KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN
40)
Pháp Sư Tịnh Không
“NGUYỆN Ư VÔ LƯỢNG THẾ GIỚI THÀNH
ĐẲNG CHÁNH GIÁC”
Cái “nguyện” này là bổn
nguyện. Đến lúc cần thiết, tất cả chúng sanh mong cầu Phật xuất hiện ở thế gian
và giáo hoá chúng sanh. Bạn thấy duyên đã chín muồi, đáng dùng thân Phật để độ,
bạn liền có thể thị hiện thân Phật giúp đỡ chúng sanh. Như vậy bạn có năng lực
nguyện ở vô lượng vô biên thế giới thành đẳng chánh giác. Đó là tùy loại hoá
thân thù thắng nhất, cụ thể hoá thân Phật để độ chúng sanh. Hóa hiện thân Phật
còn làm được, thì các thân phận khác như thân Bồ tát, thân Thanh Văn, thân
Duyên giác, thân sáu cõi không cần phải nói, thảy đều có thể làm được. Cho nên
câu nói này đại biểu đại viên mãn ứng hoá, hóa thân đến mọi nơi, hiện thân ở
mọi lúc, tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp, giúp đỡ chúng sanh vô lượng thế
giới.
Hiện tại chúng ta sống ở thế gian
này, không gian hoạt động của chúng ta nhỏ hẹp thật đáng thương. Ở khu vực này,
bạn được xem như tự do, tự tại. Mỗi ngày bạn ra ngoài vui chơi tham quan, nhưng
không gian của bạn cũng không thể ra khỏi Singapore, không thể ra khỏi cái đảo
nhỏ này. Muốn du lịch ra thế giới thì bạn phải có khoản tiền tương đối, vì vé
máy bay khá đắt. Bạn còn phải có sức khoẻ tốt. Dốc hết sức thì không gian hoạt
động của bạn vẫn chỉ trên địa cầu này, vẫn chưa có cách nào đến các tinh cầu
khác. Không gian hoạt động của chúng ta nhỏ hẹp như vậy, trong khi bạn xem thấy
kinh văn này là “vô lượng thế giới”.
Nếu bạn sanh đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc, thì không gian hoạt động của bạn là tận hư không khắp thế giới,
mười phương tất cả chư Phật cõi nước, bạn nghĩ đến nơi nào thì người đã đến nơi
đó, không cần dùng phương tiện giao thông, cũng không cần đến phi trường mua vé
máy bay, làm nhiều thủ tục phức tạp. Ở ngay nơi đây vừa mới khởi niệm thì thấy
Phật, thân thể đã ở ngay trước mặt Phật, bạn nói xem tự tại dường nào. Chúng ta
phải thể hội ý này, không gian hoạt động phải mở rộng. Vô lượng thế giới là
không gian hoạt động của chúng ta, đương nhiên bao gồm cả thời gian. Thời gian
là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng ta có thể trở về quá khứ cũng có thể đến
tương lai. Mười phương ba đời là không gian hoạt động của chúng ta. Đến thế
giới Tây Phương Cực Lạc thì toàn bộ thảy đều thực hiện được. Kinh văn phía sau
nói cho chúng ta nghe, nêu ra tùy loại hóa thân, tùy cơ nói pháp; nêu ra đáng dùng
thân Phật để độ, họ liền hiện thân Phật, đó là một thí dụ. Chúng ta từ thí dụ
này có thể thể hội, ở bất cứ thân phận nào đều biến hiện tự tại, cho nên thần
thông tự tại đạt đến viên mãn cùng tột.
“XẢ ĐÂU
XUẤT”
Đó là tướng thứ nhất trong tám tướng thành đạo, “Hạ
sanh”, như Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta. Bồ tát bổ xứ, thông
thường chúng ta gọi là Hậu Bổ Phật. Hậu Bổ Phật ở Đâu Xuất nội viện, vì sao họ
không ở nơi khác? Vì trong đó có ý nghĩa biểu pháp. Ngày xưa thời đại của đế
vương, thái tử chính là hoàng đế hậu bổ. Họ nhất định phải ở Đông cung, cũng có
ý nghĩa biểu pháp. Phật khi còn làm Bồ tát bổ xứ cũng đều ở cung trời Đâu Xuất.
“Đâu Xuất” là tiếng Phạn, dịch sang Trung văn là “tri túc”. Tri
túc thì thành Phật, không tri túc thì không thể thành Phật. Trời Đâu Xuất gọi
là trời tri túc, có nghĩa thường lạc. Cho nên người trời Đâu Xuất rất an vui,
thân tâm thường lạc.
Hoàn cảnh đời sống quá tốt, thế
nhưng vì để hoá độ chúng sanh khổ nạn, hoàn cảnh đời sống của chính mình có tốt
hơn cũng phải xả bỏ, đó mới là đại từ đại bi, chỉ biết lợi ích tất cả chúng
sanh, không bằng lòng để an thân hưởng lạc. Tóm lại, ngài dạy chúng ta xả đắc.
Đạt được hoàn cảnh đời sống thù thắng như vậy, ngài vẫn xả. Đem những gì đạt
được xả bỏ hết, đó là ý chính. Trong “Lễ Ký” của nhà Nho nói “an an
nhi năng thiên”, là ý này. Hai chữ “an” chỉ đời sống của bạn, thân
an tâm cũng an. Hai chữ “an” có ý nghĩa như Đâu Xuất. Nhưng vì phúc lợi
xã hội đại chúng, mọi người cần đến bạn, bạn phải bước ra phục vụ xã hội đại
chúng, hy sinh phụng hiến.
Trong lịch sử Trung Quốc, thời
đại Tam Quốc, tiên sinh Khổng Minh Gia Cát Lượng, vào thời loạn thế, mấy người
bạn của ông đều ẩn cư nơi núi sâu, cả đời không xuất hiện. Vốn dĩ ông cũng ẩn cư
nơi Lũng Trung, bị người phát hiện. Lưu Bị ba lần đến chòi tranh, ông đành phải
xả bỏ đời sống an ổn của chính mình, bước ra vì xã hội, vì quốc gia phục vụ.
Ông đã làm được tám chữ “cúc cung tận tuỵ, tử nhi hậu kỷ”.
Phật vì tất cả chúng sanh khổ
nạn, an vui ở cung trời Đâu Xuất, tầng trời thứ hai mươi tám, bất cứ tầng trời
nào cũng đều không thể so sánh, đó là nơi thánh hiền cư ngụ; vậy mà ngài có thể
xả bỏ. Đó là dạy chúng ta, không luận hoàn cảnh đời sống của mình thư thích thế
nào, an ổn đến thế nào, nếu vì chúng sanh, vì xã hội, vì quốc gia, chúng ta
nhất định phải hy sinh phụng hiến.
“GIÁNG VƯƠNG CUNG”
Tướng thành đạo thứ hai là “thác
thai”, thông thường người thế tục chúng ta gọi là đầu thai, xuất sanh, “giáng
vương cung”. Thích Ca Mâu Ni Phật nói, chư Phật Bồ tát đến thế gian này là
thừa nguyện tái lai. Các ngài không đến do nghiệp tái sanh. Phàm phu chúng ta
do nghiệp tái sanh, nghiệp báo đến thì không có chọn lựa. Chính mình không làm
chủ được, tùy nghiệp lưu chuyển, đời sống của chúng ta sẽ rất đau khổ. Bồ tát
thừa nguyện tái lai, họ do nguyện lực mà đến. Họ có thể chọn lựa đi đến một nhà
nào đó để đầu thai. Vì sao phải chọn ở nhà đế vương? Vì để thuận tiện giáo hoá
chúng sanh.
Người thế gian cầu danh vọng lợi
dưỡng, trong khi quốc vương đầy đủ danh lợi, những thứ mà người thế gian ham
muốn. Thế nhưng đế vương có thể xả bỏ tất cả. Đó là cách biểu diễn rất hay để
người xem. Nếu ngài sanh ra trong gia đình nghèo cùng mà lại nói về việc xả bỏ
thì người ta sẽ hoài nghi: “Không phải ông muốn làm quốc vương mà không được
nên mới làm tôn giáo? Ông muốn làm lãnh đạo tôn giáo thống trị mọi người, không
phải đó là vì danh lợi hay sao?” Mọi người sẽ hoài nghi, cho nên nhất định
phải chọn lựa ở nhà của đế vương.
Chọn lựa đầu thai đến nhà quốc
vương, dùng thân phận thái tử để xuất hiện, dụng ý của ngài rất sâu, vì người
thế gian có người nào không mong cầu phú quý. Thời xưa có câu nói: “quý như
thiên tử, giàu như bốn biển”. Bồ tát liền thị hiện: “Tôi đã có những thứ
các người mong cầu, nhưng không gì đáng tự hào mà rất bình thường”. Hoàng
đế cũng phải chết, tạo tác tội nghiệp vẫn phải đọa ba đường. Việc tốt là việc
nên làm, đã làm việc xấu thì phải đọa ba đường. Con người sống ở đời không phải
vì phú quý. Bồ tát dùng phương thức thị hiện làm một tấm gương tốt để chúng ta
phản tỉnh, giác ngộ.
