(Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm)
[1] Hồng trang cổ tích
Duyên đưa bước lại tìm qua
Xe lăn hằn vết phù sa Tiền Đường
Kiều nhìn nước ẩn mây hường
Bãi sông thẳng tắp một đường sóng xanh.
Đá rêu dựng lối vòng quanh
Nước đêm ngày vỗ về ghành núi xa
Chốn này thuở bước chân ra
Sóng tung hoa trắng, lệ sa hàng hàng
Tiền Đường mấy nhịp đoạn tràng
Kiều nhìn bãi cát in vàng dấu chân
Bước ai mấy nẻo phù vân
Qua đây ghé lại một lần bến sông
Chân đi bước dõi theo lòng
Lòng ai có biết cái vòng quẫn quanh
Ngày buông thân giữa dòng xanh
Nước thay quan quách cuốn nhanh hình hài
Giờ qua lại bến sông này
Sương rơi lấm tấm, khói xây mờ mờ
Mây trời cuộn lọn như tơ
Nước xuôi khe khẽ gió đưa hoa ngàn. (20)
Kiều nhìn mây nước mơ màng
Thân ta đã mấy lần sang đất này
Theo dòng dịch hóa vần xoay
Áo thưa gió hạ, vai gầy tuyết đông
Nghĩa ân nặng gánh tình thâm
Lòng theo mệnh nước, thân dầm tuyết băng
Biên cương tím ngắt mây giăng
Tỳ bà vọng tiếng ải quan lạnh lùng
Mắt thu chan chứa giọt hồng
Vời trông non nước mịt mùng trời mây (30)
Mang mang còn một khúc này
Cỏ khô mộ nấm, trăng cài đêm sương
Hán Hung tàn bãi chiến trường
Xưa đem một thiếp mở đường quân cơ
Biên quan day dứt gió đưa
Ai về còn nhớ nắng mưa chốn nào.
Trai tuấn kiệt, gái anh hào
Dường như chưa dứt đường vào tử sinh
Đẩy đưa kiếp kiếp nặng tình
Bệ rồng hoa nở trên cành mẫu đơn
Duyên trời đẹp ý quân vương
Hài tiên khép nép hoa nhường dáng ai
Thanh cung ngọn nước Bồng Lai
Dặt dìu sáo trúc âm giai hợp hòa
Xa đưa thoăn thoắt tay ngà
Đàn tranh quyện tiếng tỳ bà vấn vương
Nghê thường một khúc tiên nương
Hoa cài áo, cổ đeo hương duyên hài
Điểm trang mắt phượng mày ngài
Vô tình, hữu ý, cứu bầy trẻ thơ
Trọng nam khinh nữ bấy giờ
Dân gian thay đổi, chẳng chờ nam nhi
Mong sao vào bậc hoàng phi
Lòng người thôi ác cũng vì đỉnh chung
Giai nhân sánh với anh hùng
Đầm đìa huyết lệ ghi cùng thiên thu.
Xe lăn bánh cuộn bụi mù
Lều tranh lúp xúp dãi dầu nắng mưa
Kiều nhìn dãi đất lơ thơ
Vài nương rau diếp cạnh bờ cỏ rêu
Gió lùa cuốn chiếc khăn thêu
Kìều quàng trên cổ bay theo nắng chiều. (62)
[2] Bồi hồi rừng thu
Thu un khói tím đồi xanh
Ung dung áo lụa quấn vành khăn tơ
Giỏ tre hoa trái bút thơ
Kiều mang dép cỏ leo bờ dốc nghiêng
Chùa tranh ai dựng bên triền
Xưa kia chẳng mấy người tìm đến tên
Rừng sâu núi dốc chênh vênh
Một chàng cầu đạo trèo lên đỉnh này
Chung quanh những nước cùng mây
Bốn bề lặng ngắt cỏ cây um tùm
Đường đi giục giã tưởng gần
Mà sao hun hút nắng dần dần phai
Lối ra chắng chịt cây gai
Nhìn quanh nhà cửa chẳng ai chốn này
Thì thôi cũng hết một ngày
Ngả mình xuống đám cỏ may bên hồ
Đêm buông mệt lã nằm co
Nắm cơm đỡ dạ mai dò lối ra
Mơ màng một giấc mộng hoa
Dáng người thánh nữ trải tòa tinh khôi
Khoan thai bước xuống chân đồi
Lối quanh sỏi nhỏ, một đôi bậc thềm
Vội vàng theo dấu chân im
Thưa rằng: “Lạc bước hỏi tìm lối ra”.
Cười rằng: “Cũng chẳng đâu xa
Xưa kia dường đã lại qua chốn này.
Pháp âm tươi cúc, hồng mai
Hồng chung trầm bỗng đêm ngày chẳng lơi.
Vả chăng tâm chẳng như lời
Nay đà lạc bước chân đời đến đây
Dù rằng dấu hạc chân mây
Trong vòng pháp giới cũng xoay bước tìm”
Nói rồi rão bước chân êm
Đồi hoa khuất dạng rừng im lặng rừng.
Tỉnh ra vạt nắng chưa hồng
Nhìn quanh chỉ thấy cỏ bồng phất phơ
Theo đường hoa dại lơ thơ
Lại qua khoảng đất một bờ xanh rêu
Không xa suối nước như reo
Dưới tàng lá đỏ như treo hoa cười
Dọc theo lối cỏ đơm tươi
Bên triền đá dựng tượng người trong mơ
Nếp khăn thô vấn hững hờ
Thả ngang suối tóc choàng bờ vai thon
Dừng chân trước tượng bàng hoàng
Mộng đây, người đó, một hàng nến trong. (108)
Quẳng đôi dép cỏ đồi hồng
Lội ngang suối cạn ngược dòng nước xuôi
Kiều nhìn tượng đá bên đồi
Nét cười chạm khắc vẻ người đơn sơ
Mắt nhìn như đã từng chờ
Trên tay tượng quyển kinh thơ ố màu
Đồi cao bãng lãng lá thu
Lá tung tăng gió, lá nhu mì cài
Tay Kiều chạm chuỗi ngọc trai
Mẹ đeo vào cổ những ngày còn thơ
Châu như ngấn lệ ngàn xưa
Giờ còn vang vọng tiếng tơ đêm rằm
Lần khuy tháo chuỗi khấn thầm
Mang vào tay tượng một vòng ngọc xưa
Mai sau dù nắng dù mưa
Nguyện rằng bước bước chân đưa theo Thầy.
