NHÌN LẠI BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma và Howard Cutler
(Hoang Phong chuyển ngữ)
Lời giới thiệu của người dịch:
Howard Cutler một
nhà tâm lý học và thần kinh học người Mỹ nhờ duyên may đã gặp được Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma vào năm 1982 và sau đó đã trở thành một đệ tử thân tín của Ngài. Đến năm
1990 ông đề nghị với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viết chung một quyển sách với chủ đề
hạnh phúc, sách sẽ mang tính cách khá đại chúng dành cho người không theo đạo Phật
cũng như những tín đồ Phật giáo. Sở dĩ ông nêu lên ý kiến này là vì nhận thấy cho
đến lúc ấy Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã cho xuất bản khoảng 30 quyển sách thế nhưng hầu
hết đều dành cho những người Phật giáo và tu học Phật giáo. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã
chấp thuận đề nghị này.
Không lâu sau đó ông
tạm ngưng hoạt động nghề nghiệp và bỏ ra năm năm liền để suy nghĩ và thảo luận
với Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về quyển sách mà ông đã đề nghị. Bản thảo hoàn tất vào
năm 1997, thế nhưng không một nhà xuất bản lớn nào nhận phát hành, viện cớ là
sách của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thì tốt, thế nhưng nếu viết chung với một người
khác thì e rằng sẽ không có độc giả. Howard Cutler may mắn gặp lại một người bạn
cũ làm việc trong ngành in ấn, người này giới thiệu ông với một cơ quan văn hóa
và sau đó là một nhà xuất bản lớn. Quyển sách được xuất bản vào năm 1998 với
tựa đề “Nghệ thuật mưu cầu hạnh
phúc” (ấn bản tiếng Anh: The Art
of Happiness, nxb Riverhead, 1998; ấn bản tiếng Pháp: L’Art du Bonheur, nxb Robert Laffont, 1999). Quyển sách thành công
một cách bất ngờ và được xếp ngay vào danh sách những quyển sách bán chạy nhất
thế giới và được dịch ra năm mươi thứ tiếng. Tờ nhật báo New York Times đã xếp
quyển sách này vào danh mục các sách bán chạy nhất nước Mỹ trong suốt
chín-mươi-bảy-tuần-lễ liên tiếp.
Thế là sau đó quyển
sách “Nghệ thuật mưu cầu hạnh
phúc” số 2 được ra đời vào năm 2004. Nếu quyển số 1 mang nội dung khá
tổng quát và nêu lên nhiều chủ đề khác nhau, thì quyển thứ 2 lại hướng nhiều
hơn vào hạnh phúc cá nhân và môi trường làm việc. Tiếp theo đó đến năm 2009 thì
quyển thứ 3 được phát hành và mang tựa đề là “Nghệ thuật mưu cầu hạnh phúc trong một thế giới nhiễu nhương”
(ấn bản tiếng Anh: The Art of Happiness
in a troubled Word, nxb Doubleday và Random House, 2009; ấn bản tiếng Pháp:
L’Art du Bonheur dans un Monde incertain,
nxb Robert Laffont, 2011, 500 trang). Nội
dung của quyển thứ 3 nêu lên chủ đề mưu cầu hạnh phúc trong bối cảnh chung của xã
hội và nhân loại. Bài chuyển ngữ dưới đây gồm trọn chương VI của quyển sách thứ
3 trên đây (tr.181-202, theo ấn bản tiếng Pháp). Sở dĩ chương này được chọn để
chuyển ngữ vì mang ít nhiều tính cách thời sự của nó, và sau đó là để giới
thiệu quyển sách này với độc giả.
Sáng ngày 11 tháng 9
năm 2001, một biến cố xảy ra làm thay đổi cả bộ mặt thế giới. Trong khi hai tòa tháp của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (World Trade
Center) tại New York sập đổ, thì Đức Đạt-Lai Lạt-Ma vẫn còn đang say giấc trong
một căn phòng ngủ thật khiêm tốn trong gian nhà của Ngài nằm bên một sườn đồi
trong một vùng núi non thuộc miền bắc nước Ấn. Sáng hôm sau, như thường lệ Ngài
thức dậy lúc 4 giờ và bắt đầu ngay các nghi thức công phu quy định cho một người
tu hành Phật giáo. Ngài tụng niệm và thiền định suốt bốn giờ liền. Khi tiếng còi
xung trận vang lên báo hiệu một cuộc chiến mới trên đất Mỹ thì lúc ấy Ngài còn đang
lắng sâu trong thiền định, chung quanh thật yên lặng, chỉ nghe thấy tiếng rơi
thật nhẹ của một cơn mưa cuối mùa trên mái nhà bằng kẽm nơi tư thất của Ngài. Cảnh
vật bên ngoài thật an bình, một bầu không khí êm ả tỏa rộng như ôm cả ngôi làng
heo hút trong một vùng núi non, tất cả vẫn còn chìm sâu trong bóng đêm.
Ít lâu sau biến cố 11 tháng 9, tôi
quay lại Dharamsala tìm gặp Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hầu nối lại các cuộc bàn thảo còn
dở dang. Một năm, hay ít nhất thì cũng gần một năm, đã trôi qua sau khi tôi gặp
Ngài lần sau cùng trong gian phòng này, thế nhưng hình như gian phòng vẫn thế,
không một chút gì thay đổi. Thật ra thì gian phòng vẫn nguyên như thế đã từ hai
mươi năm nay, từ khi tôi đến đây để viếng thăm Ngài lần đầu tiên. Dường như lúc
nào gian phòng cũng gợi lên cái cảm giác rộng mở và an bình, và hôm nay cái cảm
giác đó vẫn còn nguyên, có lẽ là nhờ vào các cánh cửa sổ thật rộng, một bên thì
trông ra một vùng núi cao với các đỉnh non phủ tuyết, một bên thì nhìn xuống thung
lũng Kangra xanh mướt, trải rộng ra đến tận phía chân đồi. Cũng vẫn những tấm
thang-ka cổ xưa treo lủng lẳng trên các bức tường vàng nhạt, đấy là những tấm tranh
mang biểu tượng của nữ thần Ta-ra, tranh được viền bằng những giải lụa đủ màu
sặc sỡ. Tấm bản đồ nổi của xứ Tây tạng vẫn còn đó, vẫn chiếm trọn cả một bức tường,
từ chân tường lên đến trần. Cũng vẫn cái bàn thờ Phật trước đây, trên bàn bày các
ảnh tượng, bát chuông và các ngọn đèn đốt bằng bơ thật tinh xảo, tất cả vẫn giữ
nguyên vị trí không xê dịch một ly. Chiếc ghế độn bông thật đơn sơ của Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma vẫn nằm đấy và cả chiếc trường kỷ mà trước đây tôi vẫn thường ngồi, tất
cả được đặt chung với một chiếc bàn sơn mài thấp màu đỏ sậm. Quang cảnh hiện ra
với tôi không một chút gì thay đổi.
Thật thế, nơi đây tất cả vẫn nguyên
vẹn như xưa. Đang mơ màng ngắm nhìn quang cảnh chung quanh và chìm sâu trong sự
im lìm mênh mông đó, thì bỗng nhiên tôi chợt nghĩ rằng qua những thời gian dài như
thế thì ít ra cũng phải có một chút gì thay đổi chứ. Thật thế những gì thay đổi
chỉ xảy ra ở gian phòng bên cạnh, nơi ngồi chờ của những người đến viếng thăm
Ngài. Hết năm này sang năm khác, các bức tường của gian phòng ngày càng trĩu nặng
thêm vì các phần thưởng, văn bằng danh dự, huân chương và những tấm bảng ngợi
khen đủ loại ngày càng được treo thêm.
Thế nhưng trong khi đó thì thế giới bên
ngoài lại đầy rẫy những biến động. Sau lần viếng thăm cuối cùng của tôi và nhất
là vào những tháng gần đây, đã bùng ra cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, lại
thêm một biến cố nữa của thế giới gợi lên cho chúng ta những cảnh tượng tàn ác và
ghê rợn do chính con người tạo ra.