“KHÍ VỊ XUẤT GIA”
“Vị” là vương vị. Xả bỏ
vương vị. Quyền lực quốc vương của một quốc gia là quyền lực lớn nhất. Người
tranh quyền đoạt lợi xem thấy Bồ tát biểu diễn vậy phải sanh tâm tàm quý. Bồ
tát có danh, vị, quyền lực, tiền của nhưng đều xả vì biết những thứ này không
phải là thứ tốt. Kinh Phật nói, “tài, sắc, danh, thực, thùy là năm
điều của địa ngục”. Chỉ vướng một điều thì bạn cũng đã không thể thoát khỏi
sáu cõi luân hồi. Nếu đầy đủ năm điều thì phiền não của bạn sẽ to, cho nên nhất
định phải xả. Người niệm Phật chúng ta mỗi tâm mỗi niệm phải cầu sanh tịnh độ,
không ở thế giới Ta Bà.
Chúng ta có thể đi hay không? đi
bằng cách nào? Phải đem thế giới Ta Bà xả bỏ thì bạn mới có thể đi. Chúng ta
không thể đem danh vọng lợi dưỡng từ thế giới Ta Bà đến đó, cho nên phải xả bỏ
thế gian này. Xả bỏ năm dục sáu trần, danh vọng lợi dưỡng, chúng ta niệm Phật
mới được sanh. Không gian đời sống của chúng ta rất có hạn lượng, làm gì an
vui. Chúng ta đem thế gian này thảy đều xả bỏ thì sanh đến thế giới Tây Phương
Cực Lạc mới được tự tại chân thật. Nơi đây nói dân chủ mở rộng tự do, toàn bộ
đều là giả, không phải thật. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới thật là dân
chủ tự do mở rộng. Ở thế giới Tây Phương Cực Lạc không hề có quốc vương, tổng
thống, bộ trưởng, thị trưởng v.v…. Vì sao không có? Dân chủ. Mỗi người đều là
chủ, không ai làm chủ ta. Đó mới thật là dân chủ, thật tự do, chân thật mở
rộng, tùy lúc tùy nơi muốn đến quốc gia nào, thấy một vị Phật nào thì liền đi,
không chút khó khăn.
Thế giới Cực Lạc đáng được chúng
ta đi. Còn thế gian này có tốt hơn, chúng ta cũng không nên lưu luyến, vì thời
gian quá ngắn, không thể hưởng thụ lâu. Cho dù thọ mạng của chúng ta dài, sống
trên trăm tuổi cũng chẳng hưởng thụ được bao nhiêu. Thật không đáng, nghĩ lại
vẫn phải vãng sanh thế giới Cực Lạc. Cho nên tất cả thọ dụng, danh vọng lợi
dưỡng, tất cả oai thế quyền lực thảy đều xả bỏ mà xuất gia. Nói như vậy không
có nghĩa là bảo mọi người đều xuất gia. Nếu bạn nhìn văn giải nghĩa thì ba đời
chư Phật hàm oan. Phật thị hiện hình dáng xuất gia là khải thị cho chúng ta để
chúng ta ở nơi đây giác ngộ phải “xuất gia”.
Ý nghĩa của xuất gia là đối với
gia nghiệp không có chút lưu luyến nào. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là
đại chướng ngại. Nếu bạn không có phân biệt, chấp trước thì cái nhà đó có hay
không không hề khác nhau, vậy thì không chướng ngại. Cho nên Phật nói đến xuất
gia có bốn loại. Bốn loại này đều là nói đối với người học Phật, không nói
người không học Phật.
Loại thứ nhất, “Thân xuất, tâm
không xuất”
Người xuất gia hiện tại, thân đã
xuất nhưng lòng vẫn còn danh vọng lợi dưỡng, vẫn tham sân si mạn. Tuy tướng của
người xuất gia nhưng những việc làm vẫn là sự nghiệp của người tại gia. Vốn dĩ
cái nhà không lớn, cha mẹ anh chị em không đông, vừa xuất gia thì làm chùa to.
Ra khỏi nhà nhỏ liền bước vào nhà lớn, phiền não liền lớn. Nhà nhỏ tạo nghiệp
nhỏ, nhà lớn tạo nghiệp lớn. Người xưa mới nói: “Trước cửa địa ngục tăng đạo
nhiều”. Ai đọa địa ngục? Thân xuất gia nhưng tâm không xuất gia, gần như
không thể vượt qua địa ngục. Việc này chúng ta phải hiểu.
Xuất gia phải thật giống Phật
Thích Ca Mâu Ni, thân tâm thế giới tất cả buông bỏ, toàn tâm toàn lực vì Phật
pháp, vì chúng sanh, đó là công đức vô lượng. Báo của tội phước ở ngay khoảng
một niệm, không thể không đề cao cảnh giác.
Loại thứ hai, “Thân không xuất
gia, tâm xuất gia”
Các cư sĩ tại gia học Phật, tuy
thân ở nhà nhưng tâm xuất gia. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên tâm xuất gia mà thân không
xuất gia, họ không tạo nghiệp. Thực tế người tại gia học Phật thành tựu nhiều,
vãng sanh tướng lạ hi hữu. Những năm gần đây, chúng ta cũng đã xem thấy hay
nghe thấy: đứng mà đi, ngồi mà đi, đều là đồng tu tại gia, nhất là nữ chúng.
Nam chúng tương đối ít, còn xuất gia thì chưa hề nghe nói qua dù chỉ một người.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ từng rất cảm khái mà nói, thời xưa tu hành thành tựu,
thứ tự là nam chúng xuất gia thành tựu nhiều nhất; thứ hai nữ chúng xuất gia,
thứ ba là nam chúng tại gia, thứ tư là nữ chúng tại gia. Hiện tại thảy đều điên
đảo, số người nhiều thành tựu nhất lại là nữ chúng tại gia, kế đến là nam chúng
tại gia, kế đến nữa là nữ chúng xuất gia, rất e ngại là nam chúng xuất gia.
Hiện tại đảo ngược, chúng ta không thể không cảnh giác. Chân tướng sự thật như
vậy không thể phủ nhận, cho nên ý nghĩa của xuất gia phải hiểu.
Loại thứ ba, “Thân tâm đều xuất”
Đó là người xuất gia tốt, thân
xuất gia tâm cũng xuất gia, Phật pháp gọi là “đệ tử chân thật của Phật”,
có thể gánh vác việc hoằng pháp lợi sanh, kế tục huệ mạng Phật, kế tục gia
nghiệp Như Lai.
Loại thứ tư “thân tâm đều không
xuất”
Cư sĩ tại gia thân không xuất,
tâm cũng không xuất. Tuy học Phật, nhưng việc học Phật chỉ là việc phụ, chủ yếu
lo danh vọng lợi dưỡng thế gian. Đại khái 99% lo thế gian pháp, chỉ lo Phật
pháp khoảng 1% cũng là rất tốt.
Phật ở ngay bốn loại này thị hiện
nhắc nhở chúng ta. Các đồng tu tại gia, tâm phải xuất dù thân không xuất. Trong
bất cứ nghề nghiệp nào, ở bất cứ công việc nào, các vị đều phải thị hiện thành
chánh giác. Bạn biểu diễn ở trong nghề nghiệp này, bạn là mô phạm tốt nhất,
trải qua đời sống của Bồ tát. Phàm hễ nếu tâm xuất gia, cái tâm đó nhất định
phải thông minh hơn người, nhất định có trí tuệ hơn người. Nếu bạn buôn bán sẽ
kiếm rất nhiều tiền. Thế nhưng Bồ tát kiếm được tiền không phải dùng cho chính
mình mà để giúp đỡ chúng sanh khổ nạn trong xã hội, đó là một tấm gương tốt
nhất cho người có tiền có thế lực xem, để ảnh hưởng họ, giáo hoá họ. Hy vọng
người phú quý đều quan tâm đến lợi ích của cả xã hội, xã hội này liền an lành,
không bị bất cứ ai làm loạn. Được như thế, chính chúng ta cũng trải qua ngày
tháng tốt đẹp, xã hội sẽ vĩnh viễn an định hòa thuận, hợp tác lẫn nhau.
