HÃY TỰ MÌNH THẮP ĐUỐC LÊN MÀ ĐI
HT. Thích Minh Châu
lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu
buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một
lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã
mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương
V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời
chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được
cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc
Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn
nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử
cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch:
—
“Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình
(atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà)
chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một
cái gì khác …Này
Ananda, ở đời, vị Tỷ kheo trú quán trên thân, nhiệt tâm,
tỉnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Trú quán
thọ trên các cảm thọ … trú quán tâm trên các tâm, trú
quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác chánh niệm,
nhiếp phục tham ưu ở đời.Như
vậy này Ananda, Tỷ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình,
tự mình y tựa chính mình, không y tựa một cái gì khác, dùng
chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một cái gì khác.Này
Ananda, những ai, hiện nay hay sau khi Ta diệt độ, tự mình
là ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không
y tựa một cái gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng
chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một pháp
gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng
trong hàng Tỷ kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học
hỏi”.
Ở đây
vì chữ Dipa vừa có nghĩa là ngọn đèn, vừa có nghĩa là
hòn đảo nên có thể dịch: Tự mình thắp đuốc lên mà
đi, hay Tự mình xây dựng hòn đảo cho chính mình.
Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình.
Trong
lời dạy đặc biệt quan trọng và hy hữu này, Đức Phật
nhấn mạnh hai điểm. Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, hãy y tựa chính mình, không y tựa một ai khác. Hãy lấy
chánh pháp làm ngọn đèn, hãy lấy chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa một cái gì khác. Chính hai quan điểm
này có thể được xem là phản ảnh trung thực đời sống
tìm đạo, hành đạo, chứng đạo của Thế Tôn dựa trên
kinh nghiệm bản thân của Ngài và cũng gói ghém trọn vẹn
tất cả giáo pháp Ngài dạy trong suốt 45 năm thuyết pháp
độ sanh của Ngài để truyền lại cho hàng đệ tử.
Thật
vậy, chúng ta thấy rõ, trong hơn sáu năm tầm đạo, hành đạo
và chứng đạo, Thế Tôn đã tự mình dùng nỗ lực cá nhân,
đã tự mình tự lực tìm đạo, hỏi đạo với hai vị đạo
sư ngoại đạo thời danh là Alara Kalama và Uddaka Ràmaputta,
đã tự mình tự lực hành trì khổ hạnh, đã tự mình tự
lực hành thiền, và cũng tự mình tự lực phát triển trí
tuệ và cuối cùng thành đạo dưới gốc cây Bồ Đề, thành
bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài không nhờ một thần lực
nào, không phải là hiện thân của một đấng thiêng liêng
nào, không phải là hóa thân của một đấng tối cao nào.
Ngài chỉ là một người, với sức mạnh thể lực và trí
lực của con người, đã tự mình tìm đạo và tìm đạo thành
công, đã tự mình hành đạo và hành đạo có kết quả, đã
tự mình chứng đạo và chứng đạo hoàn toàn viên mãn, như
chúng ta đã thấy rõ trong đời sống của Ngài, nếu chúng
ta gạt bỏ qua một bên những thêm thắt về sau để thần
thánh hóa đời sống của Ngài.
Ngài
đã tự lực tìm đạo và học đạo và tự diễn tả như
sau:
“Không
phải chỉ Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không
phải chỉ Alara Kalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không
phải chỉ Alara Kalama có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải
chỉ Alara Kalama có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ
Alara Kalama có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta phải cố gắng
chứng cho được pháp mà Alara Kalama, sau khi tự tu, tự chứng,
tự đạt đã tuyên bố. Rồi này các Tỷ kheo, không bao lâu,
Ta tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng,
Ta an trú” (Trung I, 164b).
Về sau
tu khổ hạnh, Ngài cũng tự mình tự hành trì khổ hạnh như
Ngài đã tự diễn tả:
“Vì
Ta ăn quá ít, chân tay Ta đã trở thành như những cọng cỏ,
hay những đốt cây leo khô héo. Vì Ta ăn quá ít, nên bàn trôn
của Ta trở thành như móng chân con lạc đà. Vì Ta ăn quá
ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh.
