MÙA VU LAN NGHĨ VỀ CHA MẸ
QUA MẤY VẦN THƠ THƯ PHÁP
Thích Hạnh Tuệ
Cứ mỗi
độ Vu Lan về, người con Phật khắp muôn nơi hướng vọng về hai đấng sinh thành
Cha và Mẹ để tưởng niệm đến công đức sinh thành trời biển. Đã một thời, Cha và
Mẹ đó đã sinh ta, nuôi ta, dạy ta… trưởng thành như ngày hôm nay. Nếu không có
Cha và Mẹ thì còn nói gì đến sự nghiệp, công danh, tiền tài, vợ chồng, con cái…
vốn là những cái tạo nên danh phận của con người trong xã hội. Nếu không có Cha
và Mẹ thì còn có ai tồn tại trên cõi đời nầy nữa đâu. Cha và Mẹ đó như thể là
trời, là đất, là dưỡng khí, là ánh nắng, là mưa rào, là cọng rau, là ngọn cỏ… để
từ đó mỗi người con được sinh ra, được che chở, được nuôi lớn, được thụ hưởng,
được thành đạt… trong đời.
“Tháng sáu buôn nhãn bán trâm, tháng bảy
ngày rằm xá tội vong nhân.” Mùa Vu Lan lại về. Tiết Vu Lan lại đến.
Xôn xao từ đầu làng, đến cuối xóm; rộn rã từ thôn quê đến thị thành; từ nền văn
hóa truyền thống Phật giáo ở các nước phương Đông đến nền văn hóa Phật giáo lan
truyền ra hải ngoại phương Tây, đâu đâu cũng thiết lễ Vu Lan Thắng Hội, đâu đâu
cũng thiết lễ trai đàn Bạt độ vong nhân. Nương nhờ oai lực của Tam Bảo, Cha Mẹ
hiện đời được phước thọ tăng long, bồ đề tâm tăng trưởng; Cha Mẹ đã quá vãng được
siêu thăng vào thế giới an lành; chư vị hương linh chiến sĩ trận vong, chư âm
linh cô hồn cũng có được bữa ăn no đủ, không bị đọa đày, tra khảo và được thọ
sanh không còn vất vưởng.
Nói đến mùa Vu Lan là nói đến Cha và Mẹ. “Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục,
mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao.” Hay: “Vạn cổ tình thâm ân cúc dục, thiên thu nghĩa trọng đạo sinh thành.”
Mà ca dao Việt Nam đã bao lần nhấn mạnh rằng: “Cảm ơn chín chữ cù lao, sinh thành kể mấy non cao cho vừa.” Hay “Cảm ơn chín chữ cù lao, ba năm nhủ bộ biết bao
nhiêu tình.” Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), dục (dạy dỗ),
súc (nuôi cho
bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), cố (trông nom), phục (là xem tính tình
mà chỉ bảo), phúc (là bảo vệ) đó là chín chữ cù lao mà không đức
con nào trong nhân gian có thể đáp đền cho trọn vẹn được. “Ơn cha trọng lắm ai ơi,
nghĩa mẹ bằng trời mang nặng đẻ đau.” Thế nên, làm sao mà nói hết được: “Đố ai đếm được lá rừng, đố ai đếm được
mấy từng trời cao, đố ai đếm được vì sao, đố ai đếm được công lao mẫu từ” Lời thơ ấy là minh chứng cho sự bất khả thuyết (không thể nói hết), bất khả tư nghì (không thể nghĩ cho cùng) khi muốn định
lượng công đức của Cha và Mẹ. Vì công sinh thành, dưỡng dục ấy đã vượt ra ngoài
mọi định chế của nhân gian, không thể cân, đo, đong, đếm… Thế nên: “Nước biển mênh mông không đong đầy tình Mẹ, mây trời lồng lộng không phủ
kín công Cha” hay “ân Cha dưỡng dục dường non Thái, nghĩa Mẹ sinh thành tợ biển Đông.”
Núi Thái kia cao vời vợi ấy đâu thể sánh được với công Cha. Biển Đông kia dẫu
có mênh mông và thẩm sâu đến thế nhưng làm sao sánh nổi với nghĩa của Mẹ hiền.
Để rồi, những đứa con khi lớn khôn rong ruổi khắp muôn phương, đối diện với
dòng đời xuôi ngược, tất bật với thế thái nhân tình, bôn ba với dòng đời vạn nẻo…
mới chợt nhận ra là: “Đi khắp thế gian
không ai thương con bằng Mẹ, gian khổ cuộc đời không ai nặng gánh bằng Cha.”