Khi hiểu được ý nghĩa của xuất
gia, chúng ta sẽ biết nên làm thế nào tu học. Thực tế mà nói, chân thật phát
tâm cạo tóc xuất gia không phải dễ, ngược lại rất khó khăn. Bạn phải chân thật
hiểu Phật pháp. Bạn nghĩ mình có thể gánh vác công việc hoằng pháp lợi sanh kế
tục huệ mạng Phật hay không? Trách nhiệm này rất lớn. Nếu bạn nói: “Tôi niệm
Phật cầu vãng sanh”, vậy thì không cần phải cạo đầu. Bạn ở tại gia niệm
Phật cũng vãng sanh thượng thượng phẩm. Còn thị hiện dáng vẻ như vậy mà làm
không đúng pháp, bại hoại Phật môn thì tội nghiệp của bạn sẽ nặng, vì sao? Vì
bạn phá hoại hình tượng của Phật. Phật là thầy của trời người, khởi tâm động
niệm của Phật, lời nói việc làm đều là tấm gương tốt nhất cho chúng sanh chín
pháp giới. Bạn làm tấm gương xấu cho người thì bạn đang diệt Phật pháp, không
phải hưng Phật pháp. Trong tâm còn có tham lam, sân hận, ngu si, không giữ giới
luật, không giữ pháp, còn phóng túng, vậy sao được! Cho nên mặc vào tấm y này
phải mỗi giờ mỗi lúc nghĩ đến Phật. Ngày ngày nhìn Phật tượng, ngày ngày mở
quyển kinh ra đọc phải nghĩ lại xem ta có giống Phật hay không? Nếu không giống
Phật là đã đánh dấu trong địa ngục, còn có thể trốn được sao.
Cầu sanh tịnh độ, tâm ta đối
chiếu cùng với tâm của Phật A Di Đà. Tâm của Phật A Di Đà là bốn mươi tám
nguyện, ta xem nguyện nào cùng với tâm mình tương ưng. Đọc Bốn mươi tám nguyện
thấy tâm mình không tương ưng dù chỉ một điều, như vậy làm sao có thể vãng
sanh. Đó chính là người xưa thường nói: “đau mồm rát họng chỉ uổng công”.
Nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà, mọi người đều rất rõ ràng, “nước không ác
đạo”. Thế giới Tây Phương Cực Lạc không có đường ác, chúng ta đọc nguyện
này có cảm tưởng thế nào? Ba đường ác là quả, tham sân si mạn là nhân. Nước
không ác đạo là quả, chính là không có cái nhân của ác đạo. Hay nói cách khác,
chúng ta đọc cái nguyện này phải nghĩ rằng, tham sân si mạn không đoạn không
thể được. Nếu bạn không đoạn thì không tương ưng với nguyện thứ nhất của Phật A
Di Đà. Chúng ta không thể nói đến thế giới Tây Phương Cực Lạc mới đoạn, mà phải
đoạn ngay hiện tại, không thể có lòng tham dù một chút.
Buổi trưa hôm nay ở Hồng Các,
đoàn thể của cư sĩ Thừa Mông Giám cúng trai, chúng tôi có tham gia. Khi đi ông
tặng tôi một cái túi, trong túi toàn là bao đỏ, tôi không biết bao nhiêu tiền.
Tôi giao cho Ngộ Hoằng. Ông nói, người xuất gia quá nhiều, ông không thể phát
từng người một; trong khi mỗi tín chủ cúng dường số lượng không như nhau. Tôi
liền thay các vị xử phân. Người xuất gia không nên có tâm tham, tôi đem toàn bộ
số tiền này giao cho cư sĩ Lý Mộc Nguyên cúng dường đạo tràng. Trong túi có
tiền là họa hại, không phải việc tốt. Chúng ta phải làm đến được, nói được phải
làm được, chân thật buông bỏ. Thân xuất gia này tuy từ trước không tường tận
đối với Phật giáo, mơ mơ hồ hồ đi xuất gia, nhưng sau khi xuất gia cố gắng học
tập, từ mơ mơ hồ hồ biến thành một chánh giác xuất gia, cũng là việc tốt. Nhân
duyên cá nhân không giống nhau, nhưng kết quả về sau hy vọng giống nhau.
“KHỔ HẠNH HỌC ĐẠO”
Đời sống khổ một chút là tốt.
Phật dạy chúng ta “lấy khổ làm thầy”. Thường hay chịu đời sống khổ cực
thì dễ dàng có tính đề cao cảnh giác, còn đời sống quá thoải mái sẽ bị đọa lạc.
Cư sĩ Lý rất quan tâm đối với tôi, tôi cũng rất cảm tạ ông. Ông nói, lão pháp
sư của Trung Quốc đại lục được người chăm sóc rất nhiều, ông xem thấy tôi khổ
vì không có người chăm sóc. Khổ một chút cũng được, vì nhờ vậy mà tính cảnh
giác của tôi tương đối cao. Ông muốn tìm một số người đến chăm sóc tôi. Tôi cảm
tạ và từ chối, vì sợ rằng khi có nhiều người chăm sóc, tôi liền sẽ đọa lạc. Tác
oai tác phước, vậy không được.
Thầy của tôi đã làm một tấm gương
tốt cho tôi xem. Tôi nhận thân giáo của ông rất sâu. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam đến
năm chín mươi lăm tuổi vẫn một mình trải qua ngày tháng không có người hầu hạ,
giặt quần áo, nấu cơm. Ông vẫn tự tay làm. Sau chín mươi lăm tuổi, ông mới chịu
nhận học trò chăm sóc. Đến năm chín mươi bảy tuổi vãng sanh. Không có người
chăm sóc sẽ tốt hơn, điều đó giúp thân thể ta khoẻ mạnh. Nếu có người chăm sóc,
đi đâu cũng cần phải có hai người dìu đỡ, thật phiền phức, thật đáng thương.
Cho nên tôi cảm ơn tấm lòng của cư sĩ Lý Mộc Nguyên, nhưng không nên tìm người
hầu tôi thì hơn, để sức khoẻ của tôi được tốt.
Khổ hạnh đối với thân tâm mình
đều có sự giúp đỡ, trước nhất là thân thể nhất định khoẻ mạnh. Cho nên người
thế gian có phước mà không thấy thật phước báu. Họ cho rất nhiều người hầu hạ
họ, dần dần thể lực của họ kém xa so với lão nông phu dưới quê. Những lão nông
dưới quê có thể sống đến tám chín mươi tuổi mà không có người chăm sóc. Chính
mình nhất định phải làm mà sống, không làm không thể sống được.
Các vị phải biết, ở tuổi trung
niên trở lên thì cái gì là chân thật. Khoẻ mạnh là thật, thứ khác là giả. Thân
thể khoẻ mạnh mới là phước báu chân thật. Giả như rất giàu có nhưng thân thể
không khỏe, nằm trên gường bệnh, được ba hộ lý đến chăm sóc; loại phước đó, tôi
cảm thấy không ý nghĩa gì, không bằng người có thân thể khỏe mạnh như chúng ta,
đi đến mọi nơi thoải mái, đời sống hoạt bát.
Thế gian này bao gồm tất cả hiện
tượng, chúng ta phải tỉ mỉ quan sát, phải hưởng thụ phước báu chân thật. Khổ
hạnh có thể đột phá được mê hoặc chướng nạn, do đó không cầu hưởng thụ. Có
phước để tất cả chúng sanh cùng hưởng. Thế gian còn rất nhiều người khổ nạn,
chúng ta làm thế nào giúp đỡ họ. Giúp đỡ cũng phải tùy duyên phận, có duyên
nhất định phải giúp. Không có duyên thì trong lòng thường hay nghĩ đến, thường
phải nhớ lấy. Chỉ có khổ hạnh mới có thể đột phá chướng nạn.
“Học đạo”. Học là học tập,
sau khi học phải làm cho được. Đạo là hiểu thực tướng các pháp, đối với chân
tướng của vũ trụ nhân sanh chân thật giác ngộ, chân thật hiểu rõ, đó là đạo. Từ
bất cứ sự việc nào đều có thể giác ngộ, từ bất cứ pháp nào cũng đều có thể giác
ngộ. Cho nên Phật nói pháp vô lượng pháp môn, lại nói “pháp môn bình đẳng,
không có cao thấp”. Mỗi môn đều có thể khế nhập, đều khiến cho người giác ngộ.
Tất cả chúng sanh căn tánh không đồng nhau, duyên phận không đồng nhau, không
định vào lúc nào gặp được nhân vật như thế nào, nhưng bỗng nhiên giác ngộ. Sự
thật này chúng ta thấy rất nhiều trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Người xuất
gia khai ngộ minh tâm kiến tánh, người tại gia khai ngộ minh tâm kiến tánh cũng
không ít, việc này chúng ta phải hiểu.
“TÁC TƯ THỊ HIỆN, THUẬN THẾ GIAN
CỐ”
Đó là nói ý nghĩa của thị hiện.
Phật Thích Ca Mâu Ni trên kinh Pháp Hoa nói lời thành thật, ngài đã thành Phật
từ kiếp lâu xa. Kinh Phạm Võng nói, lần này ngài đến thế gian thị hiện làm
Phật, thị hiện tám tướng thành đạo là lần thứ 8000. Không tính ở thế giới
phương khác, chỉ riêng đến cõi này là lần thứ 8000. Thế mà dường như phàm phu
không hiểu biết gì. Ngài làm thái tử ra ngoài du ngoạn, xem thấy tất cả người
vật trong xã hội, xem thấy sanh, lão, bệnh, tử, liền xúc động tâm tu hành. Ngài
giả làm như vậy, đều là diễn kịch cho chúng ta xem. Chúng ta ngày ngày xem thấy
sanh, lão, bệnh, tử không hề cảm xúc, bất tri bất giác liền đến trên thân chúng
ta. Khi chính mình bị lão bệnh tử đến, hối hận không còn kịp. Ngạn ngữ nói “Người
không lo xa, ắt có họa gần”, ý nghĩa của câu nói này rất sâu.