Sáng hôm đó, chúng tôi (tức Đức Đạt-Lai Lạt-Ma và Howard
Cutler) cùng
nhau tìm hiểu về bộ mặt tối tăm nhất của
tính khí con người, qua những hành động hung bạo, hận thù và tàn ác mà con người
đã sử dụng để cư xử với nhau. Trong lần đàm đạo cuối cùng trước đây, chúng tôi
cũng đã có ý định tìm hiểu sự vận hành của các tư duy đối nghịch khiến phát
sinh một hố sâu chia rẽ giữa “Chúng ta” và “Họ”, mang lại đủ
mọi thứ định kiến và xung đột. Trong lần gặp gỡ này, chúng tôi sẽ phân tích những
nguyên nhân nào đã gây ra sự hung bạo và các cách hành xử hung hăng của con người.
Chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu từ đâu đã phát sinh ra những hành động hung hãn và
tệ hại đó. Trước hết chúng tôi nêu lên một chủ đề thật căn bản để bàn thảo: có
phải tính khí dữ tợn và hung hăng là bản chất tự nhiên của con người hay không?
Chúng ta thật sự có sẵn bản chất hung bạo hay chăng?
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma kể lại biến cố ngày
11 tháng 9 như sau:
– Sáng hôm đó, sau khi thiền định xong thì vị phụ tá Lobsang Gewa bước vào
văn phòng làm việc của tôi và cho tôi biết là hai tòa tháp của Trung tâm Thương
mại Thế giới ở Nữu Ước bị tấn công, và cả hai tòa tháp đã bị đánh sập!
Tôi liền hỏi Ngài:
– Lúc đó phản ứng của Ngài ra sao?
– Quả thật tôi không thể nào tin nổi. Tôi tự nghĩ: “Làm gì lại có
thể xảy ra chuyện đó được”. Tôi cứ ngỡ là người ta bịa chuyện thế thôi.
Tôi liền mở chương trình Thời sự Thế Giới của đài truyền hình BBC và nhìn thấy
những chiếc máy bay đâm thẳng vào hai tòa tháp. Lửa tóe lên và hai tòa tháp sụp
xuống. Lúc đó tôi mới tin là thật. Tôi nhìn thấy những người lâm vào cảnh tuyệt
vọng phóng mình ra khỏi cửa sổ để khỏi bị thiêu sống. Quả là một cảnh tượng thật
thảm thương! Còn có sự tàn phá nào hơn! Thật là một chuyện không thể tưởng
tượng được. Thật không hiểu nổi.
– Vậy ngay lúc ấy sau khi mọi hoài nghi đã tan biến thì Ngài đã phản ứng
ra sao?
Ngài lắc đầu một cách buồn bã:
– Tin đó tác động mạnh đến tôi và nhắc cho tôi biết về cái tiềm năng tàn
phá lớn lao đó của con người. Thật là một sự hận thù mênh mông! Chuyện ấy gần
như vượt khỏi sức tưởng tượng. Sau đó thì tôi cầu nguyện cho tất cả các nạn
nhân vô tội và cho gia đình họ.
Hồi tưởng lại phản ứng vào ngày hôm ấy
của toàn nước Mỹ trước cuộc tấn công – phản ứng trước sự lăng nhục, và quyết tâm
truy tố kẻ tội phạm trước pháp luật – tôi liền hỏi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như sau:
– Khi nhìn thấy những cảnh khổ đau khủng khiếp mà những kẻ khủng bố,
chẳng hạn như Bin Laden, gây ra cho hàng ngàn nạn nhân vô tội, và khi nhìn thấy
con người có thể nhẫn tâm đến mức độ đó, thì lòng tin căn bản của Ngài nơi lòng
nhân từ của bản chất con người có bị sứt mẻ chút nào hay không?
– Không, nhất định là không, Ngài đáp lại một cách thật quả quyết. Dù cho
một nhóm người có gây ra các hành động kinh khiếp đó, thì tôi vẫn luôn tin
tưởng một cách thật vững chắc nơi lòng từ tâm căn bản của con người. Thật thế
bản chất của chúng ta là nhân từ và không hung bạo từ căn bản.
Thật ra không phải đây là lần đầu chúng
tôi nêu lên nền móng của bản chất con người. Tôi nghĩ đến lần đầu tiên chúng tôi
nêu lên vấn đề này, cách nay cũng đã hơn mười năm (trong quyển “Nghệ thuật mưu cầu hạnh phúc 1″). Thật thế quan điểm của Ngài không có gì thay đổi cả.
Thật vậy dù tôi đã hoàn toàn ý thức
được quan điểm nhất thiết tích cực của bản chất con người mà Ngài chủ trương,
thế nhưng tôi vẫn cảm thấy khá ngạc nhiên trước giọng nói vô cùng quả quyết của
Ngài khi Ngài giải thích cho tôi biết là biến cố 11 tháng 9 không hề làm cho lòng
tin của Ngài nơi bản chất từ tâm của con người bị sứt mẻ. Dù phải đứng trước những
cảnh giết chóc hàng ngàn người vô tội một cách man rợ và điên rồ thì Ngài cũng
không cảm thấy một chút thắc mắc nào về lòng từ tâm nơi con người. Trái lại, niềm
tin của Ngài lại càng trở nên vững chắc hơn bao giờ hết. Vì muốn tìm hiểu thêm từ
đâu Ngài đã tìm thấy cái sức mạnh của niềm tin đó tôi đã hỏi Ngài như thế này:
– Vậy khi trông thấy cảnh con người cư xử với nhau vô cùng tàn nhẫn và
kinh khiếp như thế thì phải làm thế nào để tránh cho niềm tin của mình nơi lòng
tốt tự nhiên của bản chất con người không bị lung lay, khi mà những người gây
ra những cảnh tượng tàn ác, chẳng hạn như biến cố 11 tháng 9, là những người
quyết tâm và tham gia tích cực?
Đức Đạt-Lai Lạt-ma suy nghĩ một lúc rồi
trả lời như sau:
– Có lẽ là nhờ tôi biết đặt ngay những biến cố đó trong một tầm nhìn thật
bao quát. Khi những biến cố như thế xảy ra, chúng ta thường có xu hướng tìm một
cá nhân nào đó hay một nhóm người nào đó để lên án họ. Thế nhưng tôi tin rằng
chúng ta sai lầm khi tìm kiếm một cá nhân hay một nhóm người để cô lập hóa họ và
xem họ như là một nguyên nhân duy nhất. Nếu
biết chọn một tầm nhìn thật rộng lớn, ta sẽ hiểu rằng nguyên nhân mang lại sự
hung bạo thật đa dạng. Có vô số nguyên nhân đủ loại đã góp phần tạo ra những
biến cố như thế. Thật vậy có không biết bao nhiêu nguyên nhân… Trong trường
hợp mà chúng ta đang bàn thảo, tôi tin rằng đức tin tôn giáo cũng đã dự phần
không nhỏ.
Ngài tiếp tục giải thích thêm:
– Thật vậy, khi suy nghĩ chín chắn hơn bạn sẽ nhận ra là có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau (xa hay gần, trực tiếp hay gián
tiếp) đã dự phần vào thảm trạng đó (nguyên lý tương liên và tương kết giữa mọi hiện tượng –
interdependence). Đối với tôi, cách suy nghĩ đó về một sự
kiện sẽ làm hậu thuẫn thêm cho một sự suy nghĩ khác thật then chốt: đó là sự suy
nghĩ giúp tôi nhìn thấy nền kỹ thuật hiện đại được phối hợp với trí thông minh
con người và bị chi phối bởi những thứ xúc cảm tiêu cực, chính là nguyên nhân
khiến cho tai họa xảy ra, dù đấy là những thứ tai họa không thể tưởng tượng
nổi.
– Xin Ngài giải thích thêm.