Lần theo suối lá dặm dài
Cây nghiêng tàng đổ lá bay đỏ trời
Xa trông thấp thoáng bóng người
Tay cầm chổi quét ngọn đồi lá phong
Áo nâu phơ phất thân còm
Bóng chênh vênh núi một vòm trán cao
Quần lam ống trước ống sau
Chổi quơ bốn hướng như vào cõi không
Tung bay sóng lá chập chùng
Lơ thơ gió điểm vài bông hoa ngàn
Mở ra đường dốc thênh thang
Chổi như quét cả mây vàng xuống khe
Đường lên xanh ngát trúc che
Mặt trời lấp ló muốn khoe nắng hồng. (138)
[3] Một khúc Triêu Dương
Mây xa lồng ngọn thu phong
Bóng in vách núi khói vòng hơi sương
Nhớ ngày trên đỉnh Triêu Dương
Dãy Tiên Hà Lĩnh hồi chuông ngân đều
Non xanh sóng biển dập dìu
Ngư dân phơi lưới mỗi chiều về ngang
Kẻ xuôi người ngược rộn ràng
Sau ngày vất vả vội vàng lên non
Chùa trên Phật Lũng chon von
Núi như sen úp cánh son nhụy vàng
Kinh hoa mực thấm lòng trang
Tay Kiều nắn nót hàng hàng như thêu
Khi theo mẹ tụng kinh chiều
Khi thì đi vét cỏ rêu trên cồn
Kết làm một tấm bồ đoàn
Dâng thầy khuya sớm quỳ hoàn thời kinh
Những khi lòng được an bình
Tưởng năm mười bốn trọn tình xuất gia
Nhưng rồi ngày tháng lại qua
Bắc Kinh mười sáu theo cha trở về
Tiểu khê sóng gợn câu thề
Nghiệp duyên, duyên nghiệp lưới mê buộc ràng
Mới hay nhân quả tự làm
Có ai đem sổ đoạn tràng trao tay
Tiếc khi bé bõng thơ ngây
Tuổi vừa lên bảy nghe thầy giảng kinh
Phổ Môn phẩm, diệu thánh linh
In trong trí nhớ hiện hình Quán Âm
Tưởng là dứt lối mê trầm
Tưởng là vạn nẻo lạc lầm chẳng nghe
Nhớ lời thệ nguyện xưa kia
Nhớ khi kinh sớm kệ khuya bao mùa
Nhớ khi đẻo tượng sân chùa
Đốn nhành cây Gió hương đưa ý tình
Lời Thầy: “Hoa Đảnh uy linh
Là đệ nhất nghĩa tượng hình đài sen
Cánh ngoài chẳng lấm bùn đen
Đài gương thanh khiết hương chen nhụy vàng
Ví như đốn giáo rỡ ràng
Vượt qua thứ đệ vào hàng viên dung”.
Lời Thầy như đại hồng chung
Kiều đem ghi khắc vào lòng dám quên
Những khi nằm dõi màn đêm
Ứa hai hàng lệ mong đền ân sâu
Những khi thân trải bể dâu
Lời Thầy văng vẵng thêm đau đớn lòng
Liên hoa thơm ngát hương nồng
Quyển kinh diệu pháp Kiều lồng trang thơ
Triêu Dương còn có bao giờ
Trở về Hoa Đảnh nằm chờ trăng thanh
Lời Thầy: “Một lá trầu xanh
Trầu không vôi trắng nhai thành đỏ tươi”.
Đến nay mới hiểu ý người
Chân không diệu dụng vì đời sinh thân
Sá chi không, có, phù vân
Ai buồn ngồi đếm mấy lần lá bay. (194)
Kiều nhìn vạt nắng dần phai
Chợt nghe như tiếng lá cây xạc xào
Nghiêng đầu nhàn nhã cúi chào
Thì ra người quét lá vào tận đây
Áo sờn bụi bám đầy tay
Bạc phơ tóc chấm xương vai khô gầy
Mặt nghiêm lộ nét uy nghi
Trên hai hốc mắt hai vì sao đêm
Kiều thưa: “Theo lối cỏ êm
Chẳng ngờ lạc bước rừng thiền nào hay
Nếu như xao động chốn này
Cầu xin lượng thứ một ngày lại đi”
Cười rằng: “Thiên tải nhất thì
Cơ duyên hội ngộ dễ gì vào tay
Cứ trông theo dấu bèo mây
Biết đâu nhiều kiếp chốn này đã qua
Rừng xanh đá dựng thành nhà
Chẳng từ chối khách mới là rừng xanh
Nếu như chẳng ngại điển kinh
Duyên đưa ghé lại mái đình một phen.”