Bạn có nghĩ đến lúc bạn già hay
không? có nghĩ đến lúc bạn bệnh hay không?, có nghĩ đến lúc bạn chết hay không?
Bạn có nghĩ đến đời sau hay không? Nếu con người biết nghĩ đến việc này mới gọi
là lo xa. Chúng ta phải làm thế nào mới có cách nghĩ chính xác? Nếu chúng ta
được dạy, ngay trong một đời này không già, không bệnh, không chết, đó gọi là
chánh tri chánh kiến. Không nên cho rằng tương lai chúng ta sẽ già, cần phải
chuẩn bị một ít tiền, nghĩ ra vài cách để dưỡng già; tương lai phải có bệnh nên
cần phải có một khoản tiền để làm phí thuốc thang; còn khi chết phải mai táng
như thế nào. Nếu bạn có cách nghĩ như vậy, đó không phải là nghĩ xa lo gần,
hoàn toàn sai rồi. Hiện tại bạn chưa già, nhưng bạn đã chuẩn bị già thì bạn sẽ
già rất nhanh; hiện tại bạn không bệnh nhưng bạn đã chuẩn bị phí thuốc thang
chờ bị bệnh thì bạn làm sao không bệnh chứ? Thậm chí tương lai khi chết, còn
phải tìm một nơi phong thuỷ tốt thì bạn sẽ chết rất nhanh.
Chân thật nghĩ đến tương lai là
phải mau tu học đại thừa. Phật pháp đại thừa kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta làm
thế nào không già, làm thế nào không bệnh, và làm thế nào không chết. Phật pháp
đích thực vì chúng ta giải quyết ba vấn đề lớn này một cách cứu cánh viên mãn.
Vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc không phải chết, đó là sống mà ra đi.
Trong những năm gần đây, ở
Singapore và Malaysia, người niệm Phật vãng sanh không ít. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên
đưa rất nhiều người vãng sanh, e rằng không ai so được với ông. Ông tiễn vãng
sanh, chính mắt xem thấy hiện tượng, tướng lạ vãng sanh, sống mà ra đi, không
phải chết rồi mới ra đi. Họ ra đi thấy Phật A Di Đà đến tiếp dẫn, họ còn nói
với người hai bên: “Phật đến rồi, tôi theo ngài đi đây”. Họ đi theo
Phật, không cần túi da này nữa. Trước là buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đến
sau cùng cái túi da này cũng phải buông bỏ, theo Phật A Di Đà đến thế giới Tây
Phương Cực Lạc hóa sanh trong hoa sen. Thân tướng đó là thân kim cang bất hoại,
kinh nói “đều là thân sắc vàng tử ma”, tướng mạo đẹp như Phật A Di Đà,
không chỉ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.
Vì sao họ đi được như vậy? Bởi vì
họ có thể buông bỏ. Họ buông bỏ lúc nào? Ngay hiện tại buông bỏ, không đợi đến
lúc lâm chung mới buông. Bởi vì hiện tại đã buông bỏ cho nên bạn sẽ không già,
sẽ không bệnh. Mộc Nguyên hảo tâm muốn tìm mấy người đến chăm sóc cho tôi, cho
rằng tôi già rồi, nhưng tôi không cần. Học Phật phải hiểu được đạo lý của Phật
pháp, đó là chân lý, cho nên làm ra loại thị hiện này, thuận theo nhân tình của
thế gian, sau đó mới có thể khiến người thế gian giác ngộ. Tuy kinh văn chỉ có
bốn câu mười hai chữ, nhưng quá trình Phật xuất gia tu hành học đạo đều được
hình dung tương đối viên mãn, mỗi câu mỗi chữ đều hàm nhiếp vô lượng nghĩa.
“DĨ ĐỊNH HUỆ LỰC, HÀNG PHỤC MA
OÁN”
“Hàng ma” là tướng thứ năm
trong tám tướng. “Dĩ định huệ lực, hàng phục ma oán”, hai câu nói này vô
cùng quan trọng, liên hệ đến cả đời tu học thành bại của chúng ta. “Ma”
“Oán”, trong tất cả nghiệp chướng, hai loại lớn này rất phiền phức. “Ma”
là dày vò, nên gọi là ma vương. Vào thời xưa dịch kinh, ma là một sự dày vò.
Dưới chữ ma có bộ thạch, là sự dày vò. Đem bộ thạch bỏ đi đổi thành bộ quỷ. Chữ
này do Lương Võ Đế phát minh. Lương Võ Đế nói dày vò quá khổ, còn đáng sợ hơn
quỷ, cho nên đổi thành quỷ. Đem bộ thạch đổi thành bộ quỷ, đó là ma quỷ.
“Qan” là oan gia, nên gọi
là báo oán, đòi nợ, trả nợ. Loại oan gia này gọi là oan gia trái chủ. Kinh Phật
nói, mười thiện là bạn lành, mười ác là oan gia. Mười ác là gì? Sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, thêu dệt, tham, sân, si, đó là oan
gia của chúng ta. Khởi tâm động niệm của chúng ta nếu rơi vào trong mười điều
này thì oan gia hiện tiền, dạy chúng ta tạo nghiệp. Cho nên Phật giảng mười
thiện là bạn lành, bạn cũ thân thiết nhất. Chúng ta phải thân cận thiện hữu tri
thức
Ý nghĩa trong đây rất nhiều, oan
gia không phải chỉ kết ở một đời một kiếp. Có oan gia nhiều đời nhiều kiếp. Nếu
chúng ta muốn tu hành, những người này liền đến gây phiền phức, vì sao? Họ phải
đến báo thù, họ có một ý nguyện báo thù mãnh liệt nên khiến chúng ta gặp phải
chướng nạn nhất định, phá hoại chúng ta tu hành. Không nhất định dùng phương
thức gì, chúng ta luôn luôn bị thiệt bị lừa. Yêu ma quỷ quái trong xã hội ngày
nay có thể nói quá nhiều. Kinh Lăng Nghiêm nói “thời kỳ mạt pháp” chính
là nói thời đại hiện tiền của chúng ta. Phật Thích Ca Mâu Ni dự ngôn từ ba ngàn
năm trước: “tà sư nói pháp như cát sông Hằng”, nơi nơi đều có, nói những
lời gần giống Phật pháp nhưng không phải, luôn làm bạn sanh phiền não, không
được thanh tịnh.
Chúng ta làm thế nào phân biệt
những ma oán? Lấy đề kinh này làm tiêu chuẩn. Đề kinh nêu tổng cương lĩnh tu
học có năm chữ “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Chúng ta tiếp xúc tất cả
người sự vật, cảm thấy tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác ngộ, đó là chánh
pháp. Ai nói tốt hơn, nhưng nếu phá hoại tâm thanh tịnh của chúng ta, phá hoại
tâm bình đẳng, làm cho chúng ta mê hoặc điên đảo, thì pháp này chắc chắn là tà
pháp, không phải chánh pháp. Phật ở chỗ này nói, phải “dùng lực định huệ
hàng phục ma oán”. Bạn có sức định, sức định chính là chính mình có chủ tể,
không thể bị cảnh giới bên ngoài dao động. Sức huệ chính là bạn thấy rõ ràng
tường tận, thông suốt thấu đáo; bạn có năng lực phân biệt tà chánh, thiện ác.
Do đó bạn ở cảnh giới bên ngoài mới không bị mê hoặc. Cảnh giới hiện tiền,
chính mình như như bất động mới có thể hàng phục ma oán. Trên đạo Bồ Đề, ma
chướng oan gia trái chủ quá đông. Bạn không có định huệ làm sao ngay một đời
này thành tựu?
Chính tôi mỗi niệm cảm kích giáo
huấn của thầy giáo. Không nhờ thầy giáo, chúng ta là phàm phu làm sao thành
tựu. Cái thiện mà thầy giáo dạy, chúng ta có thể tuân thủ. Dù thầy giáo có
khiêm tốn, không dám tự xưng mình là thầy, nhưng chúng ta làm học trò thì phải
tôn trọng. Lão sư Lý lần đầu gặp mặt tôi, ông liền nói: “Năng lực của tôi
chỉ có thể dạy ông năm năm”, lời nói rất khách sáo. Mục đích của ông là hy
vọng tôi cố gắng nghe ông dạy bảo năm năm. Năm năm không rời khỏi ông, năm năm
tuân thủ qui củ của ông, nghe một mình ông giảng kinh nói pháp, một môn thâm
nhập. Cái gốc này sâu, cái được chính là định huệ. Sau đó, đối với tất cả người
sự vật thay đổi, tôi quan sát đích thực là khác đi với trước. Ba tháng là đã
thấy hiệu quả, chính mình liền thể hội được.
