NGUỒN GỐC TÍCH TRUYỆN QUAN ÂM THỊ KÍNH
VÀ QUAN ÂM DIỆU THIỆN
Quan
Thế Âm (Avalokitesvara) là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn
lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách
cứu giúp… Hình tượng ngài được mô tả trong kinh Pháp
Hoa là một người nam nhưng khi Phật giáo truyền sang Tây Tạng,
Trung Hoa, Triều Tiên và Việt Nam, Bồ tát được tôn thờ
hầu hết dưới dạng nữ thân, mẹ hiền Quan Thế Âm.
Bởi
theo kinh Pháp Hoa, Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân,
tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng
để cứu độ: “Nếu cần hiện ra thân gì để cứu độ
thì Quan Âm hiện ra thân đó như: thân quốc vương, thân tể
tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ v.v…” (phẩm Phổ môn).
Truyện tích về Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Nam Hải (Diệu
Thiện) ở Việt Nam được hình thành dựa trên quá trình tiếp
biến văn hóa và cơ sở “thị hiện” này.
Sự
tích Quan Âm Thị Kính được lưu truyền phổ biến trong dân
gian Việt Nam từ xưa qua nghệ thuật hát chèo, truyện thơ
và gần đây nhất là truyện văn xuôi. Theo tác giả Nguyễn
Lang, sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, “Truyện
thơ Quan Âm Thị Kính (bản Nôm) hiện chưa biết được sáng
tác trong thời gian nào. Bản Việt ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh
ấn hành năm 1911, gồm 788 câu lục bát và một lá thư Kính
Tâm viết cho cha mẹ bằng văn biền ngẫu”. Cứ vào nội
dung của truyện Quan Âm Thị Kính thì có thể đây là một
dị bản của Phật giáo Cao Ly (Triều Tiên): “Thị Kính là
con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang,
nước Cao Ly”.
Tuy
vậy, bối cảnh của câu chuyện Quan Âm Thị Kính liên quan
mật thiết đến một ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta,
Pháp Vân tự (chùa Dâu, Bắc Ninh). Và Phật Bà chùa Dâu được
xem là Phật Bà Quan Âm Thị Kính, “Xem trong cõi nước Nam
ta/Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm”. Hình ảnh Quan Âm Thị
Kính bồng con trên tay, qua nhiều dị bản rất gần gũi và
tương đồng với những câu chuyện về Quan Âm đồng tử
và Quan Âm tống tử. Theo các nhà nghiên cứu, tượng Quan Âm
tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử
tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII
và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ XVIII, hiện nay
vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.
Truyện
thơ Quan Âm Nam Hải gồm 1.426 câu, được lưu truyền trong
dân gian trước cả truyện Quan Âm Thị Kính. Theo Nguyễn Lang
(sđd), truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một vị
Tăng đời Nguyên bên Trung Hoa. Tích này được lưu truyền
trên đất Việt kể từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay XV và
được Việt hóa. Bản Nôm cổ nhất của truyện Quan Âm Nam
Hải vẫn chưa biết được khắc vào thời đại nào. Bản
Việt ngữ đầu tiên Quan Âm diễn ca của Huỳnh Tịnh Của,
ấn hành năm 1897.
Theo
dị bản Việt hóa thì Quan Âm Nam Hải vốn là Diệu Thiện,
công chúa thứ ba (về sau gọi bà Chúa Ba) con vua Diệu Trang
(Subhavyùha) ở nước Hưng Lâm (có thể thuộc Ấn Độ). Nàng
từ bỏ cuộc sống xa hoa của cung đình, vượt qua mọi ngăn
trở của vua cha, cương quyết vượt biển đến động Hương
Tích (chùa Hương ngày nay) tu hành và chứng quả tại đây.
Truyền thuyết cho rằng, sau khi đắc đạo, công chúa Diệu
Thiện biến thành Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cứu độ hoàng
tộc và muôn dân.
Theo
nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, tượng thờ Quan Âm Nam Hải
xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVI. “Trong một
văn bia đời nhà Mạc năm 1578, học giả nổi tiếng đương
thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết tượng Diệu Thiện được
tôn thờ tại chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện
là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong
đạo Phật. Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt trước hết có
liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại bi, dần
dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong các chùa
viện Phật giáo” (Thích Hạnh Tuấn, Hình tượng Bồ tát
Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt).
Như
vậy, các hình thái Quan Âm Nam Hải, Quan Âm đồng tử, Quan
Âm tống tử, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính đều bắt
nguồn từ lòng từ bi, hiện thân cứu độ của Bồ tát Quan
Thế Âm trong kinh Pháp Hoa. Những truyện tích và tín ngưỡng
Quan Âm rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tôn tượng Bồ tát Quan
Thế Âm được thờ tại chùa viện nước ta hiện nay rất
đa dạng, dựa vào một trong 33 ứng hóa thân của Bồ tát.
Về
ba ngày vía của Bồ tát Quan Thế Âm, HT.Thích Huyền Tôn, dẫn
theo Thiền môn nhật tụng cho biết: 19-2 kỷ niệm Bồ tát
Quan Thế Âm đản sinh, 19-6 kỷ niệm Bồ tát Quan Thế Âm thành
đạo, 19-9 kỷ niệm Bồ tát Quan Thế Âm xuất gia.
(Giác
Ngộ)
Discussion about this post