Nói rồi xoay bước đi lên
Khuất sau bóng trúc in trên nắng tà. (216)
[4] Kinh chiều
Chiều ra xem lại vườn sau
Cỏ thu vàng úa, lách lau chen hàng
Mướp hương lá úng, lá vàng
Mồng tơi trên giậu đâm ngang, mọc bừa
Dưới giàn hoa lý thớt thưa
Kiều ngồi nhịp võng đong đưa chân ngà
Nghĩ mai ươm lại cội hoa
Đến mùa trổ nụ mang qua cúng chùa
Thơm hương cũng đã mấy mùa
Ướp trong trang sách kinh thơ của thầy
Mai sau trên đỉnh đồi mây
Phiêu bồng muôn hướng về đây một ngày
Từ khi dõi bước chân thầy
Nhiều lần tựa cửa trông mây phương nào
Mây chiều như tấm vân bào
Trải ra một khoảnh trời cao nhuộm vàng
Vui chơi gió lại tìm sang
Mây lồng trong gió như hàng phướn bay
Trách lòng những tháng năm dài
Chân in bãi cát tìm hoài dấu chân
Bốn mùa thu hạ đông xuân
Ngùi trông cố quận tưởng chừng chưa xa
Nhớ ngày tìm đến đồi hoa
Đỉnh cao Nam Nhạc trải tòa quy y
Bây giờ vọng tiếng từ quy
Nước non nghìn dặm lối đi nghìn trùng
Đêm thanh lý trí tương phùng
Mảnh gương chen giữa hai vòng thủy chung
Đạo đời có có không không
Soi qua chiếu lại một dòng uyên nguyên
Tỳ bà hòa khúc đàn tiên
Tơ rơi trên gối tơ riêng cõi nào
Kiều ngồi bó gối u sầu
Trang kinh chép dỡ đậm màu mực tươi
Chiều nay xem lại bồi hồi
Trang kinh ẩn hiện lời lời thiết tha
Trách mình chuông mỏ dần dà
Mãi mê rão bước rừng già cuối thu
Đèn hoa khi tỏ, khi lu
Trăng nghiêng cồn gió sương mù mịt bay
Bỗng nghe chuông vọng rừng cây
Tiếng ngân thanh thoát tỉnh bầy chim khuyên
Bay lên như kết lọng huyền
Vòng ngang góc núi bay liền về nam
Tiếng kinh chiều tự chùa lam
Sáng trong như ngọc kim cang kết tòa
Tiếng lơi, tiếng nhặt hợp hòa
Như sương mưa sớm rưới tà chuối cau
Kiều ngồi yên lặng cúi đầu
Xa xăm còn nhớ hoa ngâu rụng vàng
Xưa theo mẹ đến chùa làng
Vòng tay kính cẩn dưới làn trầm bay
Lời kinh đồng vọng bấy nay
Âm vang day dứt tháng ngày nổi trôi
Dù mai góc bể chân trời
Trang kinh ngày cũ chẳng vơi tấc lòng
Nhớ ngày chạy giỡn ngoài đồng
Chùa thầy cách một bãi sông cuối làng
Kiều, Vân áo mới xênh xang
Tóc xanh mẹ quấn một tràng hoa tươi
Vào ngày lễ hội tháng mười
Áo nâu, Kiều đóng vai người xuất gia
Vân làm lão lái đò già
Đưa người mến đạo về qua chùa này
Trước sân sụp lạy cầu thầy
Tràng hoa trên tóc rơi ngay bên hè
Thầy cười tháo chuỗi bồ đề
Choàng ngay vào cổ đem về thay hoa
Mười lăm năm, một cành thoa
Chuỗi xưa dấu kín dưới tà áo lơi (286)
[5] Phóng lên trang giấy cõi bờ vô biên
Sáng nay qua lại rừng tùng
Mái đình cong vút rêu phong bám đầy
Gió ru bãi cỏ xanh rì
Hàng thông sừng sững đón mây viếng rừng
Đi quanh hồ nước ngập ngừng
Nghe như thoang thoảng một vùng trầm hương
Leo lên bậc đá đẫm sương
Kiều vào dưới mái tranh vờn khói bay
Giò lan cọng lá vươn dài
Mấy bông ngọc điệp cánh hây hây hồng
Quanh phòng thơm ngát hương tùng
Bức tranh thủy mặc đậm dòng thơ ghi
Bên trong nhẹ bước chân đi
Tiếng chào sau cánh cửa mây khép hờ
Kiều thưa: “Chờ dứt cơn mưa
Dần dà mới thấy sương mờ buổi mai”
Cười rằng: “Lá lại rơi đầy
Mới hôm nào quét mà nay đỏ hồng”
Ung dung mời khách vào trong
Chung trà tỏa khói từ lòng tay trao
Phất phơ dòng tóc trắng phau
Nụ cười cương nghị, mắt màu sao đêm
Đong đưa ống trúc lay rèm
Lung linh ngọn nến nhỏ thêm sáp hồng
Kiều thưa: “Nét bút mấy dòng
Khác chi những sợi khói lồng trên tranh
Đề thơ hẳn bậc tài danh
Ý lời sâu kín tung hoành như chơi.”
Đáp rằng: “Thơ chẳng phải lời
Đề thơ cũng chỉ vì người ngày nay
Ý tình chẳng dỡ, chẳng hay
Khác nào sợi khói vờn bay vừa rồi.
Nếu như ý chỉ như lời
Hóa ra thơ bút không ngoài hữu vi”.
Kiều nghe lòng tựa hoa quỳ
Hướng dương theo với ngày đi, đêm về
Trang kinh chép dỡ dang kia
Não nề nét mực tái tê từng dòng
Mối sầu dấu tự đáy lòng
Khoác lên trang giấy thấm hồng trái tim
Dù không mây núi, trăng thềm
Thoát vòng tình ái như quên hình hài
Nhưng trong giấc quế hồn mai
Dường như đâu đó sợi dây buộc ràng
Khi như lãng đãng mộng vàng
Khi thì tụ lại, khi tan tác lìa.
Kiều thưa: “Trăm mối bộn bề
Đọc thơ chẳng giống người đề câu thơ
Dường như nét bút thờ ơ
Phóng lên trang giấy cõi bờ vô biên”
Cười rằng: “Chẳng xứng lời khen
Đôi câu ghi vội như quen thói nhà
Mái tranh chẳng mấy ai qua
Cùng vui chung nước, chén trà bấy lâu
Một lời đủ tạ lòng nhau
Có không như giấc chiêm bao giữa ngày”.
Kiều nhìn bóng lá lung lay
Ngoài hiên ánh nắng buổi mai rực hồng
Vi vu gió hát bên rừng
Đôi con chim sẻ nhảy từng nhánh cây
Cáo từ Kiều chắp hai tay
Bậc thềm đưa tiển một ngày sắp qua. (348)
[6] Hạnh nguyện dưới trăng
Chiều nay mang xuống đàn xưa
Treo trên vách trúc bục trơ dây chùng
Từ khi dứt tiếng tơ đồng
Cung thương ngày cũ tưởng chừng như xa
Ngày nào lệ quyện giang hà
Ngày nào sương núi đẫm tà áo bay
Ngày nào thơ thẩn trông mây
Mười lăm năm, tiếng thở dài theo chân
Đến chừng hồn vỡ cùng thân
Mới hay một áng phù vân, sá gì
Khổ đau hằn tháng năm dài
Chẳng ngờ lòng ấy, thân này cũng không
Từ ngày khép kín phòng không
Tơ đàn im tiếng, tơ chùng, phiếm lơi
Hôm nay nhìn lại bồi hồi
Cây đàn như muốn góp lời cùng ai
Tơ buông đàn ngẩn ngơ dây
Tiếng tươi hoa suối, tiếng ngây ngất rừng
Reo vui tiếng chậm tiếng dừng
Tiếng ngân lảnh lót nở bừng nụ mai
Thơm hương mười ngón tay ai
Tựu thành cung bậc âm giai bồng bềnh
Tiếng rơi cuối thác đầu ghềnh
Tiếng mưa tí tách đập phên cửa cài
Chợt nghe ai động mái ngoài
Bóng Kim vừa bước lên đài vọng tiên
Dừng tay Kiều ngẫng đầu nhìn
Bâng khuâng sóng mắt, xanh xanh mây trời
Kiều thưa: “Thời tiết đổi dời
Sương đà thấm ướt áo người có hay
Không ngờ chàng ghé gác mây
Chậm pha trà ướp hồng mai cuối mùa”
Kim rằng: “Đàn khác hẳn xưa
Nghe như gió cuốn mây đưa chốn nào
Dư âm bàng bạc ngàn sao
Tiếng ngân vút tận đỉnh cao không lời”.