Vì Ta ăn quá ít, xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui
cột một nhà sàn hư nát. Vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi của
Ta long lanh nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh
nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu
…”
(Trung I, 80).
Đức
Phật sau khi hành trì khổ hạnh không có kết quả. Ngài cương
quyết từ bỏ khổ hạnh và bắt đầu tự mình hành thiền,
chứng được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền
thứ tư, phát triển tuệ trí, chứng được túc mạng minh,
thiên nhãn minh, lậu tận minh, biết như thật khổ, biết như
thật các lậu hoặc, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh
lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên
trí hiểu biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”
(Trung I, 248). Như vậy, cũng với kinh nghiệm bản thân, tự
mình từ bỏ khổ hạnh, tu tập thiền định, phát triển trí
tuệ, Đức Phật chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Đối
với bậc Đạo Sư đã dựa vào tự lực để tầm đạo, học
đạo và chứng đạo, nên trong 45 năm hoằng pháp độ sanh,
lời dạy chủ yếu của Ngài cho các đệ tử cũng là lời
dạy tự lực tự tri: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa một cái gì
khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ
nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác”.
Trước
hết, Đức Phật xác nhận “cầu xin” và “ước vọng” không
có lợi gì, không những trên con đường thực hành chánh pháp
mà còn cả vấn đề ước vọng thế gian.
Kinh
Tương Ưng, Tập IV, trang 313 nêu rõ:
“Nếu
có người làm mười ác hạnh, rồi một quần chúng đông
đảo đến cầu xin cầu khẩn chấp tay, mong rằng người ấy
sẽ được sanh thiện thú, thiện giới. Sự cầu khẩn như
vậy vô ích, vì người ấy làm mười ác hạnh sẽ rơi vào
địa ngục ví như một người quăng một tảng đá vào hồ
nước, rồi một số đông đảo quần chúng đến cầu xin,
cầu khẩn, chấp tay cầu rằng tảng đá ấy sẽ được nổi
lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích, vì tảng đá ấy,
với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi
vào bờ, như lời cầu xin của quần chúng ấy.Trái
lại, một người từ bỏ mười ác hạnh, làm mười hạnh
lành, nếu có một quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu
khẩn, chấp tay, cầu rằng người ấy sẽ bị sanh vào địa
ngục, đọa xứ, thời lời cầu xin ấy cũng không được
thành tựu. Người ấy vẫn được sanh lên thiện thú, thiện
giới, cõi người. Ví như một người nhận chìm một ghè
dầu vào trong hồ nước rồi đập bể ghè dầu ấy, thời
số dầu ấy sẽ nổi lên trên mặt nước. Dẫu cho có một
quần chúng đông đảo đến cầu xin, cầu khẩn, chấp tay,
cầu rằng số dầu ấy chìm xuống đáy nước. Lời cầu xin
ấy tất nhiên không có kết quả, số dầu ấy vẫn nổi lên
trên mặt nước. Như vậy, có cầu khẩn, có cầu xin cũng
không có lợi ích gì”.
Kinh Tăng
Chi IIIA, trang 123 xác chứng thêm sự vô ích của cầu xin và
cầu khẩn. Một vị Tỷ kheo không chú tâm trong sự tu tập,
khởi lên ước muốn được giải thoát khỏi các lậu hoặc
không có chấp thủ, ước muốn ấy nhất định không được
toại nguyện. Như con gà mái có tám, mười hay mười hai trứng
gà, nó ấp ngồi không đúng cách, ấp nóng không đúng cách,
ấp dưỡng không đúng cách, thời dầu cho con gà ấy có khởi
lên ý muốn mong rằng các con gà con của nó, với chân, với
móng, với miệng, làm bể vỏ trứng và thoát ra một cách
an toàn, con gà mái ấy cũng không được toại nguyện. Vì
cớ sao? Vì con gà mái không ấp ngồi một cách đúng đắn,
không ấp nóng một cách đúng đắn, không ấp dưỡng một
cách đúng đắn.