Ban đầu lão sư dặn bảo, chúng tôi
cũng có chút miễn cưỡng, cảm thấy thái độ này của thầy giáo dường như quá ngạo
mạn, quá tự đại, gần như thế gian này chỉ có mình ông, người khác đều không thể
so sánh. Chúng ta không có trí tuệ nên không hài lòng. Cha mẹ ở nhà còn không
dạy chúng ta chỉ được nghe một mình họ, ngoài ra không được nghe bất cứ người
nào. Tất cả văn tự không được sự đồng ý của thầy cũng không được xem. Lại còn
một việc nữa, những gì đã học từ trước, ông thảy đều không thừa nhận, một mực
bài trừ, ông bắt phải học lại với ông từ đầu. Không còn lời gì để nói, chúng
tôi cũng xem như vẫn có một chút thiện căn phước đức, đành thật chịu nghe lời, thật
chịu tiếp nhận, y giáo phụng hành. Thế nhưng cứ như vậy mà làm qua ba tháng,
chính mình liền phát hiện thật có chỗ tốt, đó là tâm thanh tịnh. Ba tháng không
đi khắp nơi nghe. Bất cứ người nào nói chuyện đều không được nghe, bịt tai lại.
Giáo trình lão sư chỉ định rất có
hạn. Ngoài số đó ra, thứ khác không được xem, đóng bít cái nhìn của bạn. Tất cả
pháp không thấy không nghe, dần dần tâm liền định. Phương pháp này dạy chúng ta
tu thiền định. Định có thể khai huệ. Chỉ ba tháng sau, nghe người khác nói chuyện,
nhìn thấy mọi việc, chính mình cảm thấy thông minh hơn trước nhiều. Từ trước
nghe nói không hiểu ý nghĩa, hiện tại thì hiểu được, liền có năng lực đoán ý
qua lời nói. Sau sáu tháng thì rất rõ ràng. Cho nên tôi bội phục tận đáy lòng
đối với lão sư, mới biết được phương pháp của lão sư rất cao minh, chưa từng
được thấy qua, cũng chưa từng nghe nói, nên không biết phương pháp này tuyệt
diệu như vậy.
Sau năm năm, tôi liền nói với
thầy: “con xin giữ thêm năm năm nữa”. Lão sư yêu cầu tôi năm năm, tôi
tuân thủ qui củ của ông mười năm. Sau mười năm, tôi giảng kinh mới thành thạo,
tất cả đều trôi chảy. Gốc đã được cắm sâu như vậy. Không giữ qui củ, tự cho
mình thông minh thì nhất định thất bại. Đồng học thất bại rất nhiều. Học trò
lão sư dạy có đến vài trăm người, chân thật có được chút thành tựu hiện tại chỉ
có ba người. Vậy làm thế nào thành tựu? Giữ qui củ, nghe lời, thành thật, bạn
mới có thể thành tựu. Phàm tự cho mình là đúng, sau cùng đều thất bại. Cũng
giảng kinh nhưng giảng mấy năm không tiến bộ, không dẫn khởi hứng thú của thính
chúng. Thính chúng ngày càng ít thì duyên không còn nữa. Chính mình cũng không
giảng nữa.
Khi tôi đến Đài Trung, nhiều đồng
tu của chúng ta như vậy, mỗi mỗi đều giảng không tệ. Nhưng vì sao hiện tại, một
người giảng kinh cũng không có? Họ mời tôi ăn cơm. Bạn học cũ còn khoảng năm
sáu người, đều không giảng. Cho nên nếu không thể vâng giữ lời giáo huấn của
lão sư, bạn không có sức định, không có hằng tâm, không có lòng nhẫn nại thì
bạn làm sao có thành tựu? Đó là đại sự nghiệp.
Học Phật so với bất cứ sự nghiệp
thế gian nào đều lớn. Sự nghiệp lớn nhất của thế gian là xây dựng chính sách
quốc gia, mở nước, xây dựng triều đại, xây dựng quốc gia, nhưng vẫn không thể
sánh với Phật pháp. Phật pháp là siêu việt ba cõi, siêu việt mười pháp giới,
thành Phật làm tổ. Sự việc lớn như vậy, nếu bạn không đến tu học như lý như
pháp, nghĩ chính mình sẽ làm cách gì đó. Không sai, bạn có thể nghĩ, nhưng biện
pháp đó của bạn có hiệu quả không? Rất khó nói! Tổ sư đại đức truyền dạy phương
pháp này từ mấy ngàn năm, đời đời truyền nối nhau, đều làm theo phương thức này
mà thành tựu. Ngày nay chúng ta bỏ đi phương thức này, lại tìm ra một cách
khác, thử xem có thành công hay không? Bạn đi thử nghiệm, nếu thử nghiệm thất
bại thì thật đáng tiếc, vì bạn bỏ mất duyên của đời này. Còn bạn thử nghiệm
thành công thì thật cừ khôi, lại có thêm một phương pháp thành công.
Chúng ta chính mình không phải là
thượng căn lợi trí, đi theo đường cũ mới đáng tin. Chư Phật Như Lai thị hiện ở
thế gian vì sao phải dùng tám tướng thành đạo? Vì sao không tìm ra một qui củ
khác, một hình thức khác? Vì sao giữ theo phương pháp cũ? Tám tướng thành đạo
là thanh qui của tất cả chư Phật độ hoá chúng sanh. Chư Phật Như Lai xuất hiện
thế gian đều giữ qui củ. Phật Thích Ca Mâu Ni giữ lấy qui củ của người xưa, qui
củ của cổ Phật. Đại sư Thanh Lương trong “Hoa Nghiêm sớ sao” nói: Phật
Thích Ca Mâu Ni có nói pháp cho chúng ta nghe không? Không. Pháp mà Phật Thích
Ca Mâu Ni nói đều là cổ Phật đã nói, “thuật nhi bất tác”. Hay nói cách
khác, pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói trong bốn mươi chín năm, không có câu
nào do ngài sáng tạo.
Những thị hiện “tác tư thị
hiện, thuận thế gian cố”, đều là khải phát chúng ta, dạy bảo chúng ta đi
theo con đường của cổ thánh tiên hiền thì sẽ không sai. Không nên tự cho mình
thông minh muốn làm mới. Khi làm mới, vấn đề liền xuất hiện, nhất là người mới
học thì càng không nên. Dù lão tu hành cũng không thể làm mới. Cứ phương pháp
nguyên lý nguyên tắc nhất định không thay đổi, còn hình thức có thể tùy theo
thời đại mà thay đổi. Giống như giảng đường này của chúng ta. Chúng ta hiện đại
hoá, nghi qui có thể được tiết chế bớt. Từ trước nghi qui đại tòa phải làm bốn
mươi phút. Người hiện tại công việc bận rộn, làm sao có thể lãng phí thời gian
bốn mươi phút. Cho nên hiện tại chúng ta giảng kinh giản hoá nghi qui, việc này
thì được. Giảng đường của chúng ta hiện đại hoá, việc này không ảnh hưởng gì.
Nếu từ trên lý luận, từ phương pháp lại chế ra một nghi qui mới, đó mới đặc
biệt sai lầm.
Tóm lại, ở trên kinh luận, trên
nguyên tắc, nhất định phải theo qui củ xưa của cổ thánh tiên hiền. Cư Sĩ Lâm
muốn xây dựng niệm Phật đường, cư sĩ Mộc Nguyên thương lượng với tôi, niệm Phật
đường chọn lấy qui củ xưa của Đại sư Ấn Quang, không thể sai. Chúng ta không
nên làm gì mới. Chúng ta có làm thế nào cũng không thể hơn được người xưa. Nếu
làm sai, nhân quả gánh vác không nổi. Do đó hoàn toàn mô phỏng theo nghi qui
của Linh Nham Sơn. Nếu qui củ này có sai, đại sư Ấn Quang chịu trách nhiệm,
chúng ta sẽ không sao vì đã có chỗ để đẩy trách nhiệm.
“Ma”
Trong kinh Bát Đại Nhân Giác,
Phật nói bốn loại ma. Thứ nhất là “ngũ ấm ma”. Ngũ ấm là thân thể. Bạn
có thân thể này thì bạn phải chịu rất nhiều sự dày vò. Có thân thể đương nhiên
có tâm lý. Thân có khổ vui, tâm cũng vậy. Mọi người đều biết thân khổ hay tâm
khổ là sự dày vò nhưng không biết được cái ưa thích trong tâm hay cái vui của
thân cũng là sự dày vò, vì sao? Hưởng thụ tâm lý bình thường là thanh tịnh,
bình lặng. Còn hỉ, nộ, ái, lạc đều làm cho bạn không bình lặng. Một khi trong
lòng khởi lên sóng động chính là sự dày vò.