Kiều rời bục gỗ mĩm cười
Nụ lan vừa mới trổ tươi sáng này
Chung trà un khói hồng mai
Nước thơm sóng sánh trên tay ai cầm
Kiều thưa: “Đàn cũng như lòng
Mở ra một cõi sắc không diệu vời
Bao năm dõi dấu chân người
Chắt chiu muốn giữ chặng đời đã qua
Cánh tàn mà mãi tìm hoa
Hương xưa đâu thể vẫn là hương xưa
Hỏi lòng hẳn có bao giờ
Đất thiêng và cõi đang mơ nối liền.”
Tay Kiều như nhánh thủy tiên
Ngón tay vờn sóng lá hiền đong đưa
Thong dong như chẳng đợi chờ
Phiêu diêu vô tận bến bờ tự nhiên
Kim nghe trong tiếng u huyền
Mở ra ngàn nhánh tay tiên một lần
Tay nào dìu dắt, bế bồng
Tay nào kéo lại trời gần đất xa
Tay nào đơm nhụy trăm hoa
Tay nào kết lại một tòa thiên chân
Tay nào lần hạt bảo trân
Tay nào kiếm báu tuệ tâm sáng ngời
Tay nào ôm ấp cõi đời
Tay nào trầm lắng một hồi chuông ngân
Tay nào ấn xuống mê tâm
Tay nào vun xới hạt mầm héo khô
Tay nào sen nở bên hồ
Tay nào lần quyển kinh thơ lệ nhòa
Tay nào trổi tiếng pháp loa
Tay nào chống trượng lại qua cõi này. (416)
[7] Trơ vơ trăng lạnh một Kiều với trăng
Kiều lên tận đỉnh đồi xanh
Áo tơ phơ phất dưới cành thông tươi
Loanh quanh hoa dại chào mời
Xa xa thẳng tắp nước dời chân mây
Đồi thông sừng sững hàng cây
Hương thông quyện gió dễ say lòng người
Nhớ thời bé bõng lên mười
Kiều, Vân trốn mẹ rong chơi chốn này
Quả thông khô nhặt bày quầy
Nhánh làm đòn gánh quảy vai bán hàng
Bao năm xuôi ngược ngỗn ngang
Tuổi thơ về lại xóa ngàn nghĩ suy
Trắng trong như một anh nhi
Theo lòng dâu bể người đi, kẻ về
Trang kinh như vạn câu thề
Chép đi chép lại chẳng hề lãng xao
Sợ rằng gió dạt mưa dào
Ngại đời muôn ngã thấp cao mặc người
Khi lên tận đỉnh mây dời
Khi thì bèo dạt rong trôi dập dìu
Lá hoa đón gió muôn chiều
Trơ vơ trăng lạnh một Kiều với trăng
Quên chân tình rõ chân tâm
Cái vòng có có không không diệu vời (440)
Lối quanh dẫn xuống chân đồi
Dưới tàng cây lớn ai ngồi lặng yên
Áo lam phảng phất hương thiền
Tầm nhìn khép lại một miền cỏ hoa
Đến gần rõ dáng ni cô
Sau lưng đá dựng một tòa uy nghi
Dừng chân Kiều chắp hai tay
Mĩm cười đáp lại dáng mai gầy gầy
Dung quang rực rỡ lạ kỳ
Khăn lam che nửa nét mày thanh thanh
Mắt nhìn gói trọn biển xanh
Môi cười chớm nở tinh anh nụ hồng
Chung quanh cọ vẽ, bút lông
Đôi ba quyển sách, vải lồng trên khung
Tay đưa thư thả thong dong
Chảy trên vải trắng một dòng thiên thu
Kiều thưa: “Nét cọ trầm hùng
Khéo chen màu sắc lạ lùng như in”
Cười rằng: “Cảnh đẹp trong tranh
Mai sau bên suối tịnh thanh tâm này
Xuân tươi vốn tự nguyên lai
Cõi xa nghìn dặm ai hay trở về
Tay tiên trổ nhánh bồ đề
Người qua kẻ lại, tỉnh, mê, hài hòa.
Lòng đà ra khỏi cung ma
Phổ truyền thánh pháp thôn xa, xóm gần
Chờ duyên mới độ, phàm nhân
Tạo duyên mà độ, một vầng thanh lương
Dòng kinh tuệ ngát trầm hương
Ngọn cờ phất phới mười phương thái hòa
Lòng một đạo, trí bao la
Thông minh sáng suốt tìm ra con đường
Chốn khó khăn phải đãm đương
Oan ương nhận chịu đạo dường chẳng xa
Biết rằng duyên nghiệp do ta
Duyên từ ta đến nghiệp từ ta đi
Hỏi rằng tu được pháp gì
Tâm đồng chư Phật vậy thì pháp môn”. (478)
[8] Tận hư không biến pháp giới
Kiều ngồi lật quyển kinh thơ
Mực in lòng giấy, tay đưa từng hàng
Nhớ ngày còn ở quê làng
Thường theo thuyền trúc chèo sang bên chùa
Đồi cao lấm tấm sao thưa
Khe sâu mấy dịp ngập mùa lá bay
Thầy ngồi, xâu chuỗi trên tay
Trước hiên trầm mấy nhánh mai sớm vàng
Nón rơm gậy trúc thênh thang
Áo bay các cõi như hàng cờ hoa
Có khi lên tận non xa
Có khi về với trăng ngà nghiêng nghiêng
Cùng hoa cùng lá kết duyên
Đến đi chẳng để mối phiền cho ai
Chẳng nam bắc, chẳng đông tây
Quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng nề
Giúp người bận rộn trăm bề
Chỉ e chậm gót đi, về với ai
Trường Sơn một nét cong dài
Lí sự vô ngại, hình hài cũng không
Mong sao thế giới đại đồng
Người người hòa hợp không phân giống nòi
Còn chi là của riêng tôi
Mê tâm cuồng vọng theo đời đến đi
Mắt nhìn thấu suốt huyền vi
Chúng sinh chủng chủng phân ly được nào
Đưa tay dìu thoát hố hào
Bước chân thần biến ra vào từng khi
Nắng mưa một mảnh pháp y
Kinh quyền thần hóa hợp ly diệu vời
Dạy dân, cứu bệnh cho người
Bàn tay hoán chuyển đổi dời mệnh căn
Hóa duyên, xin chúng sinh tâm
Não phiền cho lão thì lòng được an
Độc hành khắp cõi ứng thân
Chẳng màng tên tuổi, hèn sang mặc tình
Dương cung dưới bóng trăng thanh
Mũi tên cắm giữa cung đình ma quân
Ngựa như bay khỏi núi rừng
Vạt tăng bào phất nửa chừng không gian.