Ngược
lại, một Tỷ kheo sống chú tâm trong sự tu tập, dầu không
khởi lên ước muốn: “Mong rằng tâm Ta được giải thoát
các lậu hoặc, không có chấp thủ”, tuy vậy tâm vị ấy vẫn
được giải thoát không có chấp thủ. Vì cớ sao? Phải nói
rằng vị ấy có tu tập. Có tu tập gì? Có tu tập bốn niệm
xứ, có tu tập bốn chánh cần, có tu tập bốn như ý túc,
có tu tập năm cần, có tu tập năm lực, có tu tập bảy giác
chi, có tu tập Thánh đạo tám ngành. Ví như con gà mái, có
tám, mười hay mười hai trứng. Nó ấp ngồi một cách đúng
đắn, nó ấp nóng một cách đúng đắn. Dẫu con gà ấy không
khởi lên ước muốn, mong rằng các con gà con của nó, với
chân, với móng, với mỏ, làm bể vỏ trứng và thoát ra một
cách an toàn, các con gà con của nó cũng phá vỏ trứng và
thoát ra ngoài một cách an toàn. Như vậy, có ước nguyện
hay không ước nguyện không thành vấn đề. Vấn đề chính
là có hành động đúng đắn, đúng pháp để đưa đến kết
quả mong muốn mà thôi.
Một
đoạn kinh nữa (Trung I, trang 303) càng nhấn mạnh sự vô ích
của cầu xin. Nếu hành Phạm hạnh không chánh đáng, không
làm sao đạt được quả vị. Hành Phạm hạnh không chánh
đáng ở đây có nghĩa là theo tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ,
tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Vì
cớ sao? Vì đây không phải phương pháp để đạt được
quả vị. Rồi Đức Phật ví dụ người đi tìm dầu, sau khi
đổ cát vào thùng, tiếp tục rưới nước ép cát cho ra dầu,
thời dẫu người ấy có ước nguyện tìm cho ra dầu cũng
không được toại nguyện. Vì cớ sao? Vì đây không phải
là phương pháp tìm ra dầu. Đức Phật dùng một ví dụ nữa,
ý nghĩa hơn, là một người đi tìm sữa, đến một con bò
cái, lại nắm lấy cái sừng con bò cái mà vắt sữa, thời
dẫu có ước nguyện hay không ước nguyện, nó cũng không
lấy được sữa.
Trái
lại, nếu có vị sa môn hay Bà la môn nào, có chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định, dù có ước nguyện hay không
ước nguyện, hành Phạm hạnh sẽ đạt được quả vị. Vì
cớ sao? Vì đây là phương pháp đạt được quả vị. Ví
như một người đi tìm dầu, sau khi để những hột dầu vào
thùng, tiếp tục rưới nước rồi ép các hột dầu cho ra
dầu. Dù người ấy có ước nguyện hay không ước nguyện,
cũng sẽ lấy được dầu. Vì cớ sao? Vì biết phương pháp
làm ra dầu. Cũng ví như người đi tìm sữa, đến con bò cái,
vắt sữa từ nơi vú con bò mới sanh con, thời dù có ước
nguyện hay không ước nguyện cũng tìm ra được sữa.
Đối
với sự việc ở đời cũng vậy, không phải do cầu xin, do
nhân ước nguyện mà thành tựu. Đã là người, thường hay
mong ước được năm điều khả lạc, khó tìm được ở đời
như: tuổi thọ, dung sắc, an lạc, tiếng đồn tốt, và được
sanh cõi trời. Trong Kinh Khả Lạc (Tăng IIB, trang 74), Đức
Phật nêu rõ năm điều pháp này không do nhân cầu xin, không
do nhân ước vọng mà được, vì nếu có do nhân cầu xin,
do nhân ước vọng mà có được, thời ở đời này còn có
ai héo mòn vì một lẽ gì, khi mà chỉ cầu xin là được toại
nguyện. Đức Phật nói rất rõ: Muốn có thọ mạng không
thể cầu xin thọ mạng hay tán thán thọ mạng để làm nhân
đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng
cần phải thực hành con đường đưa đến thọ mạng, đưa
đến dung sắc, đưa đến an lạc, đưa đến tiếng đồn tốt,
đưa đến sanh thiên, vị ấy mới thành tựu được, mới
đạt được năm điều khả lạc mà mình ước muốn ở đời.
