đình chúng tôi được xem bộ phim Tây Du Ký, hầu như ai cũng
cảm thấy thích thú và tiếp cận được phần nào Phật giáo
qua bộ phim này. Riêng tôi có nhận xét ngược lại: Bộ phim đã có nội dung xuyên tạc và bôi bác Phật giáo,
thí dụ như hình ảnh Đức Phật dùng thần thông chụp năm
quả núi lớn đè xuống mình Tôn Ngộ Không một cách
thiếu từ bi rồi liền quay lại hớn hở nhìn cô Hằng Nga
ca múa và hình ảnh ngài Ca Diếp và ngài A Nan, hai đại đệ
tử của Đức Phật, đòi “hối lộ” vàng bạc mới cho
thỉnh bộ kinh mang về Trung Hoa. Và cuối cùng ngài Đường
Tăng đã phải hối lộ chiếc bình bát bằng vàng do vua trao
tặng để đổi lấy bộ kinh đem về nước. Vậy xin ban biên
tập, nếu có thể được, hoan hỷ cho chúng tôi biết ý kiến
về bộ truyện cũng như bộ phim Tây Du Ký này. Xin cảm
ơn ban biên tập trước.
TRẢ
LỜI: Sau khi xem Tây Du Ký qua phim và đọc nguyên
bản của tác giả Ngô Thừa Ân ban biên tập chúng tôi nhận
thấy nội dung phim có phần không phản ánh đúng giáo lý của
nhà Phật, nếu không muốn nói là tác gỉa và đạo diễn
bộ phim đã xuyên tạc và bôi bác Phật giáo. Tuy nhiên,
nhận định của chúng tôi có thể còn khiếm khuyết. Vì thế chúng tôi mời đạo hữu và quý độc giả xem hai
nhận định về Tây Du Ký của Đại lão Hoà thượng
Hư Vân, một vị cao tăng cận đại của Phật giáo
Trung Hoa và của Đại Đức Tiến Sĩ Thích Nhật Từ,
một giảng sư Đại học Phật giáo Việt Nam tại TP. Hồ Chí
Minh ngày nay:
Đại
lão Hoà thượng Hư Vân đã nhận định như sau:
“Trong
đời Đường, pháp sư Huyền Trang có viết quyển Tây Du Ký.
Nội dung của quyển này vốn là những lời chân thật. Song,
truyện
Tây Du Ký được lưu truyền trên thế gian hoàn toàn là những
lời ma qủy. Hòa thượng Bạch Vân ở chùa Bạch Vân giảng
kinh Đạo Đức, khiến rất nhiều đạo sĩ xuất gia làm tăng
sĩ. Do đó, các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán không vừa
lòng, nên nói dối là theo lệnh quán quân, sửa Trường Xuân
Quán thành Chùa Trường Xuân, và chùa Bạch Vân thành Bạch
Vân Quán. Các đạo sĩ tự viết ra quyển tiểu thuyết Tây
Du Ký để phỉ báng Phật giáo. Xem xét kỹ càng quyển
tiểu thuyết Tây Du Ký này thì sẽ thấy chân tướng của
họ. Sự lợi hại nhất là họ chẳng hề ghi lại việc pháp
sư Huyền Trang mang kinh vượt qua các bãi sa mạc mà trở về
bổn quốc. Họ viết là pháp sư Huyền Trang chỉ lưu lại
sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Những kinh điển do pháp sư
Huyền Trang phiên dịch, họ hoàn toàn bỏ qua không nhắc đến.
Thế nhân rất tin tưởng vào quyển truyện Tây Du Ký giả
dối đó, khiến quyển Tây Du Ký chân thật lại bị chôn vùi.
Để
đối đầu lại quyển tiểu thuyết Tây Du Ký giả dối,
các Phật tử viết ra bộ truyện Phong Thần để phỉ
báng các đạo sĩ. Quyển truyện này nói rằng các đạo sĩ,
dầu tu tiên bao số kiếp, nhưng vẫn còn tâm sân hận chém
giết lẫn nhau.