Bản kinh bát nhã mạ vàng
Công thầy chăm chú hàng hàng thiên kim
Cất trong hộp đá giữ gìn
Bấy nhiêu năm hẳn thất truyền hay chăng
Bóng thầy biền biệt thu xuân
Mở trang kinh cũ rưng rưng lệ tràn
Lí, Hành một cõi rỗng rang
Đỉnh cao gió hú mở mang cơ đồ
Pháp âm tràn ngọn Đại Tô
Đức cao như núi, một vò tịnh minh
Thần thông khế hợp lời kinh
Phô bày hiển giáo song hành vô ngôn
Vô tướng hạnh, vô tướng tông
Vượt trên thứ đệ vào trong liên đài (532)
[9] Nguyện như sợi khói vào trong luân hồi
Tụng thời kinh buổi sáng nay
Pháp âm còn đọng hàng cây liễu gầy
Lơ thơ trước ngõ lá bay
Mặt trời hé mở trên mây tươi cười
Tay Kiều buông tiếng chuông lơi
Âm ba vang vọng tầng trời thiên thanh
Tiếng rơi trên lá trên cành
Tiếng êm ả gọi, dỗ dành bấy lâu
Tiếng như thúc giục đâu đâu
Tiếng ngân vô tận bể dâu bời bời
Chuông đưa mấy cõi sầu đời
Chuông vào địa ngục rao mời thánh tâm
Tay Kiều khơi thỏi hương trầm
Nguyện như sợi khói vào trong luân hồi
Như từ vô tận trùng khơi
Hiện thân trên áng mây xuôi chốn nào
Bay theo gió thoảng vườn đào
Bay vào nôi ấm hỏi chào ứng thân
Theo làn sương mỏng quây quần
Bay lên đỉnh tuyết xuất thần hiện ra
Hoặc khi khoác mảnh ca sa
Hoặc khi hiện dáng trẻ già nơi nơi
Hoặc khi khăn áo tả tơi
Hoặc khi ngự chốn đài ngôi nghìn trùng
Vào đời phá vỡ tà tông
Hiển dương chánh giáo có không hợp hòa
Viên dung Tiểu Đại một nhà
Thời thời giáo giáo chẳng qua thế tình
Chấp kinh, chấp kệ, chấp mình
Pháp môn, chuông mỏ rập rình tuôn ra
Tưởng gần mà lại hóa xa
Giữ chùa, giữ miễu tâm ta chẳng gìn
Dưới thềm Kiều cúi rạp mình
Hai tay chắp lại như hình đóa sen
Nguyện này xin gởi tam thiên
Đại thiên thế giới một miền gió trăng
Gối vừa chạm xuống thiền sàn
Toàn thân thanh thoát như làn trầm hương
Hiện ra ánh sáng dị thường
Kết thành chuỗi ngọc trông dường nguyệt quang
Phất phơ trước mắt rõ ràng
Tựu thành một bảng kinh vàng gió lay
Tận trong vô tận sương mây
Vào trong vạn hữu đó đây hợp hòa
Áo Kiều chợt hóa ca sa
Sắc vàng óng ánh một tòa thiên chân
Ngoài hiên bốn vị thiên nhân
Tay cầm đàn nguyệt tán dương cội nguồn
Tiếng như suối cuộn mây tuôn
Tiếng như lất phất hạt sương đầu ngày
Dư âm như tự thiên đài
Vọng về chấn động muôn loài chúng sinh
Mang mang một khúc vô thanh
Nghe như mưa pháp trên ghành núi xa
Hoa trời theo gió đưa qua
Rơi trên vai áo cài hoa tóc Kiều. (588)
[10] Một bức hoa tiên
Bãi Tiên một buổi trời chiều
Song song đôi ngựa Kim Kiều dạo chơi
Vốn xưa bãi cát vắng người
Sóng tung bông trắng điểm đồi dương xanh
Lâu ngày ngư phủ về quanh
Đốn cây dương lợp mái tranh dần dà
Văn nhân, mặc khách lại qua
Theo lòng tơ tưởng gọi là Bãi Tiên
Kim Kiều thong thả xuống yên
Dưới thông buộc ngựa dò triền núi xanh
Cheo leo dốc núi gập ghềnh
Leo qua phiến đá như lên thạch bàn
Thoáng nhìn thấy một dị nhân
Ngồi trên bệ đá như đang định thần
Khoan thai Kim chậm bước chân
Kiều hai tay chắp mở khăn cúi chào
Một người dáng vẻ thanh tao
Áo thô vải trắng ố màu thời gian
Mắt nhìn thanh tịnh khinh an
Nụ cười xa vắng hòa tan cơ huyền
Kiều thưa: “Mây nước thanh yên
Vui chân quá bước làm phiền lão sư”
Đáp rằng: “Chẳng luống công dư
Đến đây đã có ý từ bao năm
Duyên xưa đưa đẩy một lần
Gặp người nhớ cảnh chẳng lầm trước sau
Nếu như chẳng ngại đôi câu
Ghé qua lão kể duyên đầu kiếp xưa”.
Thúy Kiều vội chắp tay thưa:
“Cơ duyên cũng lạ, bất ngờ gặp đây
Lắng lòng nghe được lời hay
Biết đâu thanh thản nước mây mặc tình”
Dứt lời ngồi xuống bậc thềm
Kim khoanh tay đứng lặng im mĩm cười.