Trong
định nghĩa của Nghiệp và vai trò của nghiệp Đức Phật
tuyên bố rất rõ chữ Nghiệp (Karma) có nghĩa là hành động,
từ động từ Karoti nghĩa là làm, là hành động về thân,
về lời và về ý, nhưng hành động ấy phải là hành động
có tư tâm sở, tức là một hành động tự ý mình làm, tự
mình quyết định làm, không ai xúi giục, không do ai sai bảo.
Vì đã là hành động tự mình ý thức làm, tự mình quyết
định làm, nên Đức Phật xác định chúng ta là chủ nhân
của Nghiệp (Kammassako) chúng ta là thừa tự của Nghiệp (Kamma-dàyadà),
chúng ta vừa chịu trách nhiệm những hành động của chúng
ta, chúng ta vừa tự mình chịu kết quả các hành động của
chúng ta làm. Kinh Pháp Cú nêu rõ:
“Điều
ác tự mình làm,
Tự
mình sanh, mình tạo,
Nghiền
nát kẻ ngu si,
Như
kim cương ngọc quý”. (Pháp Cú 161)
Một
câu kệ nữa xác định rõ ràng hơn:
“Tự
mình, điều ác làm,
Tự
mình làm nhiễm ô,
Tự
mình ác không làm,
Tự
mình làm thanh tịnh,
Tịnh,
không tịnh, tự mình,
Không
ai thanh tịnh ai”. (Pháp Cú 165)“Tự
mình chỉ trích mình,
Tự
mình dò xét mình,
Tỷ
kheo tự phòng hộ,
Chánh
niệm trú an lạc”. (Pháp Cú 379)
Trong
một bài kinh rất có danh tiếng, Kinh Kalamasutta (Tăng I, 213-216),
Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài hãy tin ở nơi mình,
không tin một ai khác, tin ở nơi khả năng phán xét thiện
ác của mình, chớ có tin vào một phương pháp nào khác:
—
“Này các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có
tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói,
chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì
nhân lý luận, chớ có tin vì nhân suy luận, chớ có tin sau
khi suy tư về những dữ kiện, điều kiện, chớ có tin theo
thiên kiến, định kiến, chớ có tin vì thấy thích hợp với
khả năng, chớ có tin vì vị Sa môn là bậc Đạo Sư của
mình. Nhưng này Kalama, khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘Các
pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp
này bị người có trí chỉ trích, các pháp này nếu thực
hiện và chấp nhận, đưa đết bất hạnh khổ đau. Thời
này Kalama, hãy từ bỏ chúng’ … Nhưng này Kalama, khi nào tự
mình biết như sau: ‘Các pháp này là thiện. Các pháp này là
không có tội. Các pháp này, được người có trí tán thán.
Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận, đưa đến hạnh
phúc an lạc, thời này các Kalama, hãy chứng đạt và an trú’…”.
Khi đã
ý thức được khả năng của mình có thể phân biệt thiện
ác, thời Đức Phật dạy hãy nên tự y chỉ mình, không y
chỉ một ai khác, như các bài kệ sau nêu rõ:
“Vị
du sĩ không tựa,
Không
y chỉ một ai,
Không
làm thành thương yêu,
Không
tác thành ghét bỏ.