Xem
hai quyển truyện này, nếu không biết rằng chư Phật tử
cùng các đạo sĩ phỉ báng lẫn nhau, thì sẽ lầm nhận
giả thành chân. Vì vậy, khi xem sách vở thế tục, phải
phân biệt rõ những điều thị phi, đúng sai, tà chánh. Truyện
Bạch Xà ghi rằng chùa Kim Sơn bị nạn lụt lội; việc này
được ghi chép trong sách vở của nhà nho, còn kinh sách của
Phật giáo nào có viết đến. Thế nên, chẳng phải là sự
thật. Hiện nay, tại chùa Kim Sơn còn đông Pháp Hải, mà tiểu
thuyết lại ghi rằng đó là tháp Lôi Phong và đỉnh Phi Lai.
Thật là những điều hàm hồ vô căn cứ. Lại nữa,
một truyền thuyết cho rằng thiền sư Cao Phong có một nửa
đồ đệ: Đoạn Nhai là một, và Trung Phong là phân nửa. Trong
các điển chương của Phật giáo nào có ghi những điều này!
Nếu
muốn có lợi ích thật thụ, hãy xem những quyển kinh sách
của cổ nhân như Thích Thị Cổ Lược, Thiền Lâm Bảo Huấn,
Hoằng Minh Tập, Bổ Giáo Biên, kinh Lăng Nghiêm…”
(Trích
đoạn Pháp Ngữ của Thiền Sư Hư Vân, TT. Thích Hằng
Đạt Việt dịch – Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2004: http:/old.thuvienhoasen.org/u-huvanluc5.htm#5)
Đại
Đức Tiến sĩ Thích Nhật Từ nhận định như sau:
“Tây
Du Ký còn gọi là Truyện Tề Thiên Đại Thánh, một bộ tiểu
thuyết trường thiên, cổ điển của văn học Trung Quốc,
đã được giới độc giả trên khắp thế giới hâm mộ,
ưa thích, mỗi khi đọc đến quên cả ăn và bỏ cả ngủ.
Gần đây, các đài truyền hình trong nước, từ đài Cần
Thơ cho đến đài TP. HCM đã cho chiếu rộng rãi bộ phim truyện
này do nữ đạo diễn Dương Khiết thực hiện, thì Tây Du
Ký một lần nữa trở nên phổ biến hơn và quen thuộc hơn
đối với mọi người từ già đến trẻ, từ trí thức đến
bình dân.
Từ
mọi góc độ, người đọc cũng như người xem cảm nhận
tác phẩm theo những nhận thức khác nhau, và đúc kết cho
mình những bài học cũng vô cùng khác nhau. Tác dụng của
tác phẩm rất đa dạng. Nó đến với lòng người dĩ nhiên
không thể đồng dạng với ý tưởng nắn ra tác phẩm của
tác giả Ngô Thừa Ân. Và do vậy, sự đánh giá, nhận định,
bình phẩm, dù trải qua nhiều thời kỳ vẫn cứ nghiễm nhiên
diễn ra theo chủ kiến của người cầm bút.
Từ
góc độ nghệ thuật cũng như diễn xuất, Tây Du Ký của đạo
diễn Dương Khiết phong phú và hấp dẫn không kém gì nguyên
tác truyện của Ngô Thừa Ân. Có thể nói, đạo diễn Dương
Khiết và các tay diễn viên lão luyện của bà đã thành công
đáng kể ở mặt này. Tuy nhiên, một bộ phim dài 25 tập,
tuy có chọn lọc từ bộ truyện dài hơn 2000 trang với 81 nạn
trên đường thầy trò Đường Tăng thỉnh kinh, cũng không
thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Ngay
cả nguyên tác, ngoài mặt thành công nghệ thuật và tính cách
của các tuyến nhân vật, thiện ác rõ ràng, đẹp xấu phân
minh, Ngô Thừa Ân cũng vấp phải nhiều thiếu xót rất lớn.