– Có lẽ bạn cũng hiểu, khi hy sinh cả tính mạng của mình để làm việc đó
thì nhất định kẻ khủng bố cũng phải có một quyết tâm cực mạnh. Nếu không bị chi
phối bởi các thứ xúc cảm hung bạo và tiêu cực thì chuyện đó không thể nào xảy
ra được. Vậy những gì đã tạo ra động cơ thúc đẩy đó. Dù sao đi nữa thì cũng
phải hiểu rằng động cơ thúc đẩy đơn thuần tức những xúc cảm tiêu cực, không thể
nào tự nó có thể gây ra được những biến cố như thế. Nếu suy nghĩ kỹ bạn sẽ hiểu
rằng cuộc tấn công khủng bố đó phải được chuẩn bị từng chi tiết và từ lâu, từ
nhiều tháng nếu không muốn nói là từ nhiều năm trước. Chẳng hạn phải tính toán như
thế nào để các chiếc máy bay còn đầy xăng. Các hoạch định chính xác như thế
nhất định phải nhờ đến trí thông minh con người. Hơn nữa muốn thực hiện những
hành động như thế tất nhiên thủ phạm cũng phải có đầy đủ các phương tiện cần
thiết. Chẳng hạn trong trường hợp trên đây, phi cơ đã được đem ra sử dụng, và
đấy là một sản phẩm của kỹ thuật hiện đại. Tóm lại đấy là những gì tôi hiểu
(Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
phân tích một hiện tượng dựa vào nguyên lý tương liên hay lý duyên khởi – pratityasamutpada, interdependence – một
cách thật tuyệt vời, vừa khéo léo lại vừa dễ hiểu cho mọi người).
Sau khi thở dài Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lại
trình bày tiếp:
– Bạn cũng hiểu là phải có thật nhiều nhân tố kết hợp lại để làm phát
sinh ra các hành động kinh khiếp đến thế. Thật vậy, hận thù đã khích động những
con người ấy. Khi biến cố 11 tháng 9 xảy ra và khi trông thấy tòa tháp thứ nhất
vừa sập xuống tôi cũng đã tự nghĩ: “Hận thù! Kẻ thù địch thực chính là nó!”
(vậy nếu không muốn thảm
họa xảy đến cho mình thì không nên gây ra hận thù. Thật không có gì đơn giản hơn,
thế nhưng lúc nào cũng có kẻ gây ra hận thù, xúi dục người khác hận thù bằng mọi
cách).
– Thưa Ngài, tôi hiểu quan điểm của Ngài, và tôi cũng ý thức được là phải
có thật nhiều nhân tố kết hợp lại để tạo ra những hành động kinh khiếp ấy. Thế
nhưng vào phía cuối đầu dây cùng phải có một cá thể hay một nhóm người nào đó đứng
ra thực thi những hành động bạo ngược gây ra đau thương cho người khác. Vì thế,
theo Ngài thì nếu đặt sang một bên tất cả các nhân tố phức tạp và tất cả các
nguyên nhân khác như Ngài vừa nêu lên, thì phải chăng vẫn có một số người nào
đó thật sự là những người tồi tệ mang một bản chất xấu xa hay không?
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lắc đầu và trả lời
với tôi:
– Khái niệm về sự xấu, hay đích danh là “cái xấu”, thật ra
không hàm chứa một tính cách vững chắc nào cả (tất cả mọi thuộc tính đều là quy ước,
tương đối và không mang tính cách tự tại). Theo những gì chúng
ta đã có dịp bàn thảo trước đây là người Tây phương đôi khi có xu hướng nhìn
mọi sự qua một khía cạnh tuyệt đối: đen là đen, trắng là trắng, hoặc hoàn hảo hoặc
không có gì cả. Hơn thế nữa, dưới sự chi phối của các thể dạng tâm thần như sự giận
dữ chẳng hạn, thì xu hướng đó lại còn trở nên khó lay chuyển hơn nữa. Một hình
thức méo mó nào đó của tư duy, của sự nhận thức sẽ đứng ra để áp đặt tất cả. Và
cũng như tôi vừa nêu lên, khi nhìn thấy các biến cố đại loại như thế, thì tức
khắc người ta tìm ngay một đối tượng nào đó để đổ lỗi, tức là một thứ gì thật
cụ thể để dồn tất cả sự phẫn uất và giận dữ của mình vào đấy. Trong tình trạng đó,
ta sẽ nhìn thấy mọi sự dưới những thể dạng hoặc là tốt hoặc là xấu. Dưới góc
nhìn đó chúng ta sẽ thấy con người hoàn toàn tồi tệ.
“Thế
nhưng, theo quan điểm Phật giáo, không có một khái niệm nào về một cái xấu
tuyệt đối, với ý nghĩa một cái xấu hiện hữu một cách độc lập – hoàn toàn không
do một các nguyên tố khác tạo ra, cũng không hề gánh chịu tác động của các
thành phần khác, hoặc bị các cảnh huống khác làm cho biến đổi khác đi. Cái xấu
“tuyệt đối” hàm chứa một ý nghĩa trường tồn. Tóm lại chúng ta không
thể nào chấp nhận được ý kiến cho rằng con người là xấu, với ý nghĩa một con
người nhất định nào đó mang bản chất xấu một trăm phần trăm, và cái xấu đó lúc
nào cũng nguyên vẹn vì đấy là bản chất cố định của họ, và từ căn bản không còn
cách nào thay đổi được.
“Hơn
nữa, vẫn theo quan điểm Phật giáo, chúng ta không thể dựa vào bất cứ một khái
niệm nào để chỉ đích danh một cá nhân nhất định nào đó đứng ra thực thi một
điều xấu, sở dĩ cá nhân đó phạm vào những hành động tồi tệ là vì họ bị chi phối
bởi tác động của những xúc cảm tiêu cực và những xu hướng tai hại, và cứ tiếp
tục như thế… – từ đó chúng ta sẽ hiểu ngay rằng cách hành xử tai hại của cá
nhân ấy phát sinh từ một số nguyên nhân và một số cảnh huống nào đó (theo quan điểm Phật giáo, nếu có
một người cầm gậy đánh ta và làm cho ta đau đớn, thì cây gậy tự nó không biểu
trưng cho một “cái xấu tuyệt đối”, người cầm gậy đánh ta cũng thế,
cũng không hàm chứa một “cái xấu tự tại” nơi bản chất của họ, mà thật
ra họ chỉ là nạn nhân của những xúc cảm bấn loạn trong tâm thức xui khiến họ
đánh ta, và các xúc cảm ấy chính chúng cũng lại phát sinh từ những nguyên nhân
khác và bị tác động bởi các cảnh huống đã và đang xảy ra để khơi lên những xúc
cảm bấn loạn cho người ấy và tiếp tay cho hành động cầm gậy của người ấy…, và
sau cùng thì cũng biết đâu chính ta cũng đã góp phần trực tiếp hay gián tiếp
tạo ra những những nguyên nhân và những cảnh huống ấy?). Chúng ta nghĩ rằng có thể tìm thấy ngay được
nguyên nhân của các loại biến cố như thế mà không cần phải thắc mắc gì về các nguyên
lý triết học siêu hình nào cả, thí dụ như không cần biết đến ý nghĩa thật sự
của cái xấu là gì.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma kết luận như sau:
– Trên nguyên tắc, nếu một người nào đó phạm vào một hành động phá hoại
lớn lao, đương nhiên bạn có thể kết luận đấy là một thứ hành động mang tính
cách tệ hại. Tất nhiên là bạn có lý. Và nhất định ta phải chống lại hành động
đó như là một hành động tai hại, có nghĩa là phải chọn cho mình một vị thế thật
minh bạch. Trong trường hợp trên đây, tất nhiên ta có thể bảo rằng động cơ thúc
đẩy và hành động mà cá thể ấy thực thi là xấu xa, bởi vì chúng mang tính cách
tàn phá. Thế nhưng, khó cho ta bảo rằng cá thể ấy là một “con người xấu
xa”, có nghĩa là xấu xa một cách tự tại và tuyệt đối (động cơ xui khiến và hành động đều
xấu xa thế nhưng trên phương diện con người thì không nhất thiết là xấu xa. Thí
dụ một người phạm vào những hành động vô cùng tàn ác, thế nhưng biết đâu trong
lòng họ thì họ cũng biết thương vợ, thương con, thương cha mẹ, đồng bào và quê
hương họ, biết bảo vệ lý tưởng của họ, dù đấy chỉ là một lý tưởng sai lầm đi
nữa. Vì thế thật khó mà bảo rằng người ấy tượng trưng cho một sự xấu xa tuyệt
đối), bởi vì bất cứ lúc
nào cũng có thể xảy ra một số sự kiện nào đó chen vào sự diễn tiến của biến cố khiến
cho cá thể ấy không phạm vào những hành vi tai hại.