Ngũ ấm ma gồm sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Bất cứ chúng sanh nào đều không thể tránh khỏi. Chúng ta phàm phu
nên nhận thân ngũ ấm, như Phu Tử từng nói: “Ta có đại hoạn vì ta có thân”.
Người thông minh nhất đẳng không bao giờ muốn mình có thân. Vậy có thể làm được
không? Có thể. Trong Phật pháp, người tu học có công phu tương đối. Kinh Phật
nói “ba cõi sáu đường” có dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới, sắc
giới đều có thân thể, hay nói cách khác, không thể nào tránh khỏi khổ. Thiên
nhân của vô sắc giới không có thân. Họ biết thân là gốc khổ, thân là tích chứa,
thân là đại hoạn, cho nên họ không cần thân. Thiên nhân tầng trời thứ tư vô sắc
giới không có thân tướng, chúng ta gọi là “linh giới”, cao cấp nhất
trong phàm phu. Họ có được xem là giác ngộ không? Được. Không thể nói họ không
giác ngộ, thế nhưng họ không phải chánh giác.
Trong Phật pháp, chúng ta giác
ngộ là chánh giác. Chữ “chánh” chỉ riêng nhà Phật mới có. Người thế gian
tuy giác nhưng không chánh. Người trời Tứ Không có thể nhìn thấy rõ ràng, không
cần cái thân này thì không thể giải quyết được vấn đề. Cho dù sanh đến phi
tưởng phi phi tưởng thiên, tuổi thọ tám vạn đại kiếp vẫn là có hạn. Sau tám vạn
đại kiếp, họ liền phải đọa lạc. Ngạn ngữ nói “Leo càng cao té càng đau”.
Họ vừa đọa thì liền vào địa ngục. Tuyệt đại đa số đọa lạc trong Vô Gián địa
ngục. Nguyên nhân ở đó không phải vô cớ. Những người này đều là người tu hành,
vì không tu hành đã không đến được cảnh giới cao đến vậy. Tu đến được cảnh giới
này, cho rằng mình đã thành Phật, chứng được đại Niết Bàn, không sanh không
diệt. Đó không phải là giả. Nhưng họ đem trời tứ thiền, trời vô tưởng, tứ không
thiên tương đương Niết Bàn. Đó là sai lầm, ngộ nhận. Lỗi lầm chính ở họ, quyết
không phải Phật Bồ tát.
Phật Bồ tát trong kinh điển nói
rõ ràng tường tận. Chúng ta không thể hiểu lầm ý này. Dày vò của ngũ ấm không
thể nào tránh khỏi, cho dù Phật Bồ tát ứng hoá ở sáu cõi. Chư Phật Bồ tát ứng
hoá đến, hiện ra thân tướng cũng là thân ngũ ấm. Loại thị hiện này kinh Hoa
Nghiêm nói “thay chúng sanh chịu khổ”. Vậy những vị Phật Bồ tát thị hiện
có phải chịu khổ hay không? Trên hình tướng mà nói, họ cũng phải chịu khổ.
Nhưng trên thực tế các ngài không hề khổ. Đó là chư Phật Bồ tát ứng hoá ở thế
gian, hoàn toàn khác khi chúng ta đến. Trên hình tướng, ăn mặc đi đứng đời sống
của các ngài không hề khác chúng ta. Phàm phu chúng ta có khổ vui, các ngài
cũng có khổ vui biểu diễn bên ngoài, nhưng tâm các ngài vĩnh viễn thanh tịnh,
quyết không khổ. Sở dĩ phải làm ra dáng vẻ khổ để phàm phu chúng ta xem và có
được sự giác ngộ. Mục đích của ngài là hoá độ chúng sanh, là đến thị hiện, chứ
không phải chân thật đang chịu khổ.
Ngoài ngũ ấm ma, Phật nói “phiền
não là ma”. Phiền não vô lượng vô biên dày vò chúng ta. Trong phiền não bao
gồm cả thất tình ngũ dục. Phạm vi rất rộng.
Loại thứ ba là “tử ma”, ý
nói sanh tử dày vò. Chúng sanh chưa ra khỏi sáu cõi thì không cách gì tránh
khỏi. Có sanh nhất định có tử. Sau khi chết họ lại đi đầu thai. Tuyệt đối không
thể nói chết rồi là hết. Nếu chết rồi là hết thì chúng ta không cần phải học
bất cứ thứ gì, không phải khổ cực tu hành vì cũng dùng không được. Xin nói với
các vị, nhất định chết không phải là hết. Các vị tỉ mỉ đọc kinh Địa Tạng sẽ
biết cái chết thật đáng sợ. Sự việc chết tuyệt nhiên không đáng sợ, nhưng sau
khi chết thì phiền phức rất lớn. Sau khi chết sẽ tùy nghiệp thọ báo.
Thử nghĩ xem từ quá khứ đời đời
kiếp kiếp đến đời này, chúng ta đã tạo nghiệp gì? Nghiệp thiện có quả báo của
ba đường thiện, nghiệp ác nhất định có quả báo của ba đường ác. Ba đường ác dễ
dàng đọa lạc, thoát ra là việc vô cùng khó khăn. Từ đó Phật dạy chúng ta phương
pháp tu học “năm giới mười thiện”, đó là pháp cơ bản.
Tam phước trong Quán kinh xếp ở
hai điều phía trước. Mười thiện gồm thân ba, khẩu bốn, ý ba. Thân không sát
sanh, không trộm cắp, tại gia không tà dâm. Khẩu không nói dối, không hai
chiều, không ác khẩu, không thêu dệt. Ý không tham, không sân, không si. Trong
một đời, mười điều này chúng ta đã làm được bao nhiêu? Làm được mười điều thì
năm giới đương nhiên bao gồm trong đó, bạn mới có thể có lại thân người. Con
người sau khi chết muốn được lại thân người thật khó. Nếu lấy điểm số để nói,
nhất định phải thực hiện mười điều đến tám mươi điểm, mới có thể nắm chắc đời
sau được thân người. Nếu làm được 100%, thì quả báo của bạn không ở nhân gian
mà ở trên trời hưởng phước. Phước báu lớn hơn nhiều so với nhân gian. Đó là
Phật dạy pháp tắc căn bản cho chúng ta.
Tạo mười ác nghiệp, nhẹ thì ngạ
quỷ, súc sanh; nặng thì đọa vào địa ngục. Chúng ta phải cố gắng phản tỉnh, kiểm
điểm chính mình. Mỗi ngày từ sớm đến tối, từ đầu tháng đến cuối tháng rốt cuộc
đã làm mười thiện hay mười ác? Rốt cuộc là sức nghiệp thiện mạnh hay sức nghiệp
ác mạnh? Người tu hành phải phản tỉnh từng giờ, kiểm điểm từng giờ. Thân người
khó được mà dễ mất, sau khi mất đi, chúng ta phải làm sao? Việc này không thể
không suy nghĩ đến.
Cho nên Phật trong kinh điển một
mực khuyên bảo phải trân trọng sức khỏe thân thể hiện tại. Tất cả điều kiện đều
đầy đủ, phải chăm chỉ nỗ lực mà tu học. Cả đời tu hành, công phu tốt thì sau
khi chết, đời sau sẽ không tệ. Có công phu thì đời sau được thân người. Khi
phải nhập thai được thân người, công phu đời trước thảy đều tiêu hết, chúng ta
phải bắt đầu lại. Đó gọi là dày vò, không thể đời đời kiếp kiếp tiếp nối. Việc
gián đoạn chí ít cũng hết hai mươi năm, đó là bị mê khi cách ấm, bạn bị quên
hết sạch. Cho nên thế gian tu hành khó. Phật nói ba a tăng kỳ kiếp, vô lượng
kiếp, đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu việc tu học của chúng ta quả như giữ được
không để gián đoạn, không thoái chuyển, phàm phu thành Phật, thì làm gì mất
thời gian dài đến vậy.
Trong sáu cõi, thời gian thoái
chuyển rất dài. Vừa đọa vào ác đạo, tuổi thọ trong địa ngục đều vô số kiếp, một
thời gian dài không nghe được Phật pháp. Trời cõi dục giới đỡ hơn một chút, còn
từ sắc giới trở lên cũng không dễ, vì phước báu quá lớn. Họ lo hưởng phước nên
xem nhẹ việc tu hành. Thế mới có câu “giàu sang khó học đạo”. Trong sanh
tử đại sự, tử ma rất phiền phức. Nếu chúng ta không muốn chết thì đã có kinh Vô
Lượng Thọ dạy chúng ta vô lượng thọ. Bạn y theo pháp môn này mà tu học, ngay
trong một đời bạn nhất định không chết. Khi giảng giải, tôi đã nói rất nhiều
lần về pháp môn này. Lời tôi nói đều thật, không phải giả. Mỗi giờ mỗi phút đều
khuyên bảo mọi người. Pháp môn này không già không bệnh, không chết, nhưng đáng
tiếc rất ít người tin. Đúng như chư Phật nói “pháp khó tin”.
