷ thứ VII và VIII, và sau đó đã
suy tàn dần cho đến ngày nay. Chúng ta cũng chỉ biết hy vọng rằng công cụ Phật
Giáo Hán và nền kinh tế thị trường ngày nay rồi cũng sẽ phục hồi được thời vàng
son đó trong quá khứ của nền văn minh Trung Quốc?
Dầu sao đối
với một người Phật Giáo chân chính thì phải hiểu rằng không sao tránh khỏi nghiệp
do mình tự tạo ra cho mình. Trong lịch sử lâu dài của Trung Quốc, không biết
bao nhiêu cuộc cách mạng đã xảy ra, và mỗi lần đều mang lại thật nhiều đau thương.
Nếu lịch sử không bao giờ dừng lại ở một điểm duy nhất, thì nghiệp cũng không
bao giờ ngủ yên một cách vĩnh viễn, dù ở cấp bậc một quốc gia, một dân tộc, một
xã hội hay một cá thể con người.
Vì thế
thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta, nếu đã tự nhận mình là một người tu tập, và
dù đã xuất gia nơi chùa chiền hay vẫn còn vướng bận trong thế tục, thì đôi khi
cũng nên nhìn lại lương tâm mình, hành động của mình xem có phù hợp với Đạo
Pháp hay không. Đối với những người không tự nhận mình là người Phật Giáo và
xem giáo lý của tôn giáo ấy như một công cụ cho mình tha hồ sử dụng, thì chúng
ta cũng nên chấp tay cầu xin cho họ đôi khi cũng biết nhìn lại lương tâm và hành
động của mình, hầu mở rộng con tim mình để nhìn thấy khổ đau đang bàng bạc
trong gia đình, xã hội và quê hương mình.
Bures-Sur-Yvette, 17.09.13
Hoang Phong chuyển ngữ
_________________________________________________
BÀI ĐỌC THÊM:
●
PHẬT GIÁO TRONG BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Ở TRUNG QUỐC
Discussion about this post