– Tôi hoàn toàn hiểu được cách lý luận của Ngài, thế nhưng nếu Ngài cho
rằng hành động đó phát sinh từ một chuỗi dài gồm nhiều nguyên nhân và nhiều
cảnh huống khác nhau, và nếu Ngài xem kẻ ấy hành động như thế chỉ vì bị chi
phối bởi các nhân tố trên đây khi chúng biến thành một nguyên nhân đích thực để
xui khiến hắn, thì người ta có thể cho rằng Ngài đã nhắm mắt bênh vực cho hành
động của người ấy, và xem đấy không phải là một lỗi lầm của hắn? Tôi có cảm
giác là khi Ngài càng phân tích các nguyên nhân và cảnh huống đưa đến hành động
đó, thì Ngài lại càng có vẻ như muốn tha thứ cho những kẻ gây ra hành động.
– Mấu chốt chính là đấy, nếu đã khẳng định một người nào đó không hoàn
toàn xấu xa từ căn bản, và cái xấu chỉ mang tính cách tương đối và lệ thuộc vào
nhiều nhân tố khác, thì cũng có nghĩa là không thể viện dẫn một lý do chính
đáng nào để kết án họ đã phạm vào các hành động ấy. Nếu bạn biết mở rộng lòng
mình để chấp nhận một cách suy nghĩ khác hơn và hành xử một cách khác hơn trong
tương lai, thì cũng không có nghĩa là bạn dung thứ cho hành động đó, và cũng
không có nghĩa là bạn nhắm mắt để không lên án kẻ đó là người phải chịu trách
nhiệm và xem họ là người không liên can gì cả đến thực trạng (tóm lại nếu suy nghĩ kỹ thì sẽ
thấy những gì mà Đức Đạt -Lai Lạt-Ma vừa trình bày chính là cách hành xử của
một người bồ-tát, và cách hành xử đó chẳng những đúng trên phương diện từ bi mà
còn đúng cả trên phương diện thực tế).
Tôi vặn lại như sau:
– Nếu như thế thì bất kể là các hành động hung bạo kinh hồn đó là do một
số nguyên nhân và cảnh huống nào đó gây ra hay là do một số cá thể xấu xa chủ
động, thì cũng không thể nào không công nhận là chính con người có thừa can đảm
để nhúng tay vào những hành động đó. Lịch sử tiến hóa của nhân loại cho thấy là
chính chúng ta tự xem nhau là những con mồi của nhau và tạo ra đủ mọi thứ đớn
đau cho nhau. Sau khi được biết đích xác là cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 không
phải là một chuyện bịa đặt thì chính Ngài đã nêu lên phản ứng thứ hai của Ngài
là: “sự kiện ấy chính là một sự nhắc nhở thật mạnh cho chúng ta về khả
năng tàn phá của con người”. Thật ra thì cũng có rất nhiều những sự…
nhắc nhở khác thật kinh hoàng và vượt khỏi sức tượng tượng – chẳng hạn như các
hành động tàn phá đại loại như Shoah (tiếng Do thái shoah
có nghĩa là “thảm họa”, và còn
gọi là holocaust, tức là nghi lễ hiến
sinh theo tục lệ tôn giáo của người Do thái và của người Hy lạp cổ, các chữ này
dùng để ám chỉ sự thảm sát người Do thái trong Thế chiến Thứ hai). Đối với tôi những nhắc nhở ghê gớm
đó về tiềm năng tàn phá của chúng ta và khả năng gây ra những điều tệ hại khiến
cho người khác khổ đau ít ra cũng phải làm cho chúng ta suy nghĩ và thúc đẩy
chúng ta phải cố gắng tìm hiểu cái gương mặt thật tối tăm đó của bản chất con
người.
Ngài gật đầu một cách trịnh trọng, cân
nhắc từng lời và đáp lại như sau:
– Thật thế, khi đứng trước những cảnh ghê rợn chẳng hạn như Shoah, thì
lòng tin nơi nhân loại của bạn biết đâu cũng có thể bị lung lay. Bạn có biết
không, tôi không thể nào quên được lần đầu tiên tôi viếng thăm trại tập trung
Auschwitz (trại
diệt chủng lớn nhất của Đức Quốc Xã). Tôi không thể nào quên được những gì tôi trông thấy, chẳng hạn như một
đống giày cao ngất, những chiếc giày của các nạn nhân để lại… Thế nhưng những
gì đã khiến cho tôi bị chấn động mạnh và vương vấn mãi trong tôi chính là sự
kinh hoàng và một nỗi buồn đau thật sâu đậm xâm chiếm lấy tôi, khi tôi trông
thấy vô số những chiếc giày nhỏ bé của trẻ em! Tôi bủn rủn cả người khi nghĩ đến
những đứa trẻ vô tội. Chúng nào có đủ sức để hiểu được những gì xảy ra với
chúng. Thật vậy tôi đã phải thốt lên: “Làm sao lại có thể nhẫn tâm đến như
thế được?” Thế rồi chính tại nơi này tôi đã chắp tay để khấn nguyện.
Những lời sau cùng đó, Ngài thốt lên
với một giọng nói thật thấp và êm đềm. Dư âm bàng bạc trong yên lặng và trên
gương mặt Ngài hiện lên một nỗi buồn u uẩn. Tôi cũng giữ yên lặng một lúc lâu trước
khi nối lại cuộc đàm đạo. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma không tin vào một cái xấu mang
tính cách tuyệt đối. Ngài không hề có cái cảm giác quy tất cả trách nhiệm gây
ra thảm cảnh Shoah cho Hitler và các bộ hạ cuồng tín của ông ta, trên phương
diện đạo đức cũng không hướng vào họ tất cả sức mạnh của sự nóng giận và bất
nhẫn của mình. Thế nhưng qua giọng nói và cách biểu lộ của Ngài khi nhắc đến những
gì đã thấy ở Auschwitz, người ta mới hiểu được là Ngài đã xúc động đến mức độ
nào, và cũng sẽ nhận thấy Ngài không phải là một con người lạnh lùng vô cảm. Không
phải là Ngài không nhìn thấy những gì ghê rợn trong những thảm cảnh ấy và không
hề ý thức được sự xấu xa do con người gây ra cho nhau, và mặc dù hoàn toàn ý
thức được tiềm năng của con người có thể mang lại mọi sự xấu xa, thế nhưng sự
tin tưởng của Ngài vào lòng từ tâm căn bản của con người không bao giờ bị sứt mẻ.
Để tiếp lời Ngài, tôi đã giải bày như
sau:
– Thưa Ngài, đối với riêng tôi thì tôi lại nghĩ rằng cần phải lý luận như
sau: khi nghĩ đến thảm trạng Shoah hoặc các biến cố khác mang một tầm mức trầm
trọng tương tự, thì những sự thực phũ phàng đó không nhất thiết bắt buộc chúng
ta phải công nhận là cái xấu đương nhiên hiện hữu trong thế gian này. Hơn nữa chúng
còn biểu trưng cho một sự thách đố trước quan điểm chủ trương bản chất nhân từ nơi
con người.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma nhấn mạnh thêm:
– Tôi đã nhiều lần nói lên quan điểm của tôi là khi nhìn thấy các cảnh
tượng như thế và cứ cho rằng các sự thật ấy biểu trưng cho nền móng của bản
chất con người, để rồi cảm thấy mình dường như bị chúng xúi dục để hành động
tương tự, thì nhất định đấy là một sự sai lầm. Chúng ta phải luôn ghi nhớ là cách
phản ứng đó không phải là những chuẩn mực để noi theo, chúng không hề mang một
chút giá trị nào trong cuộc sống thường nhật. Quy luật đạo đức Phật giáo từng đưa
ra danh sách các “tội ác kinh tởm”, thí dụ như giết cha, giết mẹ, gây
chia rẽ trong tăng đoàn và nhiều thứ tội ác khác nữa. Thế nhưng không phải vì
sự hiện hữu của những thứ tội ác đó mà con người không thể chọn cho mình một
lối sống đạo hạnh.
