HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI
Minh Mẫn
Gần
đây, trang Phật Tử Việt Nam
có đăng bài viết về: “ Tôn giáo mới qua một chuyến đi chùa”. Sự thật như thế
nào?
Một số quần chúng miền Nam thường có khuynh hướng tin
“Mẫu” hay gọi là đạo Mẫu, liên hệ từ
nguồn gốc “Diêu Trì Kim Mẫu”, “ Bà Chúa
Sứ” và xa hơn nữa” “Liễu Mẫu Thượng Ngàn”. Liễu Mẩu Thượng Ngàn có từ xa xưa, phát triển trong giới Tứ phủ
phía Bắc, nổi tiếng là Phủ Dầy. Riêng trong Nam, Bà Chúa Sứ, Địa Mẫu, gọi chung
là đạo Mẫu. Đó là loại tín ngưỡng nhân gian xuất hiện lâu đời. Những loại vè tự
phát để ca ngợi đấng mình đang tín ngưỡng, trong quá trình hình thành, cộng
đồng Tứ phủ đã nhịp nhàng trống phách với bài chầu văn mỗi dịp hầu đồng. Phía Nam, tín ngưỡng
đạo Mẫu đơn điệu trong ca trù nhưng thể hiện sự thành tín đều giống nhau. Không
riêng đối với Thánh tượng Quán Thế Âm, cả tượng Diêu Trì đứng trên quả cầu, tượng
Maria và những tượng thờ các tôn giáo mang hình ảnh phụ nữ, họ đều gọi chung là
Mẹ, là Mẫu.
Đứng trên lĩnh vực tôn giáo như đạo Phật, đạo Chúa, thì họ là những
người mê tín ngoại đạo, nhưng trong nhân gian xem họ là những người có khuynh
hướng tôn kính thần linh. Chúng ta chưa nói đến đúng sai vì không thể đứng góc
độ chủ quan để phán xét. Vấn đề tín ngưỡng nhân gian là quyền tự do tuyệt đối
mà Hiến chương Giáo hội không hề đề cập cũng như Pháp Lệnh Tôn giáo không đưa
họ vào danh sách một tôn giáo nhất định. Vì thế không xem họ là một tôn giáo
cạnh tranh với tôn giáo.
Một vấn đề nữa là những ban hộ niệm tự phát.
Trước
1975 và sau thập niên 1930, miền Trung cũng từng có những Ban Hộ niệm, thay mặt
quý thầy để trợ giúp các gia đình vùng xa có nhu cầu tín ngưỡng. Lúc bấy giờ
lượng số chư Tăng còn quá ít. Trong xã hội phát triển ngày nay, tuy tu sĩ rất
đông, nhưng thiên hướng vật chất không những tràn ngập xã hội mà lấn sâu vào
đời sống tu sĩ, vì vậy, một số tu sĩ trẻ chưa chuyên sâu tu tập, bị áp lực vật
chất chi phối, làm mất niềm tin quần chúng không ít.
Đi bất cứ chùa nào, 80%
đều nghĩ đến thu nhập. Một tang gia thỉnh sư cũng phải tiêu tốn không dưới mươi
triệu. Cho dù thỉnh được bậc chân tu, chẳng lẽ các Ngài uống nước lã cuốc bộ?
Gia chủ cũng phải cúng dường. Tín đồ nghèo chạy cơm hàng bữa làm sao cung ứng
cho dịch vụ tín ngưỡng khi có nhu cầu.
Không chỉ trong nước, ngay cả nước
ngoài, đến chùa là phải cúng dường, phải có tiền, đôi khi tiền ít không được ai
tiếp đãi; chưa nói đến việc chùa luôn xây dựng, luôn phát triển cơ sở vật chất
làm cho tín đồ quá mệt mỏi. Chính vì thế tín đồ nghèo muốn đến chùa cũng phát
ngại. Nói như thế không phải tất cả các chùa đều đòi hỏi tiền của từ tín đồ. Có
những chùa bao trọn gói trong thời gian tu học cho vài ngàn tín đồ mà không hề
kêu gọi đóng góp như chùa Hoằng Pháp. Trong nước được mấy chùa như thế.