Rằng: “Xưa cũng thuận cơ trời
Sinh thân vào khoảng cuối đời nhà Nguyên
Cha là tể tướng uy quyền
Mẹ là lá ngọc đẹp duyên hồng trần
Hạ sinh một gái đoan trang
Mặt như sen nở là nàng Liên Hoa
Xuân xanh tuổi mới mười ba
Tin ong sứ điệp cũng là lắm nơi
Tướng công một chút hiếm hoi
Tìm trong lệnh tộc chọn người tài hoa
Thế là ngày tháng trôi qua
Cũng là nợ trước duyên xa bời bời
Đông thiên gặp lúc thảnh thơi
Xui lòng quân tử xa khơi nghìn trùng
Khấu đầu làm lễ ngoài sân
Rằng: “Tôi hàn sĩ một lần đến đây”
Liên Hoa nghe nói thương thay
Mở năm lần cửa ra ngay trông chàng
Cao xanh khéo tạo lỡ làng
Bước lên hoa tự ngỡ ngàng xiết bao
Hoa tiên tay thảo đôi câu
Khuyên chàng trì chí, bể dâu đổi dời
Truyền mang khăn gói tặng người
Tờ hoa tiên đó, một lời đinh ninh
Tạ từ cất bước lênh đênh
Mở ra khăn gói, hãi kinh tấc lòng
Nào là áo lụa khăn hồng
Vàng thoi bạc nén gói trong duyên đầu
Nghĩ mình số phận đớn đau
Bạc vàng châu báu để đâu bây giờ
Ra đi lòng những dặn lòng
Bát cơm Phiếu Mẫu trả xong có lần
Ba đông khăn gói dời chân
Thờ ơ hoa nguyệt ân cần văn chương
Mây trời vừa lộ sắc hồng
Bình minh tỏ rạng anh hùng nên danh
Bốn năm héo hắt chiến chinh
Băng ngàn dẹp loạn thái bình vẻ vang
Nhân khi nguyệt lặn sao tàn
Đưa hồn về chốn lầu vàng thở than
Liên Hoa vằng vặc biên quan
Theo cha đăng đẳng canh tàn héo hon
Nhân đêm thiên địa tuần hoàn
Hồn còn thiêm thiếp giấc vàng nơi đâu
Bỗng nhiên thấy tấm lụa đào
Bay ngang trước mặt sa vào tận tay
Tướng công nghe kể mới hay
Lụa đào phận mỏng là ngày quy thiên.
Thế là nhân chửa theo duyên
Tâm mơ hình tướng đão điên bụi hồng
Đêm đêm lén bước phong trần
Nhìn xuống hạ giới mơ gần, tưởng xa
Sầu đời héo mũ kết hoa
Cánh đào theo gió cuốn xa bềnh bồng
Thiên cung một thuở hai lòng
Đăm đăm mắt dõi theo dòng hương bay
Cõi hồng chếnh choáng men say
Chia lòng tiên tục gió lay hoa tàn
Rời cung ngọc lệ hai hàng
Cá nằm nép xuống ao vàng thảm thay
Bụi hồng ủ rủ chim bay
Hàng Châu thơ thẩn hồ Tây lạnh lùng
Làm thân nô lệ trong vùng
Mười năm thui thủi sống cùng dân đen. (686)
[11] Đôi tay nhân ái hòa ca một bài
Lá rơi lác đác hàng cây
Sương thu un khói đồi mây chập chùng
Kiều ngồi nhịp võng đong đưa
Dưới giàn hoa giấy nắng chưa kịp hồng
Trời thu vừa chớm sang đông
Gió ru lành lạnh hàng thông tần ngần
Đêm qua giấc mộng lạ lùng
Kiều trên chiếc ghế lưng chừng không gian
Giữa ngàn kinh sách ngỗn ngang
Hai tay sắp xếp từng trang từng tờ
Lời thầy vang vọng trong mơ
“Quyển kinh đã học bây giờ mang ra
Thân đồng như cỏ như hoa
Đôi tay nhân ái hòa ca một bài
Đến đi tùy thuận lòng người
Đôi dòng kinh cũ đôi lời huyết âm
Đã đành tức thủy tức chung
Bản mạt cứu cánh cùng trong nghĩa này
Trí người sâu cạn, vơi đầy
Kinh quyền thứ lớp đổi thay không chừng
Như từng dị giải nhất âm
Viết trang ly tướng chẳng lầm tướng sinh
Mái hiên sáng kệ, chiều kinh
Cành dương giọt ngọc tịnh minh kiếp này
Báu trì ngự chốn liên đài
Giờ như ly tướng sau này tướng ly”
Lời thầy văng vẳng trong mây
Gió mai nhè nhẹ rừng cây xạc xào
Cánh chim bỗng tự phương nào
Bay quanh đồi lá bay vào rừng sim
Bay ra đão lại kiếm tìm
Sức như gió cuốn, Kiều im lặng nhìn
Lông chim rực rỡ đỏ xanh
Vàng chen đôi cánh lượn quanh một vòng
Hốt nhiên bay thẳng vào lòng
Nhả trên vạt áo Kiều mồng hạt khô
Nhả rồi như chẳng đợi chờ
Bay vào rừng vắng biết bờ bến nao
Hạt cầm tay, lạ lùng sao
Ngậm ngùi Kiều cất hạt vào hộp hương
Mai sau trên vạn nẻo đường
Nguyện gieo hạt giống mười phương bồ đề (728)
[12] Mấy nhịp cầu sương
Ba lần hiển hiện trong mơ
Cây cầu sương khói lững lơ giữa trời
Vút cao ngun ngút chơi vơi
Không đầu không cuối không nơi tựa vào
Cây cầu như giải lụa đào
Kiều như lọn khói bay vào trời xanh
Nấc thang dốc ngược uốn quanh
Khi đưa lên bậc hóa thành khoảng không
Trên cao mấy nấc bềnh bồng
Nhìn xuống bên dưới thấy không bến bờ
Chân Kiều nhẹ hõng như tơ
Bước lên mỗi bước hững hờ gió bay
Không gian vời vợi đường mây
Lối lên thăm thẳm hương bay lạ lùng
Mờ mờ một cõi không trung
Không nhật không nguyệt không trong không ngoài
Một lần lại hiện giữa vời
Lần này Kiều nắm tay mời Thúy Vân
Bước lên mấy bậc khó khăn
Giữa chừng chợt thấy nấc thang biến hình
Hóa ra hố thẳm chênh vênh
Giữa trời hun hút hai bên hẹp dần
Thúy Vân bủn rủn chùn chân
Kiều cầm tay dỗ: “Dần dần bước ra”
Áo tơ trắng dịu nắng tà
Vờn bay theo bước Kiều qua hố hầm
Thúy Vân nhìn chị an lòng
E dè khép nép bước vòng đi qua
Kiều cười rạng rỡ nét hoa
Lòng như vô tận chan hòa không trung.