– Thật vậy, đúng như thế…, thế nhưng…
– Này anh bạn Howard, không nên quên là chúng ta chủ trương một cách hành
xử căn cứ trên lòng từ tâm nơi bản chất con người. Khi đã hoàn toàn ý thức được
điều đó thì tất nhiên chúng ta cũng phải quyết tâm chọn cho mình một lối sống
phù hợp với bản chất đó. Đấy chính là lý tưởng của cuộc đời chúng ta, là mục
tiêu của chúng ta. Chính vì thế mà chúng ta phải nỗ lực giáo dục nhân loại.
Chúng ta cố gắng quảng bá quan điểm về bản tính tích cực nơi bản chất con
người, và giúp mọi người nhìn thấy là có một khả năng giúp họ bảo vệ được bản
tính đó nơi họ, và ý thức được trách nhiệm của chính mình. Không nhất thiết đấy
là những chuyện liên quan đến tôn giáo và cũng không nhất thiết chỉ đơn thuần liên
hệ đến lãnh vực triết học. Đúng hơn đấy chính là tương lai của tất cả chúng
ta…” (sự
sống còn của nhân loại).
Ngài nói lên những điều ấy với một âm
điệu chan chứa lòng từ bi vô biên. Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương
cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi –
một thứ vô minh thuộc vào bản chất đích thật của chúng ta, một thứ vô minh che
lấp tầm nhìn và cả sự hiểu biết của chúng ta, không cho phép chúng ta nhìn thấy
lòng từ tâm và khả năng mênh mông của chúng ta hầu giúp chúng ta thực hiện những
điều tốt đẹp, và do đó đã khiến chúng ta phải sống trong cảnh u mê và sợ hãi,
trong sự ngờ vực và hận thù người khác.
Trong khi đó, lòng từ bi do Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma nêu lên không phải là một thứ gì mang tính cách tình cảm hay định mệnh.
Nó luôn đi đôi với một ý định, một quyết tâm vững chắc nhằm giáo dục người khác
hầu giúp họ phát huy được những gì tốt đẹp nhất nơi khả năng con người của họ,
giúp họ nhìn thấy chính mình đúng với bản chất của mình, nhận thấy mình quả đúng
với những gì mà mình đã nhận thấy nơi mình. Một lần nữa Ngài lại nhắc đến một số
các luận-cứ-căn-bản mà Ngài đã từng nêu lên với tôi cách nay đã nhiều năm. Ngài
khuyên tôi phải thật thận trọng khi đưa ra các luận chứng cũng như khi lý luậnđể bênh vực cho khái niệm về bản chất con người, ngoài các luận cứ thuộc giáo lý
Phật giáo về Bản thể của Phật (tức Phật tính), còn phải dựa vào các khía cạnh
thuộc lãnh vực sinh học nữa. Trước hết Ngài cho biết là lòng từ bi và sự quan tâm
đến người khác sẽ mang lại nhiều biến cải lợi ích trên phương diện thể xác cũng
như các thể dạng xúc cảm trong tâm thức, và ngược lại thì sự thù địch và cách cư
xử hung hăng sẽ mang lại những hậu quả tàn phá, chẳng hạn như các thứ bệnh tim
mạch, và sau đó thì Ngài nhắc nhở chúng ta nên sử dụng lý trí và cả lương tri để
chọn cho mình loại ” bản chất” nào phù hợp nhất với tâm thức và thân
xác của mình, mang lại một kiếp sống tốt đẹp nhất của con người – tức là phải
chọn lựa giữa hai cách hành xử: hung hăng hay nhân từ?
Tôi còn nhớ cách nay nhiều năm khi
lần đầu chúng tôi đề cập đến chủ đề này, Ngài đã nêu lên với tôi một số thí dụ thật
tinh vi căn cứ trên các kết quả nghiên cứu khoa học thật phong phú. Hôm nay thì
Ngài lại căn cứ vào một số luận chứng chẳng hạn như: “Theo y khoa thì một trong các nhân tố quan trọng nhất cho sự nẩy nở
não bộ của một hài nhi trong những tuần lễ đầu tiên sau khi mới sinh là sự đụng
chạm thể xác với mẹ, hoặc với một người vú nuôi”. Mặc dù các luận chứng
của Ngài mang tính cách hoàn toàn duy lý, thế nhưng lúc nào Ngài cũng hiện ra
như một con người hoàn toàn đối nghịch lại với một nhà nhân chủng học dửng dưng
với số phận con người hay một nhà sinh học lạnh lùng và vô cảm. Ngài phát biểu
một cách thật nhiệt tình và luôn tỏ ra quan tâm đến người khác, giống như ngay
trong lúc đó sự sống của những người đang đối thoại với Ngài đang phải chịu đựng
những khó khăn nào đó.
Mặc dù quan điểm của Ngài về bản thể
con người thật hết sức lạc quan, thế nhưng Ngài không bao giờ rơi vào một sự
chủ quan mù quáng, và lúc nào Ngài cũng thật cẩn thận, luôn dựa vào lương tri và
lý trí để chọn cho mình một vị thế. Ngài đã kết luận như sau:
– Thật hết sức rõ ràng, lòng từ tâm căn bản nơi con người dù có hiện hữu
cũng không ngăn chận được các hành động tàn phá xảy ra, chẳng hạn như biến cố
ngày 11 tháng 9. Chúng ta chỉ còn biết cầu mong mỗi cá nhân tìm được cho mình một
lối sống phù hợp với các nguyên tắc phản ảnh từ bản chất sâu kín của chính mình.
Sau hết, cũng phải nói lên rằng các vị thầy tâm linh dù cho họ đã chủ trương đủ
mọi đường hướng, thế nhưng tất cả đều bất lực không thể biến cải nhân loại trở
thành một thực thể tràn đầy nhân từ. Đức Phật đã thất bại. Đức Chúa Giê-Xu cũng
thất bại. Thế nhưng sau cùng, nếu cho rằng sự thất bại của những vị thầy vĩ đại
ấy trong quá khứ chính là một động cơ thúc dục chúng ta phải đeo đuổi trọng
trách đó, thì tại sao chúng ta lại không ra sức để thử thực hiện xem sao? Cái
quan điểm đó thiết nghĩ cũng không đến nỗi ngu đần lắm đâu. Thật sự ra thì
chúng ta cũng chỉ làm được những gì nằm trong tầm tay của mình mà thôi.
Xét lại bản chất sơ đẳng của
chúng ta
Vào các thập niên sau này, tập thể
các khoa học gia bắt đầu tham gia tích cực hơn vào việc nghiên cứu một chủ đề
muôn thuở, đấy là bản chất của con người: từ căn bản thì cái bản chất ấy mang
tính cách hung hăng và dữ tợn hay nhân từ và tử tế? Suốt trong các thế kỷ trước
đây, quan điểm cho rằng bản chất con người in đậm bởi các vết hằn của sự hung
hãn, tính ích kỷ tự đại và xu hướng tranh dành lãnh thổ, chủ trương bởi cả một
đội ngũ tư tưởng gia, từ những triết gia như Thomas Hobbes và George Santayana
cho đến các nhà nghiên cứu về Tập tính học động vật (Ethology) như Robert
Ardrey và Konrad Lorenz, bắt rễ quá sâu vào nền văn hóa Tây phương. Ngày nay một
số các khoa học gia đã bác bỏ quan điểm yếm thế đó và con số các khoa học gia
này ngày càng tăng thêm. Nếu quan điểm lâu đời trên đây mang tính cách yếm thế và
ác hại, chủ trương con người mang bản tính hung hãn và độc ác từ bản chất, thì quan
điểm của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma lại hoàn toàn trái ngược, Ngài chủ trương con người
hàm chứa những phẩm tính tích cực, như sự ân cần, lòng từ bi và cả sự dịu dàng.