Nhu cầu
tu tập của quần chúng ngày càng phát triển khi mà cuộc sống quá nhiêu khê tác
động tâm lý đến đời sống tâm linh của họ. Một số đến chùa, học hỏi giáo lý, nắm
vững nghi lễ, xét thấy đến chùa gặp nhiều phiền phức, một số đến chỉ bàn chuyện
gia đình, nói chuyện thế gian và ngại cúng dường khi kinh tế eo hẹp, do vậy họ
tự động lập nhóm để tu tại gia, luân phiên tụng niệm.
Trong và ngoài nước cũng
đều như vậy, vì thế họ không muốn thỉnh mời chư Tăng chứ không phải cách ly chư
Tăng. Tu sĩ đại diện Tam bảo để hoằng pháp, giúp đỡ quần chúng về tâm linh, nhưng
không ít một số tu sĩ đã đánh mất niềm tin quần chúng, quần chúng đến chùa chỉ
biết lễ Phật và cúng dường, ít được nghe thầy giảng đạo. Tệ nạn nầy không chỉ
cá biệt mà phát triển tràn lan trong và ngoài nước. Những chùa thuần túy tu tập
và hướng dẫn giáo lý cũng như đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng cho tín đồ một cách vô
tư, rất ít. Riêng tại Sài gòn, số chùa gắn bó tạo được niềm tin cho bổn đạo,
đếm trên đầu ngón tay.
Với tình trạng quần chúng cách ly Tăng Bảo, hãy tự xét
lại nhân thân tu sĩ, đừng vội kết án quần chúng là ngoại đạo. Không ngoại đạo
nào bỏ công đi tụng niệm luân phiên mỗi đêm hàng chục năm nay, kể cả trước
1975, mà không hề lồng giáo lý ngoại đạo vào. Và những nhóm lập Ban hộ niệm tại
gia cũng chưa hề tụng kinh ngoại đạo hay giảng giải ngoại đạo.
Có những người tuyên
bố chỉ quy y nhị Bảo thôi, hẳn nhiên điều nầy không đúng, nhưng nói lên tinh
thần chán nản của quần chúng đối với một số tu sĩ biến chất. Rất tiếc họ chưa
có duyên gặp được những bậc chân tu vẫn hiện diện khắp nơi. Đây không phải là
điều đáng báo động cho Phật giáo về những sinh hoạt độc lập của cư sĩ, mà tiếng
chuông cảnh tỉnh để tu sĩ nhìn lại chính mình. Hiến chương Giáo Hội cũng không
đặt vấn đề nhóm cư sĩ tu tại gia như thế, vì vậy không cần phải cảnh giác đối
với họ. Nếu thích thì họ đã cải đạo sang tôn giáo khác có ai cấm, cần gì phải
ngụy trang Ban hộ niệm tư gia? Đây là điều đáng mừng khi mà phần lớn nhà chùa
không thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng, họ tự tìm lối đi để giữ vững niềm tin đối
với Tam Bảo. Sự báo động không cần thiết khi mà quần chúng ngày càng phát triển
niềm tin đối với Phật giáo qua nhiều hình thức sinh hoạt khác nhau; Vấn đề là
chư Tăng nói riêng, Giáo hội nói chung, có phương án đáng tin cậy để hướng dẫn
họ trở về đúng chánh pháp và giữ vững niềm tin của họ trước trào lưu cài đạo và
cám dỗ vật chất hiện nay.
Tóm lại đó là những hiện tượng đáng mừng trước niềm
tin của quần chúng đối với Phật giáo, điều đáng lo mà không chịu lo là phong
trào cải đạo hiện nay đang phát triển khắp nơi, từ miền Thượng du Bắc Việt cho
đến đồng bằng Nam bộ, tại sao ta không đặt vấn đề mà cứ phải đặt vấn đề đối với
tín đồ của chúng ta???
Discussion about this post