Chẳng hạn như sự thiếu tính logic trong diễn tiến
các tình tiết của nhân vật Sa Tăng và Ngựa Bạch giữa trước
lúc còn là yêu quái với lúc sau khi được Đường Tăng nhận
làm học trò và theo thầy sang Thiên Trúc thỉnh kinh.
Tôn
Ngộ Không với 72 phép thần thông biến hóa phi thường, nhào
một cái là mấy chục vạn dặm, vậy mà phải mất đến
17 năm trời mới cùng thầy đến được Thiên Trúc, một
nước cách Đại Đường có là bao xa, so với cái nhào nhảy
“khôn lường” đó. Các vị Phật và Bồ-tát tuy được tác
giả mô tả trong truyện vượt xa 72 phép thần thông của Tôn
Ngộ Không và dĩ nhiên hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái
Thượng Lão Quân và bỏ xa Nương Nương Thánh Mẫu, nhưng lại
là các tuyến nhân vật đóng vai phản diện hơn là chính
diện. Chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm đã
bắt giam Tôn dưới chân núi Ngũ Hành ngót 500 năm dài và cũng
chính Phật Tổ Như Lai và Bồ-tát Quán Thế Âm một lần nữa
tạo ra 81 nạn cho 4 thầy trò Đường Tăng, để rồi dẫn
đến kết thúc của tác phẩm chẳng
có nghĩa lý gì: Như
Lai là người chủ mưu cuộc hối lộ cái “bát vàng” trước
khi giao chân kinh có chữ về Đông Thổ. Hẳn rằng phim của
đạo diễn Dương Khiết giữ lại tình tiết này bằng một
tập cuối, trong khi đã lược bỏ rất nhiều nạn khác, hẳn
không phải là không có dụng ý và mục đích của nó. Điều
này thiết tưởng không cần nói thì người xem vẫn rõ.
Chúng
ta có thể thông cảm với Ngô Thừa Ân rằng muốn cốt truyện
ăn khách thì phải hư cấu. Tuy nhiên hư cấu để cho người
xem có thể chấp nhận được mà không gượng ép thì hư cấu
đó phải bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực. Nghĩa là
mượn những nhân vật có thật, chẳng hạn A, B, C, để tố
cáo, phản ánh các nhân vật A’ B’ C’ mà mình không tiện nói
thẳng hay không dám đụng tới. Đối tượng cần được phản
ánh núp sau tính cách bỉ lậu của nhân vật được hư cấu
phải được xác lập trên nền tảng sự thật và không nên
đi qúa đà. Vì khi hư cấu quá đà thì tác phẩm không những
trở nên kỳ cục mà quan trọng hơn, khó được người đọc
chấp nhận.
Trong
truyện cũng như trong phim Phật Tổ
Như Lai chủ mưu cuộc hối lộ bằng cách “ném đá dấu tay,”
mặc ra lệnh cho hai tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà, những vị
thánh tăng hàng đầu trong hàng đệ tử Phật, đòi “quà thông
cảm” với bốn thầy trò Đường Tăng.
Điều đó đã làm cho ba vị đồ đệ cương trực của Đường
Tăng bất bình. Nhưng vì thấy tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà
“xuống nước nhỏ” (nhưng thật chất là đánh lừa), cả ba
vị đã hỷ xả mà không làm lớn chuyện! Bốn thầy trò tưởng
mọi việc êm xuôi, hớn hở đem kinh về.
Gần
về đến Đại Đường thì bổng đâu chim Đại Bàng của
Phật Di-lặc cướp bay lên không, rồi sau đó bỏ xuống đất.
Lúc đó, thầy trò Đường Tăng mới vỡ lẽ ra là kinh mà
họ khổ công mang về là “kinh vô tự.” Ở đây, theo
dụng
ý của Ngô Thừa Ân, Phật Di-lặc cũng là người gián
tiếp gây họa, vì biết việc hối lộ mà không truy tố, đợi
đi về gần tới nước mới cho hay.