Thật ra trước đây cũng có nhiều người,
trong số này có cả một số tư tưởng gia, đã chủ trương một vị thế lưng chừng, tức
đứng giữa giữa hai quan điểm đối nghịch trên đây, thế nhưng ngày nay thì một số
lại có xu hướng nhích lại gần hơn với quan điểm của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma: con số
này ngày càng đông hơn và họ đều công nhận là dù cho bộ não có khả năng mang lại
những hành động hung bạo, thế nhưng sự vận hành của nó trong lãnh vực sinh lý
thần kinh (neurophysiology) cũng như bản chất con người của chúng ta không hề ẩn
chứa bất cứ một thứ gì áp đặt chúng ta phải hành xử như thế. Một chiều hướng mới
về khảo cứu khoa học trong những năm gần đây đã mang lại thật nhiều kết quả bênh
vực cho ý kiến trên đây, và đánh đổ hoàn toàn quan điểm cho rằng bản chất tự
tại của con người mang tính cách hung bạo. Tất cả chúng ta đều mang trong người
một tiềm năng để phát lộ các nét cá tính, hoặc tích cực hoặc tiêu cực, thế
nhưng đến khi chúng ta biểu lộ hành vi của mình qua sự dịu dàng hay hung bạo, thì
tất cả lại tùy thuộc phần lớn vào giáo dục, vào tác động của nhiều nguyên nhân
khác và các cảnh huống chung quanh.
Thật vậy, có rất nhiều người cảm
thấy mình gần gũi hơn với quan điểm do Đức Đạt-Lai Lạt-Ma chủ xướng, tuy nhiên theo
các khoa học gia tân tiến thì vấn đề cũng chưa hẳn đã ngã ngũ, bởi vì quan niệm
cho rằng bản chất con người vốn hung hăng đã bám rễ quá sâu vào dư luận. Như
vậy thì phải tìm sự thật ở đâu?
Đối với vấn đề này, một cuộc khảo cứu
rất tích cực nhằm mục đích tìm hiểu sự thực về bản chất con người đã mang lại một
số kết quả thật bi thảm, có thể nói là gần như tuyệt vọng. Thật thế, quả hết sức
khó để bào chữa trước một số sự kiện hiển nhiên: chỉ riêng trong thế kỷ vừa qua
hầu như toàn thể hành tinh đã lâm vào hai cuộc chiến thế giới. Thảm họa Shoah xảy
ra trong tiền bán thế kỷ XX, bước sang hậu bán của thế kỷ này lại xảy ra chiến tranh
diệt chủng ở Rwanda. Thật thế, chúng ta nào có thấy được gì nhiều, lý do là sự
hung bạo không nhất thiết chỉ xảy ra dưới hình thức chiến tranh mà còn xảy ra
dưới đủ mọi thể dạng khác nhau. Sự hung bạo xảy ra cho người phụ nữ trong gia đình
chẳng hạn, và đấy cũng là một hình thức hung bạo mang lại nhiều thương tích nhất.
Hàng triệu phụ nữ trên thế giới là nạn nhân của tệ nạn hiếp dâm, sát nhân và các
hành vi hung hãn khác. Các loại tội phạm đó đã biến thành một thứ bệnh dịch
trong nhiều quốc gia, nhất là tại Hoa Kỳ. Chỉ hai mươi năm sau Thế Chiến Thứ Nhất,
thì hành tinh của chúng ta lại lâm vào một cuộc xung đột toàn cầu khác (Thế chiến Thứ hai): “cuộc chiến này chấm dứt để
chuẩn bị cho một cuộc chiến khác”! Bảng tổng kết thiệt hại trong cuộc
bùng nổ thứ hai cho thấy có bảy mươi hai triệu người chết, cả quân nhân lẫn dân
sự.
Sau sự thất bại thảm thương của khối
Trục (tức sự liên kết
giữa nước Đức và nước Nhật), một tinh thần lạc quan thật sự
đã xuất hiện. Quả là thời cơ đã giúp cho toàn thể thế giới khởi sự lại từ đầu, và
đó cũng là một cơ hội để giải quyết mọi sự tranh chấp thông qua các thế liên
minh và các tổ chức chẳng hạn như Liên Hiệp Quốc. Quả thật đấy là một niềm hy vọng.
Thế nhưng trên thực tế có xảy ra đúng như thế hay chăng? Năm mươi năm sau Thế Chiến
Thứ hai, một tài liệu của tổ chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương NATO (North Atlantic Treaty
Organization tức là Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương; tiếng Pháp gọi là OTAN:
Organisation du Traité de l’Atlantique Nord) cho biết
trong vòng nửa thế kỷ đó có tất cả một trăm năm mươi cuộc xung đột vũ khí đã xảy
ra, và các cuộc xung đột này theo ước tính đã gây ra từ hai mươi lăm đến ba mươi
triệu người chết, đấy là chưa kể số người chết vì đói kém, bệnh tật và các thứ
hậu quả gián tiếp khác phát sinh từ các cuộc xung đột. Vậy trong khoảng thời gian
nửa thế kỷ trên đây chúng ta hưởng được bao nhiêu ngày không chiến tranh? Các bạn
cứ đoán xem chúng ta còn lại bao nhiêu ngày hòa bình trên quả đất này? Hai mươi
sáu ngày cả thảy!
Trước những “sự thật” trên
đây, chúng ta có phải đành chấp nhận là bản chất con người hung hãn từ căn bản
hay không?
May mắn thay, câu trả lời sẽ là không!
Nếu chúng ta biết tuân theo các lời
chỉ dạy mà Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thường xuyên nhắc nhở để hiểu rằng cần phải quán
xét cách hành xử của con người qua một tầm nhìn bao quát và toàn bộ hơn, và biết
quan tâm hơn đến sự tương tác nhất thiết giữa mọi hiện tượng để tạo ra một cảnh
huống nào đó, và nhất là biết nhìn vào các con số tiêu biểu cho cách xử sự hung
hăng, dữ tợn của giống người chúng ta trên bình diện lâu dài, thì nhất định một
loạt các sự kiện mới mẻ sẽ hiện ra và mang lại cho chúng ta một hình ảnh hoàn toàn
khác hẳn về nhân loại. Theo các khảo cứu gia, vào thời kỳ của các xã hội bán
khai khi con người còn sinh sống bằng săn bắt và nhặt hái thì có đến 30% nam giới
chết vì các hành vi hung bạo do bàn tay của đồng loại gây ra. Vậy trong thế kỷ
XX đẫm máu vừa qua, kể cả chiến tranh, các thảm trạng diệt chủng, các cuộc xung
đột bất tận, thì con số ấy sẽ là bao nhiêu? Dưới 1% ! Chúng ta hiện đang bước vào
buổi bình minh của thế kỷ XXI, và tỷ lệ trên đây còn tiếp tục hạ thấp xuống một
cách thật ngoạn mục. Nhằm mục đích tìm kiếm thêm các bằng chứng khả dĩ bảo vệ cho
giả thuyết trên đây thêm vững chắc, nhà tâm lý học thuộc đại học Harvard và cũng
là tác giả của nhiều bộ sách là Steven Pinker đã ghi nhận rằng dù là tại những nơi
tồi tệ nhất trên hành tinh này, thì tỷ lệ sát nhân cũng vẫn còn thấp hơn hai mươi lần so với các xã hội
bán khai.
Trong vòng một ngàn năm sau này, các
con số trên đây tuy có tăng giảm bất thường, và tỷ lệ ghi nhận về sự hung hãn và
bạo lực có vẻ như mang tính cách chu kỳ, thế nhưng xu hướng chung cho thấy có một
sự sút giảm rõ rệt. Dù cho các hành động bạo lực và sát nhân có giảm chậm đi nữa thì vẫn mang lại cho chúng
ta một sự tin tưởng là quan điểm của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma về bản chất con người là
đúng.