Có người muốn hỏi: “Bạn nói
không chết, nhưng chúng tôi thấy người niệm Phật chết cũng không ít, thế thì
sao lại không chết chứ?”. Kỳ thật người niệm Phật không chết, họ vứt bỏ
thân thể này để đi đến thế giới Cực Lạc. Khi ra đi, họ thấy rõ ràng tường tận,
thông suốt thấu đáo đức Phật đến rước. Họ không có đau khổ, ngược lại hoan hỉ
vui vẻ đi theo Phật. Sau khi xả bỏ thân này, đến thế giới Tây Phương Cực Lạc,
cái thân đó giống như thân của Phật A Di Đà, sắc thân tử ma vàng thật. Trên
kinh Phật nói “đầy đủ ba mươi hai tướng”, đó là tùy thuận phàm phu chúng
ta mà nói. Trên thực tế không phải như vậy. Trên thực tế thân có vô lượng
tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, mãi mãi không
còn già nữa, vĩnh viễn sẽ không bị bệnh. Tất cả sự mong cầu là tùy tâm sở
nguyện, chân thật là tâm tưởng sự thành. Bạn thử nghĩ xem nơi đó tốt đến dường
nào.
Người đại phú đại quý ở thế gian
chúng ta so với thế giới Tây Phương Cực Lạc, cõi phàm thánh đồng cư hạ hạ phẩm
vãng sanh cũng không thể so được. Thậm chí kinh còn nói, dù trên trời, người
Trung Quốc gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế cũng không thể sánh, vì họ mới là dục giới,
tầng trời thứ hai. Trời Đao Lợi là chủ, nhưng Đại Phạm Thiên Vương cũng không
thể sánh được với thế giới Tây Phương Cực Lạc, với phước báu của người hạ hạ
phẩm vãng sanh. Cho nên các vị muốn chân thật hưởng phước báu lớn thì ở thời đại
hiện tại này, tai nạn triền miên, người trung niên trở lên phải thường hay nghĩ
đến nơi quay về. Phải tự hỏi, sau khi già thì làm sao? Đi đến nơi nào?
Đó cũng là lý do Lý cư sĩ phát
khởi muốn xây dựng thôn Di Đà. Hôm nay ông cho tôi xem biên bản hội nghị. Đại
hội Cư Sĩ Lâm đã thông qua. Đó là chỗ quay về hiện tại của chúng ta. Một người
thông minh, một người giác ngộ thì đến nơi nào là tốt nhất? Đó là thôn Di Đà.
Thôn Di Đà tương lai nhất định thấy được Phật A Di Đà, nhất định vãng sanh tịnh
độ. Cả đời này chúng ta không hề luống qua. Vô lượng kiếp đến nay là cơ duyên
hy hữu khó gặp. Chúng ta ở ngay đời này xem là đã đợi được, không chỉ đại sự
một đời, mà đời đời kiếp kiếp vô lượng đến nay.
Loại sau cùng là “thiên ma”.
Kinh Phật nói, thiên ma là ma vương Ba Tuần. Ba loại ma trước đều là tự thân
chúng ta đầy đủ. Ngũ ấm là tự thân ta; phiền não cũng là tự thân, sanh tử vẫn
là tự thân. Chỉ có một loại bên ngoài. Loại ma bên ngoài này rốt cuộc là gì?
Hiện tại thế giới muôn màu bên
ngoài, tất cả người sự vật bạn thấy được, nghe được, hay tiếp xúc được đều đang
mê hoặc bạn. Đó chính là ma, khiến thân tâm bạn vĩnh viễn không an bình. Do đây
mà biết loại ma này trong thì phiền não, ngoài thì mê hoặc.
“Oán”
Oan gia có hai loại. Thứ nhất là
hoan hỉ oan gia. Đó cũng là những việc phiền phức. Oan gia không chỉ ngày ngày
chọc bạn sanh phiền não, mà oan gia cũng làm bạn ngày ngày hoan hỉ. Nói chung,
oan gia luôn làm tâm bạn không thể buông bỏ. Trong tâm luôn có vướng bận. Hai
năm trước, tôi ở Đài Loan khoảng thời gian tết, có một vị lão cư sĩ đến chúc
tết tôi. Ông nói: “Pháp sư à! Những năm qua tôi niệm Phật cũng không tệ. Bất
cứ thứ gì đều có thể buông bỏ. Chỉ có đứa cháu là tôi không thể buông bỏ. Vậy
phải làm sao?”. Đứa cháu đó chính là oan gia của ông nên ông không quên nó.
Chỉ cần một việc không thể buông bỏ thì không thể vãng sanh. Khi Phật A Di Đà
đến tiếp dẫn, bạn nói còn việc này việc nọ chưa buông bỏ, thì Phật A Di Đà sẽ
không đợi bạn. Ngài liền đi mất.
Do đó đối với oan gia, Phật dạy
chúng ta phải dùng định, dùng huệ. Định huệ có lực thì có thể “hàng phục ma
oán”. Bạn liền có năng lực đối phó với chúng. Người có định huệ cũng có thể
hàng phục ngũ ấm ma.
Thứ nhất là thân thể khoẻ mạnh
không bị bệnh. Bị bệnh là do bốn đại không điều hòa. Thành thật mà nói, nếu bạn
có bệnh, tức bạn không có công phu. Người thật có công phu mà bị bệnh, đó là
thị hiện. Cư sĩ Duy Ma thị hiện giả bệnh. Ngài giả bệnh để phương tiện hoá độ
chúng sanh, chứ không phải ngài bệnh. Còn bạn bị bệnh rốt cuộc là giả bệnh hay
thật bệnh? Việc này chính bạn phải rõ ràng. Cho nên thân thể phải khoẻ mạnh, đó
là cách hàng phục ngũ ấm ma.
Thứ hai là dung mạo không dễ suy
già. Đây cũng thuộc về ngũ ấm ma. Có định có huệ, tâm địa tất sẽ thanh tịnh. Hiện
tại, rất nhiều người đang chú trọng dưỡng sinh. Phải ăn thực phẩm gì để khoẻ
mạnh, phải trị liệu thế nào về sinh lý, vận động thế nào để bảo dưỡng thân thể?
Tôi thấy đều không hiệu quả. Phật pháp nói cái đạo dưỡng sinh là nói đến tu
định. Tu định có phải mỗi ngày chéo gối xếp bằng quay mặt vào vách không? Một
số người nói đến tu định thì cho rằng mỗi ngày phải ngồi xếp bằng mấy giờ đồng
hồ. Những người tu định đó, tôi cũng thấy qua, tướng mạo năm sau không bằng năm
trước, thân thể cũng vậy. Do mỗi ngày tuy ngồi mấy giờ đồng hồ, nhưng trong
lòng vẫn nghĩ tưởng lung tung thì làm sao gọi là định được?
Các vị phải biết, trong tâm không
có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mới gọi là định. Không nhất thiết chéo gối
ngồi xếp bằng. Trong Đàn kinh, Đại sư Huệ Năng tổ thứ sáu thiền tông là một
người cừ khôi. Mặc dù Đàn kinh không ghi chép, nhưng mỗi ngày ngài ngồi mấy giờ
đồng hồ. Đàn kinh chỉ ghi chép số lượng công việc mỗi ngày của ngài. Ngài ở
Hoàng Mai, làm việc trong nhà bếp, bửa củi, giã gạo, hầu như toàn công việc thô
nặng. Nếu ngài xếp bằng quay vào vách thì đạo tràng chẳng có cơm ăn. Đạo tràng
nhiều người đến vậy. Họ cần ăn cơm do ngài giã gạo. Vì thế công việc của ngài
rất nhiều, làm gì có thời gian để ngồi thiền. Nhưng rốt cuộc ngài có thật tọa
thiền hay không? Có! Làm việc chính là tọa thiền. Ngài nói ý nghĩa của tọa
thiền.
“Tọa” ý nói bất động,
không có nghĩa bảo bạn ngồi một ngày từ sớm đến tối. Bạn ngồi đó thì ai hầu,
phước báu của bạn bao lớn? Trong khi Phật dạy phước huệ song tu, làm sao bạn có
thể ngồi đó hưởng phước được? “Tọa” là bất động. Không phải thân bất
động mà tâm bất động.
“Thiền” là không dính mắc.
Không động tâm là tọa, do đó thân có thể động. Một ngày từ sớm đến tối thân làm
việc, bận rộn đến quên hết tất cả. Trong lòng không hề khởi tâm động niệm. Cái
bản lĩnh này cao, tâm địa vĩnh viễn thanh tịnh, thì không luận làm bất cứ việc
gì, dù công việc có khổ hơn, nặng nề hơn, họ cũng làm một cách nhẹ nhàng, thư
thái, vì họ không dính mắc.