Có lẽ tác giả cố nắn ra những cái éo le như vậy để
ru ngủ độc giả.
Cái
gút “kinh vô tự và kinh hữu tự” mà tác giả dựng lên không
mang dụng ý thiền học như nhiều người đã cố tình lý
giải. Thật ra, nó nhằm tạo ra thái độ căm phẫn, cay cú
của độc giả đối với đức Phật và Bồ-tát, thông qua
đó, bôi bác, xuyên tạc Phật giáo.
Mặc
dù chúng ta co thể chấp nhận với tác giả Ngô Thừa Ân rằng
ở bất kỳ thời đại nào, sự đút lót, hối lộ, ăn chận
không thể tránh khỏi với những phần tử cơ hội và phản
diện, nhưng chúng ta không thể đồng tình với tác giả khi
ông áp đặt các phần tử xấu xa, đáng lên án bằng hình
ảnh của đức Phật và các vị thánh tăng.
Không
phải ở các xã hội phong kiến, nạn hối lộ mới có, mà
cả các xã hội tư bản và cộng sản, nạn này tràn lan không
kém gì, thậm chí còn tinh vi và thâm độc hơn nhiều, như
gần đây báo chí trong và ngoài nước đã vạch mặt điểm
tên. Tác giả Ngô Thừa Ân thật là quái đản. Ông đã dựng
lên một con khỉ không cha không mẹ, một con heo với nhiều
tính cách xấu và một con yêu quái phá hại dân lành. Nhưng
khi làm đồ đệ Đường Tăng, chúng đã trở thành nào là
Chiến Đấu Thắng Phật, Tịnh Đàn Sứ Giả và nào là Kim
Thân A-la-hán, để rồi làm gì? Bất quá chỉ thành cỡ Phật
Tổ Như Lai hay tôn giả Ca-diếp và A-nan-đà, những người
đã chủ mưu cuộc hối lộ là cùng!?
Có
rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua
đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục
thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng
là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc
vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý
tưởng hóa). Các ngài là những con người lịch sử thật.
Các đóng góp về đạo đức và trí tuệ của các ngài cho
nhân loại là những sự thật lịch sử không phủ nhận được.
Những người cầu tiến bộ về đời sống đạo đức và
tâm linh phải học hỏi ở các ngài. Do đó, người làm
công tác văn học không nên tùy tiện đem các ngài ra mà mua
bán, mà giễu cợt với một thái độ trịch thượng với
dụng ý kích bác và vu khống. Phật và Bồ-tát không những
không thể có các thói hư thế tục đó mà các ngài là những
người đã giáo dục cuộc đời từ bỏ chúng. Do đó không
thể tô đen các ngài để giáo dục xã hội. Bởi lẽ chính
các ngài bằng hành động, lời nói và ý nghĩ đã để lại
nhiều bài học đạo đức vô giá để cho toàn nhân loại
học hỏi và trau dồi.
Tôi
cho rằng Ngô Thừa Ân đã xúc phạm một cách trịch thượng
đến đức Phật, các vị Bồ-tát và các vị thánh tăng,
khi ông bất chấp dư luận, dựng lên một tình tiết trái
ngang “tồi” như trên. Nếu Ngô Thừa Ân biết hư cấu một
vị Hòa thượng tu đến cuối cuộc đời, chỉ vì tham vọng
cưỡng đoạt y bát của Đường Tăng mà gây ra thảm họa
thiêu hủy ngôi đại Già-lam và cuối cùng phải bị chết
thiêu một cách tàn khốc; nếu Ngô Thừa Ân biết hư cấu
một nhà sư chỉ vì đam mê sắc đẹp của yêu tinh Ngọc Thố
mà phải bị yêu tinh này giết chết lúc nửa đêm, và nhiều
hư cấu khác có thể chấp nhận được trong cuộc sống v.v…
thì tại sao Ngô Thừa Ân không biết hư cấu những vị “phàm
tăng” nào đó trông coi hay cận phụ Linh Sơn Tự đã bày trò
“đúc lót” bốn thầy trò Đường Tăng thì có phải khả dĩ
chấp nhận hơn không? Vì đó có thể là chuyện đời thường,
có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào, và ở bất kỳ con người
nào chưa dứt trọn vẹn lòng tham lam, ích kỷ, Đây là mà
điều đức Phật dạy không chỉ mang lại kết quả xấu xa,
bất hạnh cho mình mà còn cho người khác, không chỉ ở đời
nay mà còn ở đời khác nữa.