Nếu chúng ta muốn tìm kiếm thêm các
con số thống kê đủ sức thuyết phục để chứng minh cho tính cách ưu thế của lòng
nhân từ đối với bản tính hung hãn nơi con người, thì thiết nghĩ cũng không cần phải
bõ công so sánh giữa thái độ cư xử của dân chúng trong các xã hội Tây phương ngày
nay và tổ tiên của họ trong thời tiền sử. Chỉ cần nhìn vào các xã hội ngày nay
cũng đủ, chẳng hạn như vào năm 2004, một cuộc thăm dò rộng lớn do Trung tâm Quốc
gia Thăm dò Dư luận (National Opinion Research Center) cho thấy là các người Mỹ
trưởng thành, mỗi người thực hiện được 900 nghĩa cử vị tha trong một năm. Nếu
chúng ta nhân con số này với tổng số dân chúng trưởng thành của nước Mỹ vào cùng
thời kỳ thăm dò trên đây, thì con số thành sẽ là 28.980.000.000 hành vi nhân ái
đã được thực thi trên đất Mỹ vào năm trên đây! Trong khi đó, cũng vào năm 2004,
FBI (Federal Bureau of Investigation – Văn phòng Điều tra Liên bang) cho biết
có 1.367.009 hành vi phạm pháp mang tính cách hung bạo thuộc đủ loại đã xảy ra
trên toàn thể lãnh thổ quốc gia. Nếu đem so sánh các con số thống kê trên đây
thì cũng đủ để trấn an chúng ta: đối với mỗi hành vi hung bạo xảy ra trên đất Mỹ
trong năm kể trên, thì đồng thời người ta cũng nhận thấy có đến 17.450 hành vi
vị tha.
Nếu mang các con số thống kê hết sức
khích lệ trên đây đặt chung với quan điểm chủ trương bản chất ích kỷ và hung hăng
của con người đang bành trướng rộng rãi trong xã hội, thì cũng không nên ngạc
nhiên khi nhận ra là phần lớn chúng ta đã quan niệm sai lầm về bản chất con người.
Vẫn theo cơ quan FBI thì từ năm 1990 đến năm 1998, trên bình diện quốc gia, tỷ
lệ sát nhân sụt xuống 39,2 %. Thế nhưng trong cùng thời gian trên đây, con số phóng
sự về các vụ sát nhân do các đài truyền hình trình chiếu gia tăng 473%. Sự kiện
đó không phải là một chuyện ngẫu nhiên. Dựa vào lịch sử tiến hóa, người ta có
thể tìm thấy một số nguyên nhân để giải thích sự kiện đó: tức là tại sao các hành
động bạo lực trình chiếu trên màn ảnh truyền hình lại thu hút được nhiều người
xem hơn là các hành vi biểu lộ lòng nhân từ xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Trước
đây chúng ta cũng đã đề cập đến não bộ, nó giữ vai trò canh chừng môi trường
chung quanh hầu phát hiện các hành vi đe dọa hoặc những gì nguy hiểm có thể làm
phương hại đến tánh mạng của chúng ta, do đó trong đầu chúng ta đã được trang
bị sẵn một thứ gì đó mà một số người gọi đấy là một bộ não khiếp sợ tai ương,
nó được thiết kế để sẵn sàng dò tìm những gì không được suôn sẻ thuộc bối cảnh
chung quanh – thế nhưng nó lại quên bẵng đi và không hề chú ý đến những gì tốt
đẹp đang xảy ra. Sự chú tâm và quyền lợi của chúng ta bị những hành vi hung bạo
thu hút mạnh hơn so với với những hành động nhân từ. Thật hết sức khó cho chúng
ta trông cậy vào các hệ thống truyền tin thay đổi bất thần chính sách của họ để
đưa lên những chương trình mang nội dung trung thực hơn với bản chất con người,
tức bằng cách trình chiếu 17.540 cảnh tượng vị tha song song với một hành vi bạo
lực.
Chính chúng ta phải quyết tâm tạo
cho mình một khả năng thật chuyên biệt nào đó hầu giúp chúng ta phân tích và
quan sát thật cẩn thận thế giới chung quanh để nhìn thấy được những bằng chứng
phản ảnh khía cạnh khả ái và lòng tốt của con người. Một cuộc nghiên cứu sâu
rộng sau Thế Chiến Thứ Hai đã mang lại một bằng chứng thật cảm động. Bảy mươi
hai triệu người chết – một con số khiến chúng ta phải chóng mặt – họ chết bằng
đủ mọi cách: bom đạn, ngư lôi, mìn, trung tâm diệt chủng, kể cả vì đói kém hay những
thứ di hại khác do chiến tranh để lại. Thế nhưng trong số tất cả các cách giết
người đó, thì nổi bật nhất có lẽ chính là sự hung hãn tự tại nơi con người, biểu
trưng quyết tâm của người lính trên chiến trường tự tay cầm súng để bắn vào đồng
loại tức là những người lính khác, những kẻ thù của họ. Đấy là những trường hợp
hiếm hoi mà hành vi sát nhân được xem là hợp pháp. Trong các trường hợp đó,
cách hành xử hung hăng và tàn ác không những được dung thứ mà còn được khuyến
khích nữa, với hậu ý giúp cho người lính hóa giải mọi ý nghĩ tội lỗi của họ –
đấy là chưa nói đến, trong nhiều trường hợp, có thể hóa giải cả sự sợ hãi của họ
vì chính sinh mạng của họ cũng đang bị lâm nguy.
Sau cuộc xung đột mang tầm cỡ toàn cầu
đó, thiếu tướng S.L.A. Marshall, sử gia của lực lượng quân đội Hoa Kỳ, đã thực
hiện một cuộc khảo cứu có giá trị vô song. Lần đầu tiên ông mở một cuộc điều
tra thật cẩn thận về tỷ lệ sử dụng súng đạn trong một trận chiến. Kết quả mang
lại thật hết sức bất ngờ, ông đã chứng minh cho thấy chỉ có 15 đến 20% lính chấp
nhận là mình nhắm vào kẻ thù để nhả đạn trong khi hai bên đang bắn nhau! Con số
này được kiểm chứng cẩn thận và đã được công nhận, và tỷ lệ này sau đó không hề
thay đổi. Kết quả trên đây nhất định không biểu trưng cho một hành vi hèn nhát,
vì người lính vẫn xông vào trận chiến và đôi khi còn sẵn sàng chấp nhận mọi rủi
ro có thể xảy ra cho tính mạng mình để giải cứu cho các người bạn đồng ngũ. Người
lính nào có thiếu can đảm đâu, thế nhưng sự thật xảy ra không khỏi làm cho chúng
ta phải bối rối. Sau đó đường hướng khảo cứu này còn được tiếp tục đẩy xa hơn và
đã mang lại các kết quả thật rõ ràng: con người tự nhiên ghê tởm hành động giết
chết người khác, kể cả trong trường hợp bị lâm nguy, và chỉ đơn giản có thế.
Than ôi, khám phá đó đã khiến cho quân đội phải quay ra tìm kiếm những phương
tiện khác giúp cho người lính nhắm bắn kẻ thù (ngoài những cải tiến tinh xảo trên phương
diện kỹ thuật thuộc lãnh vực vũ khí, các phương tiện tâm lý và tuyên truyền
cũng được tận dụng nhằm khích động người lính hai bên xem nhau như những kẻ thù
khát máu, bán nước, hại dân, nô lệ ngoại bang; các bằng khen thưởng, tuyên dương
công trạng và huân chương anh hùng đủ loại được phân phát như bươm bướm), và thế rồi cuộc chiến Triều Tiên và sau đó là cuộc chiến Việt Nam đã
xảy ra và con số tỷ lệ điều tra trên đây đã tăng cao một cách nhanh chóng. Dầu
sao đi nữa thì các kết quả điều tra tiên khởi đã chứng minh hùng hồn cho giả
thuyết của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma là đúng: đó là giả thuyết đặt lòng tin nơi một nhân
loại nhân từ, lòng từ tâm của con người luôn trội hơn sự ham muốn chém giết của
họ và sự khả ái vượt lên trên sự hung hăng.