Do
vậy, trong sầu than,
Trong
xan tham keo kiệt,
Như
nước trên lá cây,
Không
dính ướt làm nhơ”. (Kinh Tập, câu 811)“Ai
không tìm lõi cây
Đối
với các sanh y,
Có
thể nhiếp phục tham,
Đối
với các chấp thủ
Vị
ấy không y chỉ
Không
để ai dắt dẫn,
Tỷ
kheo ấy chơn chánh,
Du
hành ở trên đời”. (Kinh Tập câu 364)
Nhưng
Đức Phật có sự thận trọng. Dẫu cho Ngài đã được giải
thoát và giác ngộ hơn Ngài, nhưng Ngài vẫn thấy là Ngài
cần phải y chỉ vào một Sa môn hay Bà la môn:
“Vậy
Ta hãy đảnh lễ, cung kính và sống y chỉ vào một Sa môn
hay Bà la môn, với mục đích làm cho đầy đủ giới uẩn
… định uẩn … tuệ uẩn … giải thoát uẩn chưa được
đầy đủ … nhưng Ta không thấy một chỗ nào trong thế giới
chư Thiên, Ác Ma và Phạm Thiên, giữa quần chúng Sa môn và
Bà la môn, chư Thiên và loài người, không có một Sa môn hay
Bà la môn nào khác, với giới, với định, với tuệ và với
giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có thể cung kính, đảnh
lễ và sống y chỉ. Rồi này các Tỷ kheo, Ta suy nghĩ như sau:
‘Với Pháp mà Ta đã chân chính giác ngộ, Ta hãy cung kính,
đảnh lễ và sống y chỉ Pháp ấy'”.
Như vậy
Đức Phật với tâm khiêm tốn, muốn tìm một Sa môn hay Bà
la môn để nương tựa y chỉ nơi chánh pháp. Đó là lý do
vì sao Đức Phật lại dạy các Tỷ kheo “Hãy tự mình là
ngọn đèn cho chính mình (attà-dìpàviharatha), hãy tự mình
y tựa chính mình (attà-saranà), chớ y tựa một cái gì khác.
Dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một
cái gì khác“. Thái độ này của Đức Phật giải thích
vì sao Đức Phật khuyên tôn giả Ananda chớ có sầu muộn
sau khi Đức Phật nhập diệt, vì các đệ tử của Đức Phật
luôn luôn có chánh pháp làm chỗ y chỉ, có chánh pháp làm
chỗ nương tựa.
Trong
Tương Ưng III, 51, Đức Phật xác định lời khuyên một lần
nữa cho các đệ tử của mình lấy chánh pháp làm hòn đảo,
lấy chánh pháp làm chỗ nương tựa: “Hãy sống, tự mìn
làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ kheo, hãy nương tựa
với chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp
làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương
tựa một ai khác”. Trong kinh Gopaka Moggallàna, Trung III, trang
111, chúng ta sẽ thấy các đệ tử của Đức Phật sau khi
Ngài nhập diệt, đã xử sự đúng như lời Ngài dạy. Bà
la môn Gopaka Moggallàna hỏi tôn giả Ananda: “Thưa Tôn giả,
có một vị Tỷ kheo nào được Sa môn Gotama sắp đặt: ‘Vị
này, sau khi Ta diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho các ngươi
và các ngươi sẽ y chỉ vị này?'”.
Tôn
giả Ananda trả lời: “Này Bà la môn không có một vị Tỷ
kheo nào được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc
A la hán, Chánh Đẳng Chánh Giác sắp đặt: ‘Vị này sau khi
Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các ngươi’, và chúng
tôi sẽ y chỉ vị này.”
“Thưa
Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ kheo nào được chúng Tăng
thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ kheo Trưởng Lão
sắp đặt là vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ
nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi sẽ y chỉ vị này?”.
Tôn
giả Ananda trả lời: “Không có một vị Tỷ kheo nào, này Bà
la môn, được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông
các vị Tỷ kheo Trưởng Lão sắp đặt: ‘Vị này, sau khi Thế
Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi’, và chúng
tôi sẽ y chỉ vị này”.
“Và
như vậy là (quý vị) không có chỗ nương tựa. Thưa Tôn giả
Ananda, như vậy do nhân gì quý vị có thể hòa hợp?”.
“Này
Bà la môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa.
Này Bà la môn, chúng tôi có chỗ nương tựa. Và Pháp là chỗ
nương tựa của chúng tôi.”
Lấy
Chánh Pháp làm chỗ nương tựa, đó cũng chính là lời Phật
dạy chúng ta.
Tỳ
kheo Thích Minh Châu (http://old.thuvienhoasen.org/haytuminhthapduoc.htm)
Discussion about this post