Hình
bóng của Cha là biểu tượng con sự vững chải, nghiêm nghị mà tình thương cho con
thì sâu kín: “Cha cho con một cuộc đời, mối
tình sâu kín trong lời dạy khuyên, lòng cha nghiêm nghị thiêng liêng, cho con lẽ
sống giữa miền trần gian.” Chính sự ẩn tàng ấy sâu kín của tình thương Cha ấy
đã tiếp cho con bản lĩnh sống giữa cuộc đời. Bản lĩnh và nghị lực sống của con
bây giờ có phải chăng đã di truyền từ Cha: “Cha
là bầu trời, con thơ là hạt bụi, con lẫn vào cha từ bé đến muôn đời.” Và Mẹ
cũng vậy, “Mẹ hiển nhiên như trời đất đã
thành, như cuộc đời không thể thiếu trong con”. Và rồi, từ cái không có gì
đó, con được sinh thành, được trưởng dưỡng để lớn khôn. Từ một hạt bụi như muôn
ngàn hạt bụi lang thang, con về đây nương gá nơi bào thai Mẹ: “Hình hài con khi còn là hạt bụi, lớn lên dần
qua tim mẹ bao dung.” Chỉ có tình thương thôi, mà Cha và Mẹ đã tạo dựng nên
sắc màu của cuộc sống muôn trùng. Và tình thương ấy không bao giờ phai nhạt. “Mẹ là sữa ngọt quê hương, rót vào thiên kỷ
nguồn thương cho đời.” Con nên danh phận, hạnh phúc với cuộc đời thì Cha Mẹ
vui mừng cho con. Còn nếu như, con thất bại, hiu quạnh giữa muôn người thì Cha
Mẹ lại là người gần con nhiều hơn để nâng đỡ, vỗ về, chia sẻ… “Con dù lớn vẫn là con của Mẹ, đi hết cuộc đời
lòng Mẹ vẫn theo con.” Khi con lớn khôn, bước vào đời, rời xa vòng tay che
chở của Cha Mẹ, con đi xa cho thỏa chí tang bồng. Có thể là, con cần phải đi xa
để lo cho sự nghiệp của mình. Hay cũng có thể là, con đi xa chứng minh rằng
mình đã lớn, đã có thể tự lập được rồi, không còn muốn Cha Mẹ chăm nom nữa…
Nhưng dẫu có xa đến đâu, dẫu con có phiêu bạt ở chân trời hay góc biển nào thì
tình thương của Cha Mẹ ấy, tấm lòng của Cha Mẹ ấy vẫn dõi theo con như ánh
trăng rằm theo người lữ khách đêm khuya. “Mẹ
vầng trăng sáng thiên thu, soi đời con bước lãng du hải hà” Hơn thua, được
mất ở đời… cái gì rồi cũng bị phủ mờ dưới lớp bụi của thời gian. Nhưng tình
thương của Cha và của Mẹ thì không hề nhạt đi. “Biển đông có lúc đầy vơi, chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.”
Với tình thương mênh mông của Cha Mẹ
ấy, với công đức sinh thành và dưỡng dục ấy… phận làm sao con cái sao có thể
quay lưng lại được. Kinh Thi có câu: “Phụ
hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân,
hạo Thiên võng cực.” Nghĩa là: Cha sanh ta, mẹ nuôi ta, thương thay Cha Mẹ
sinh dưỡng ta khó nhọc, muốn báo đáp ơn sâu, ơn đức của Cha Mẹ mênh mông như
bầu Trời. “Mênh mông lòng mẹ thương ta,
xin hòa thành bản tình ca dâng người.” Vô phương trước sự báo đáp, đền trả công ơn
sinh thành dưỡng dục, những người con chỉ có thể tri ân thôi và cũng chỉ có thể
báo bổ trong muôn một thôi. Và nhất là đối với Cha Mẹ còn sinh tiền thì phải hết
lòng phụng dưỡng, sớm viếng tối thăm, ân cần thưa hỏi. Chính sự thưa hỏi đó,
làm cho Cha Mẹ được nguôi ngoa ở tuổi xế chiều, làm cho Cha Mẹ không cảm thấy
cô liêu, quạnh quẻ với cái già, cái bệnh đơn côi. Với dòng chảy của thời gian
trôi nhanh vun vút ấy, mấy ai trong nhân gian có thể thoát khỏi cảnh lão bệnh nầy.
Lúc còn trẻ thì Cha và Mẹ đã vì mình mà lam lủ, bôn ba để tạo dựng, xây đắp cho
gia đình, con cái. Vì vậy mà khi về già, sức khỏe của Cha Mẹ hao mòn, đau nhức
toàn thân. Có bao giờ con đã trả ơn bằng cách đấm lưng cho Cha, bóp tay cho Mẹ
chưa, hay con đã vô tâm bỏ mặc, lãng quên sự đau nhức ấy…
Ôi nói
sao cho hết tấm lòng hi sinh cao cả, vô bờ bến một đời của Cha, một đời của Mẹ.
Cho nên: “Ai còn Mẹ xin đừng làm mẹ khóc, đừng để
buồn lên mắt Mẹ nghe không!” Lời nhắn nhủ ấy, gần giũ, thân thương như bài
ca “Bông hồng cài áo”. “Rồi một chiều nào
đó anh về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu, rồi nói, nói với Mẹ rằng “Mẹ ơi, Mẹ ơi,
Mẹ có biết hay không ?” Biết gì? “Biết là, biết là con thương Mẹ không ?””
Mùa Vu Lan năm nay lại về, xin cầu
chúc cho hai đấng sinh thành khắp cả mười phương luôn được an lành và hạnh phúc
trong tình thương yêu và kính trọng của con cháu. Xin cài lên áo anh, chị, em
một đóa hoa hồng để biết là mình đang rất hạnh phúc còn Mẹ trên đời. Và “Vu Lan đến thêm người cài hoa trắng,
trần gian buồn thêm một kẻ mồ côi”, xin chia buồn với những ai đã
không còn Mẹ trên đời. Để rồi một ngày nào đó, “con về quỳ giữa quê hương, thầm hôn lên những bước đường Mẹ
qua.”
Chùa Phật Đà, San Diego ngày 9/8/2011.
Discussion about this post