Đối với công việc tìm hiểu sự thật về
bản chất con người đưa ra trên đây có lẽ cũng nên xét đến quan điểm của một nhân
vật mà phần đông cho rằng đã tạo được nhiều ảnh hưởng đối với khái niệm hiện đại
về bản chất của nhân loại, ít ra thì khái niệm ấy cũng phản ảnh phần nào trí
tuởng tượng của quảng đại quần chúng: vị ấy chính là Charles Darwin. Trong thuyết
tiến hóa của Darwin, có một số định luật chẳng hạn như sự “chọn lọc thiên
nhiên” và sự “sống còn của các cá thể thích ứng nhất” đã làm đảo
lộn cách mà chúng ta nhìn vào chính chúng ta. Trong các xã hội ngày nay, phần
đông mọi người đều có một kiến thức quá mơ hồ về các khái niệm do Darwin đưa ra.
Các khái niệm như “sự chọn lọc thiên nhiên” và “sự sống còn của
các cá thể thích ứng nhất” thường được hiểu sai và cho đấy là động cơ thúc
đẩy sự tiến hóa nhằm dành ưu thế cho các cá thể hung hãn, khoẻ mạnh nhất, hung
bạo nhất và hành xử thích nghi nhất với môi trường. Thực ra đấy chỉ là các đặc
tính giúp các cá thể tranh giành lẫn nhau để thu hoạch một số tài nguyên nghèo
nàn, hầu bảo vệ sự sống còn và các phương tiện truyền giống của mình mà thôi.
Cách suy nghĩ đó hết sức xa với sự
thật. Trong quyển sách của ông nói về con người và sự tiến hóa của chúng ta mang
tựa đề là “Con cháu loài người”
(“La descendance de l’homme“),
Darwin đã khẳng định rằng các cảm tính mạnh nhất của chúng ta tức các thuộc
tính căn bản tạo ra bản chất con người, là bản năng thích sống quây quần, lòng
thiện cảm, biết quan tâm đến người khác, hân hoan khi chia sẻ hạnh phúc với
người khác. Và thật ra thì đấy cũng là những nét căn bản nhất nơi tánh khí con
người mà Đức Đạt-Lai Lạt-Ma từng đề cao! Các khái niệm của Charles Darwin về
bản chất con người được thiết lập dựa vào các khảo cứu thật tỉ mỉ căn cứ vào
nhiều loài sinh vật khác nhau, đồng thời cũng được dựa vào các quan sát thật chi
tiết và phong phú về tính khí con người, thậm chí có thể kể ra một khảo cứu mà ông
đã sử dụng mười người con của ông để quan sát. Vào những năm sau này, các chương
trình truyền tin đại chúng nhằm phổ biến kiến thức khoa học khi đề cập đến chủ
đề tiến hóa thường hay nêu lên các quan điểm của Darwin. Các chương trình này mở
ra một tầm nhìn mới mẻ hơn về một số khía cạnh liên quan đến cách hành xử của con
người, thí dụ như sự quan tâm và chăm lo cho trẻ em mà nền giáo dục thiếu nhi
ngày càng đòi hỏi phải gia tăng hơn. Tóm lại, các khoa học gia trên đây đã xét
lại quan điểm của mình về bản chất con người và cho thấy là họ ngày càng tiến đến gần hơn với với quan điểm của Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma.
Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng khó
tránh khỏi phải đứng trước một sự lựa chọn giữa hai bản tính tích cực và tiêu
cực nơi bản chất con người – tức phải chấp nhận một lịch sử nhân loại được xây
dựng bằng bạo lực và sự hung dữ, hoặc bằng những hành vi nhân từ và thân thiện.
Sự lựa chọn đó không chỉ đơn giản thuộc lãnh vực lý thuyết hay triết học, mà
còn hàm chứa một tầm quan trọng thật chủ yếu, tạo ra những tác động và những
hậu quả rộng lớn trong cả hai lãnh vực, cá nhân cũng như xã hội. Trong lãnh vực
xã hội, quan niệm về bản chất con người – tích cực hay tiêu cực – tạo ra những
ảnh hưởng liên quan đến những gì mà chúng tôi đã từng thảo luận trước đây về ý
nghĩa của một lối sống tập đoàn, về sự lo lắng cho người khác và những lợi ích mang
lại khi biết hướng vào người khác. Đức Đạt-Lai Lạt-Ma luôn tin vào khả năng nơi
con người giúp họ phát huy và duy trì những mối liên hệ phong phú và đa dạng
với người khác và xã hội, lòng tin đó của Ngài được xây dựng dựa vào niềm tin
vững chắc nơi bản chất tích cực từ căn bản của con người.
Trên phương diện cá nhân, cách cảm
nhận về bản chất con người theo chiều hướng đó cũng tạo ra những tác động không
nhỏ, ảnh hưởng sâu xa đến từng người trong chúng ta. Dầu sao thì mục đích mà chúng
tôi nêu lên là mưu cầu tìm được niềm hân hoan trong cuộc sống giữa thế giới đầy
nhiễu nhương này. Và chúng tôi cũng có một số bằng chứng không thể phủ nhận
được cho thấy là cách cảm nhận của mình về thế giới chung quanh sẽ ảnh hưởng
đến hạnh phúc của chính mình. Abbott Ferris, một vị giáo sư tâm lý học của đại
học Emory thuộc tiểu bang Atlanta, thực hiện một cuộc nghiên cứu rộng lớn căn
cứ trên mười một ngàn mẫu người Mỹ, đã chứng minh cho thấy cách nhận thức của
chúng ta về thế giới và bản chất con người, dù xem đấy là những gì tốt đẹp hay
tệ hại, thì cũng đều trực tiếp tác động đến mức độ hạnh phúc của chúng ta. Nhờ vào
kết quả của cuộc khảo cứu đó, giáo sư Ferris nhận thấy các cá thể nào chỉ biết chú
trọng đến những gì tệ hại trên địa cầu này sẽ cảm thấy kém hạnh phúc hơn nhiều
so với những người nhìn thấy thế giới và con người nhất thiết mang bản chất tốt
đẹp.
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma còn tìm hiểu sâu
xa hơn nữa các ảnh hưởng trên đây và đã giải thích cho tôi như sau:
– Sự khác biệt giữa các cách cảm nhận về bản chất con người có thể đã phát
sinh từ sự khác biệt giữa các môi trường sống khác nhau, chẳng hạn như giữa một
môi trường sống gồm những người đồng loại mà ta cảm thấy họ thật đáng ghét,
hung dữ và nguy hiểm, và một môi trường khác đối nghịch lại, gồm những người mà
ta cảm thấy họ nhân từ, tử tế và thân thiện. Biết ý thức sâu xa về lòng tốt tự
nhiên nơi bản chất con người là một cách thổi vào tâm hồn ta sự can đảm và niềm
hy vọng. Trên phương diện cá nhân cũng thế, một tầm nhìn theo chiều hướng đó về
bản chất sâu kín của con người sẽ giúp mang lại cho chúng ta cảm tính của phúc
hạnh và mối tương quan buộc chặt chúng ta với người khác.
Sau cùng Ngài còn nhấn mạnh thêm:
– Dù cho những sự thật khách quan do lịch sử và khoa học mang lại không
thể khẳng định được quan điểm này hay quan điểm kia là đúng đi nữa, thế nhưng
trên phương diện thực dụng chúng ta vẫn tìm thấy nhiều lợi ích hơn khi chọn cho
mình một cách nhìn tích cực về bản chất của con người. Sau hết thì chúng ta đây
là những con người, chúng ta luôn có xu hướng chuyển những gì mà chúng ta tin
tưởng trở thành sự thực, tương tự như một lời tiên tri bỗng dưng tự nhiên hóa
thành sự thực (vậy
thì chúng ta hãy thử nhìn mỗi con người là một vị Phật xem sao, và sau đó thì
nhìn vào nơi sâu thẳm trong đáy tim mình xem có gì thay đổi hay không?).
Bures-Sur-Yvette, 19.09.11
Hoang Phong chuyển ngữ
:
Discussion about this post