Một lần cũng cảnh mông lung
Hai cây cầu hiện song song giữa trời
Giữa cầu một bé trai ngồi
Hai tay chao đão như bơi giữa dòng
Cầu kia, Kiều đứng lắng lòng
Đưa tay giữ lại rồi bồng lấy em
Đặt em ngồi xuống cạnh bên
Chiếc cầu sương khói có thêm một người
Kiều nhìn lòng rộn rã vui
Giật mình tỉnh giấc bồi hồi tình thâm. (768)
[13] Bích câu
Kiều ngồi mở lại trang thơ
Chuyện ngàn năm trước bây giờ là đây
Ai lồng gió cuộn trong mây
Trăm năm sự thế vần xoay rã rời
Bút hoa viết xuống mấy lời
Mà sao sông nước bời bời tình xưa
Tấm lòng theo với mây đưa
Bích câu phân nhánh cho vừa tiểu khê
Mua tranh cầu trúc mang về
Treo lên ghi tạc câu thề ngàn năm
Giáng Kiều thay bóng cố nhân
Theo dòng ảo hóa hiện thân cõi này
Hai Kiều một giấc mộng say
Tựu thành hư ảnh đọa đầy lẫn nhau
Chẳng như mây bạc trên đầu
Đâu màng dừng lại bên cầu nước xuôi
Chẳng như gió lộng phương trời
Ai người thấy biết gió nơi chốn nào
Ai người vẽ lại chiêm bao
Mà trong mộng mị ba đào một thân
Ước gì hóa áng mây gần
Thênh thang phiêu bạt mấy tầng sóng xanh
Có không một cõi phù sinh
Đến như hoa nở trên ghềnh đá lam
Đi như một thoáng hương tan
Ai người cột trói được làn khói bay
Rồi mai như cỏ như cây
Xanh xanh mặt đất một vài cuộc vui
Dỡ hay gởi lại tiếng cười
Chẳng ai còn nhớ có người đã qua
Dư âm còn lại đồi hoa
Cánh sen hồng tím hóa ra áo Kiều. (800)
[14] Lưới tung, sợi sợi buộc ràng
Trời đông một dải sông mây
Trên triền đá trắng một vài ngư dân
Buộc thuyền phơi lưới trước sân
Người người lầm lũi, áo quần tả tơi
Kiều nhìn mạng lưới trải dài
Thấy trăm nghìn kiếp đạo đời bủa giăng
Lưới tung, sợi sợi buộc ràng
Lưới tung, rộng thoát muôn thân lần này
Mở ra, cột lại một tay
Đã buộc tức biết mở ngay chỗ nào
Kiều nhìn đợt sóng dâng trào
Vài con nhạn lẽ bay cao ngọn triều
Đi qua đồi lá tiêu điều
Thoáng nhìn thấy một gã tiều phu say
Gã ôm bầu rượu trong tay
Áo quần tơi tả, mặt say đỏ hồng
Kiều nhìn lòng chợt lạ lùng
Đến gần mới biết đã từng gặp qua
Kẻ từng vu họa hại cha
Kẻ làm tan cửa nát nhà ngày xưa
Không lầm, chính gã bán tơ
Con đường tơ lụa bán mua lẫy lừng
Tráo qua trở lại khó lường
Vương ông nghiêm trị, oán hờn chẳng quên
Dặn lòng nguyền trả thù riêng
Mua lòng quan lại, dùng tiền vu oan
Giờ đây gặp lại giữa đàng
Bước chân vất vưỡng, nhìn nàng chẳng quen
Thúy Kiều nhìn gã, lặng thinh
Tìm đâu ra dáng ngông nghênh ngày nào
Chiếc thân gầy guộc lao chao
Bậm môi, trợn mắt, tay quào, miệng la
Lòng Kiều trăm ngã xót xa
Nửa như đứng lại, nửa đà bước đi
Dường quên mà lại gặp đây
Dòng đời lên xuống như mây qua đèo
Cuối ghềnh đá dựng cheo leo
Kiều ngồi yên lặng, hắt hiu lòng buồn
Mười lăm năm, một vỡ tuồng
Nhân nào tựu quả đau thương dường này.
Kiều nhìn mặt nước chen mây
Bỗng dưng thấy rõ dáng Thầy hiện ra
Đỏ hồng vạt áo ca sa
Thầy đưa tay chỉ hướng nhà gã say
Kiều nhìn thấy gã sóng xoài
Ngả lăn trên mặt tuyết dày trắng phau
Vội vàng Kiều rão bước mau
Đến bên cạnh gã nâng đầu, kéo tay
Vào nhà dìu xuống ghế mây
Quyển kinh mở sẳn đặt ngay trên bàn
Gã say thảng thốt kêu than:
“Làm sao đọc được, mênh mang thế này!”
Cúi người gần mặt gã say
Kiều nhìn trang sách phô bày tự nhiên
Hàng hàng chữ chữ thâm huyền
Nét trên, vạch dưới uyên nguyên từng dòng
Tay Kiều lấy tấm kính trong
Đặt trên trang sách, kính lồng câu kinh
Gã say giờ mới kêu lên:
“Cũng nhờ tấm kính biết tên, đọc lời ! “
Kiều nhìn muôn dặm trùng khơi
Thầy như sợi khói diệu vời thoáng tan.