Những
điều gì mà đức Phật khuyên người ta nên từ bỏ, xa lìa
thì Ngô Thừa Ân lại đem những cái đó gán lên đức Phật.
Như vậy mục đích của Ngô Thừa Ân nhằm vào đâu: truyền
bá đạo đức hay chống lại đạo đức? Dĩ nhiên câu trả
lời là chống lại đạo đức Phật
giáo. Mục đích giáo dục của Ngô
Thừa Ân nếu có thông qua truyện cũng đã trở nên vô nghĩa,
khi ông dựng lên cái trò quái gỡ ở đoạn cuối của truyện:
Phật Tổ hối lộ một cách trắn trợn lại còn lên tiếng
mắng Tôn Ngộ Không, khi chú khỉ này đòi làm lớn chuyện:
“Nhà
ngươi chớ nói ồn lên! Chuyện hai người đó [Ca-diếp và
A-nan] đòi lễ bọn ngươi, ta đã biết rồi. Có điều là
kinh không phải ai cũng cho, mà cũng không thể lấy không được…”
và “chỉ lấy được của nhà ấy ba đấu, ba thăng vàng cốm
đêm về, ta còn bảo bọn họ bán quá rẽ, con cháu đời sau
lấy tiền đâu mà dùng!”
Để
làm cơ sở cho việc Phật tổ chủ mưu hối lộ, Ngô
Thừa Ân còn dựng chuyện Đường Tăng đã chấp nhận thủ
tục “đầu tiên” để lấy được các loại kinh có chữ:
“Lũ
hạ thần biết rằng Phật tổ biết rõ việc hai tôn giả
đòi ăn lễ, đành phải đem cái bát tộ bằng vàng tía vua
ban biếu họ, họ mới chịu truyền bộ chân kinh có chữ.”
Có
thể khẳng định rằng mục đích bôi nhọ này đã được
Ngô Thừa Ân định hướng ngay từ đầu truyện hư cấu của
ông. Bởi vì theo quy định của Phật người tu sĩ Phật
giáo không được sử dụng bát bằng vàng. Ở đây, Ngô Thừa
Ân dựng lên sự kiện vua Đường Thái Tông tặng cho ngự
đệ Huyền Trang mới kết nghĩa của mình một cái bát bằng
vàng, để rồi mấy chục hồi sau mới có chuyện có phẩm
vật quý để đúc lót kẻ hối lộ.
Xem
Tây Du Ký nếu những cái hay, cái độc đáo, cái ly kỳ của
nó chúng ta khen ngợi thì những cái phi lý của nó nhất là
cái phản đạo đức, phản giáo dục, đi ngược lại sự
thật thì chúng ta phải thẳng thắn lên án, nếu chúng
ta không muốn để mặc tình cho thế giới hư cấu của Tây
Du Ký cũng như tên tuổi của Ngô Thừa Ân đã bao đời được
các nhà văn học nhận định, đánh giá một cách a dua theo
kiểu “thấy ai sang bắt quàng làm họ” đi vào ngỏ cụt
của bế tắt, của sự phản lại đạo đức cuộc sống.”
Xem thêm:
●
KẾT THÚC CỦA “TÂY DU KÝ” SỰ CHỐNG LẠI ĐẠO ĐỨC – Thích Nhật Từ
Discussion about this post