Gió vờn dòng tóc mơn mang
Giật mình tỉnh mộng trời vàng hiu hiu
Nhìn sang đồi lá tiêu điều
Một vài người khách cuốn lều loay hoay
Một người cười với gã say
Loài chim biển trắng từng bầy bay ngang. (868)
[15] Thường, vô thường, cũng tự mình
Búp hoa vừa chớm nụ xuân
Tay Kiều tỉa nhánh lá non đầu mùa
Vườn nhà mấy độ nắng mưa
Rêu phong xanh lối, phên thưa gió lùa
Kiều nhìn luống đất trơ vơ
Cỏ hoang đan kín không chừa lối qua
Đôi ba hồng dại đơm hoa
Điểm vài chấm trắng nhạt nhòa lơ thơ
Kiều dừng tay thoáng ngẫn ngơ
Lòng đây đất đó có chờ đợi đâu
Vườn nhà hoang phế chưa lâu
Mà nay nhìn lại dãi dầu cỏ hoa
Khác chi tự đáy lòng ta
Đã từng mấy thuở phong ba bời bời
Vui buồn theo cảnh đổi dời
Trời Đông lại tiếc cúc tươi úa vàng
Hoang tàn lại nối hoang tàn
Vòng vòng sinh diệt, hàng hàng nhân duyên
Nhân nhân quả quả nối liền
Lòng như hạt sỏi trên triền núi lăn
Tưởng rằng thực quả thực nhân
Đâu hay từ một chuỗi tâm loạn cuồng
Cõi nào suối đổ thác tuôn
Cõi nào thắp đuốc nối nguồn pháp âm
Cõi nào làm giống thú cầm
Cõi nào hóa kiếp sống gần pháp vương
Lòng theo gió bão muôn phương
Cam tâm mà nhận đoạn trường làm riêng
Biết đâu tâm tạo vạn duyên
Biết đâu tâm khiến ngữa nghiêng phận mình
Tưởng rằng sanh tử tử sanh
Theo dòng trôi nổi thì đành nổi trôi
Vô thường như ngọn nước xuôi
Cuốn phăng thân xác dập vùi chốn nao
Đâu hay căn tánh vời cao
Đôi tay thần lực lật nhào tử sinh
Thường, vô thường, cũng tự mình
Ai đem xiềng xích, gọng kềm trói thân
Tâm này định phận, định căn
Tâm này tháo cũi, mở lồng như không
Kiều cầm hạt giống ươm mầm
Một tay xới luống đất hồng ướt mưa
Hoa ngâu vàng vốn tính ưa
Gieo vào sớ đất để chờ đơm cây
Năm kia hạt lép, mộng dày
Mầm cây mới lú chẳng tày nắng mưa
Năm nay đến độ giao mùa
Lại đem ít hạt gieo chờ cuối xuân.
Dừng tay lòng thoáng bâng khuâng
Tay ta gieo xuống hạt nhân luân hồi
Bốn mùa xoay chuyển đổi dời
Cái vòng ảo hóa chẳng thôi hiện hình
Chấp sinh, chấp diệt, chấp mình
Phá đi, dựng lại, rập rình ngựa xe
Giật mình chưa tỉnh cơn mê
Niên niên mộng mộng lê thê dặm trường
Tay gieo hạt giống vô thường
Lại chờ hái quả miên trường được đâu
Nhân từ bãi bể, nương dâu
Hẳn là quả đậm một màu trần ai
Hoa ngâu vàng thoảng giấc mai
Hương thơm dòng tóc một vài ngày xuân (930)
[16] Đoạn trường cũng cảnh này thôi
Thân Kiều khoác áo tràng lam
Vải thô theo với thời gian ố màu
Cheo leo một đỉnh đồi cao
Vài gian nhà gỗ vòng bao sân chùa
Tăng nhân tụng niệm bốn mùa
Tiếng chuông vọng vách núi lùa gió đêm
Từ khi tạm ẩn cửa thiền
Chép lời Phật thuyết, giải huyền nghĩa kinh
Lập lời thệ nguyện thiêng liêng
Bảo trì chánh pháp trên triền núi Đông
Non cao uốn khúc như rồng
Viền quanh eo biển đường vòng xanh xanh
Nhìn qua phong cảnh hữu tình
Kiều băng thung lũng một mình lên non
Dò theo mấy chặng đường mòn
Núi như sen úp, tám hòn tám khe
Người tiên một thuở đi, về
Chọn nơi thanh vắng hoa kề nước mây
Bao mùa nhật nguyệt vần xoay
Người xưa tìm đến núi này dựng am
Lâu dần lại hóa đạo tràng
Bốn mùa chuông vọng đồi lan chập chùng
Trải bao xuân hạ thu đông
Huy quang rực rỡ, tông phong tựu thành
Kiều nhìn lớp lớp đồi xanh
Thiên nhiên, đại đạo, một vành trăng tươi
Còn gì lưu lại cho đời
Cây che kín lối, đất bồi thấp cao
Xưa kinh chép dưới trăng sao
Như muôn vạn trái tim trao tặng người
Không gian rung động bồi hồi
Máu căn mạch pháp thuyết lời diệu minh.
Đại Tô sương núi xây thành
Lạy thầy vâng lệnh Nam Kinh hóa hoằng
Dần dà mấy độ thu xuân
Hoàng cung thuyết giảng rạng ân cửu trùng
Bổng đâu náo động một vùng
Lẫy lừng binh tướng oai hùng ngựa xe
Đón mời, nhắn nhủ, răn đe
Thương đời rủ áo quay về rừng thu
Chạnh lòng nhớ đức ân sâu
Từ khi xuống núi thấy đâu bóng thầy
Thân con lần lữa tháng ngày
Chốn xưa hẳn có đổi thay ít nhiều
Đêm trên Hoa Đảnh trăng treo
Định thiền cảm ứng đưa theo cơ huyền
Đại Bi Bát Nhã bản nguyên
Là đệ nhất nghĩa nối truyền pháp đăng
Một mình lặng lẻ dưới trăng
Chợt nhìn giữa ngực một vầng sen thơm
Nở ra một đóa dị thường
Trong hoa đồng tử đọc chương kinh thần
Đưa tay đỡ cánh sen hồng
Đặt trên mặt đất ngùi trông núi rừng
Mưa như vần vũ không trung
Nhìn chân núi thấy người cùng nước dâng
Bùn lầy ngập đến ngang lưng
Đứng trong gió bão trơ thân cơ hàn
Ngước nhìn lên đỉnh già lam
Người mong người đợi người cam phận người
Đoạn trường cũng cảnh này thôi
Phải đâu tan tác chỉ mười lăm năm.
Kiều nghe như tiếng khóc thầm
Trong mưa u uất thanh âm cõi nào
Hạt mưa ướt vạt pháp bào
Mưa rơi trên mặt lạnh màu núi xanh. (996)
Hết
BÀI ĐỌC THÊM:
Thả Một Bè Lau: Truyện Kiều Dưới Cái Nhìn Thiền Quán (Nhất Hạnh)
Truyện Kiều Qua Cái Nhìn Phật Học – Luận Văn Tốt Nghiệp (Thích Đồng Trực)
Phật Giáo Trong Truyện Kiều (Nguyễn Ngọc Bích)
Truyện Kiều Văn Xuôi (Nhất Hạnh)
Discussion about this post