Phàm phu chúng ta làm công việc
nặng nề thường cảm thấy mệt, do dính mắc, do phân biệt chấp trước. Nhưng nếu
không dính mắc thì bạn sẽ không có cảm xúc. Không chỉ không dính mắc tướng của
công việc, mà tướng của cái thân cũng không dính mắc. Kinh Kim Cang nói “vô
ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”. Công việc
là ở tướng chúng sanh, thọ giả tướng là thời gian. Thời gian làm việc có dài
hơn, ngài cũng sẽ không cảm thấy mệt mỏi. Ngày nay chúng ta chỉ hơi cực một
chút thì mệt đừ ra, dính lấy bốn tướng. Cho nên phải có định, có huệ, hiểu rõ
các pháp không tướng. Tất cả pháp, tướng đều là huyễn có, diệu hữu, thể là chân
không, đó là trí tuệ. Ngài Huệ Năng sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật, đương
nhiên ngài liền không chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mới có thể
chân thật đoạn dứt.
Cho nên huệ giúp định, định giúp
huệ. Định và huệ là thành tựu lẫn nhau, tạo năng lực hàng phục ma oán. Trong ma
oán, phiền não nhất là nhân sự. Từ xưa đến nay cách ngôn đã nói “làm việc
khó, làm người càng khó”, đặc biệt người hiện đại. Lòng người khó lường, ý
niệm thiên biến vạn hoá. Kinh Địa Tạng cũng nói “tánh thức bất định”.
Lòng người thế gian bất định, không thể dò tìm. Người ứng phó không có trí tuệ
không làm được. Phàm hễ ai tiếp xúc với chúng ta, kinh Phật nói, đều không
ngoài bốn loại duyên báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Đời này chúng ta
quen biết tất cả mọi người đều là bốn loại quan hệ này. Khi chúng ta đi bộ trên
đường, gặp được người, nếu hòa nhã chào hỏi bạn, dù cả đời chỉ gặp một lần, sau
khi đi qua sẽ không gặp lại cũng là thiện duyên đời quá khứ. Đó là cái duyên
nhiều nhất, ngay một đời chỉ có một lần. Hoặc một số người kéo đến không quen
biết, vừa nhìn thấy bạn liền tỏ ra không vừa lòng, trợn mắt với bạn. Đó cũng là
duyên, nhưng duyên bất thiện, có thể ngay trong một đời chỉ gặp một lần. Duyên
này tương đối mỏng. Nếu duyên kết sâu thì phiền phức liền lớn.
Chúng ta phải làm thế nào để cùng
sống với họ? Thực tế thật khó. Người học Phật có nguyên tắc, tuân thủ lời giáo
huấn của Phật. “Tam phước, lục hòa, lục độ”, là tổng nguyên tắc đối nhân
xử thế tiếp vật. Những nguyên tắc này đều không rời khỏi định huệ. Không phải
cửa định sở nhiếp thì là cửa huệ bao hàm. Học định huệ ở đâu? Học ngay cuộc
sống thường ngày, trong đối nhân xử thế tiếp vật. Công phu của Bồ tát từ trước
chưa từng gián đoạn, chỗ này gọi là “không hoài nghi, không xen tạp, không
gián đoạn”. Công phu chân thật dùng được đắc lực ngay nơi khởi tâm động
niệm.
Như Lai định huệ viên mãn nên tất
cả oan gia trái chủ đều được Phật giúp đỡ phá mê khai ngộ, đều được giúp đỡ tu
hành chứng quả. Phật là tấm gương tốt cho chúng ta. Không luận đối với người
thân cận, đối với chính mình trước oan gia trái chủ cũng phải giống như Phật.
Dùng sức định huệ để độ họ, giúp họ giác ngộ, thoát khỏi luân hồi sanh tử, ngay
một đời vãng sanh bất thoái thành Phật. Việc này phải nhờ vào định huệ của
chính mình.
Một số đồng tu nói, chính mình
học Phật nhưng lại rất khó độ người trong nhà. Vì sao khó độ? vì bạn chưa có
định, chưa có huệ. Độ người trong nhà chân thật không dễ dàng. Bạn phải tu hành
chân thật mới có thể độ được người nhà, trở thành một tấm gương tốt nhất để
người nhà nhìn thấy tường tận sự thay đổi từ khi bạn bắt đầu học Phật cho đến
sau khi học Phật. Trước khi học Phật, bạn tạo nhiều lỗi lầm tập khí khiến người
chán ghét. Sau khi học Phật, những lỗi lầm tập khí thảy không còn, đều thay
đổi. Ngôn hạnh cử chỉ của bạn khiến người hoan hỉ, tôn kính, thì người nhà của
bạn mới có thể được độ. Mỗi ngày sống cùng nhau, lỗi lầm dù nhỏ, họ ngày ngày
nhìn thấy. Công phu tu hành của bạn kém, họ liền khinh thường. Còn thân thích
bạn bè bên ngoài dễ độ hơn vì lỗi lầm nhỏ của bạn, người bên ngoài không nhìn
thấy. Họ chỉ thấy bạn tiếp xúc với họ rất qui củ, nhưng không thấy được mặt
sau.
Độ chúng sanh, Phật nói trong
kinh điển, trước tiên chúng ta phải độ người ngoài. Ý nói chúng ta cần chân
thật làm được trong ngoài như nhau. Phật dạy chúng ta công phu thận trọng, chỉ
riêng một mình cũng phải cẩn thận, cung kính, không phóng túng, không tùy tiện.
Làm được như vậy thì người trong nhà làm sao không độ được.
Oan gia trái chủ rất khó ở với
nhau. Kinh Phật cũng nói, những oan gia trái chủ này đã kết oán nhiều đời nhiều
kiếp. Chỉ có thể đem oán kết hoá giải, không nên kết nữa, “oan gia nên giải
không nên kết”. Phải có tánh nhẫn nại rất lớn, trí tuệ cao độ, nơi nơi đều
nhường nhịn thì mới có thể hóa giải. Nhất quyết không mang tâm oán hận, báo
thù. Nếu còn, thì oan gia kết chặt không thể hóa giải. Đời này họ báo thù ta,
đời sau ta báo thù họ, càng diễn càng tàn khốc, mỗi lần báo thù lại vượt hơn
lần trước.
Xem An Sĩ Toàn Thư, Văn Xương Đế
Quân Âm Trắc Văn, thấy Văn Xương Đế Quân nói rõ, đời trước mười bảy đời của ông
làm thầy thuốc. Ông đã tạo oan nghiệp đời đời kiếp kiếp báo thưởng không thôi,
rất thống khổ tàn khốc. Sau đó may gặp Phật pháp, hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ chân
tướng sự thật, ông mới nhẫn chịu hãm hại của oan gia, không khởi tâm báo thù,
không khởi tâm oán hận. Oán này liền giải, sổ nợ liền tính xong. Chúng ta cũng
nên học tập, nhất định phải tường tận. Chúng ta có ân với người khác, không nên
cầu người ta báo đáp. Nếu chúng ta có oán với người, phải mau hoá giải ngay
trong đời này. Quyết không kết oán thù với bất cứ người nào, đó là nguyên tắc
căn bản.
“ĐẮC VI DIỆU PHÁP, THÀNH TỐI
CHÁNH GIÁC”
Tướng thứ sáu của thành đạo. “Đắc
vi diệu pháp, thành tối chánh giác”, đây chính là dáng vẻ Bồ tát thị hiện
thành Phật. Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn trải qua như vậy. Từ trời Đâu
Xuất giáng sanh ở hoàng cung, sau đó xả bỏ phú quý xuất gia tu hành, đến khắp
nơi tham học, tầm sư học đạo, sáu năm khổ hạnh. Dưới cội Bồ Đề thị hiện hàng
ma, sau cùng ma không còn quấy nhiễu, áp bức dẫn dụ đều không động tâm. Đó là
chân thật trải qua khảo nghiệm, “ngoài không dính mắc, trong không động tâm”.
Ngài xem thấy thế xuất thế gian tất cả pháp như huyễn như họa, như mộng như
ảnh, cho nên có thể như như bất động. “Đắc vi diệu pháp”, ngài ở dưới
cội Bồ Đề thị hiện thành Phật, vậy ngài được vi diệu pháp gì mà thành Phật? Tôi
nghĩ mọi người chúng ta đều rất muốn biết.
Đại sư Ngẫu Ích trong Yếu Giải
nói, Thích Ca Mâu Ni Phật niệm Phật A Di Đà mà thành Phật. Vi diệu pháp chính
là niệm Phật A Di Đà. Pháp môn niệm Phật từ xưa đến nay chưa từng được tổ sư
đại đức nói qua, nay được đại sư Ngẫu Ích nói. Kỳ thật tổ sư đại đức xưa nay
cũng đã từng nói qua về Phật trên kinh điển nhưng không hàm xúc rõ ràng như
vậy. Chỉ có đại sư Ngẫu Ích nói được rất rõ ràng. Có một số đồng tu xem Yếu
Giải rồi đem câu nói của đại sư Ngẫu Ích đến hỏi tôi: “Đại sư Ngẫu Ích nói
Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm Phật A Di Đà mà thành Phật. Ngài căn cứ vào đâu?”
Căn cứ của ngài chính là ở trong Phật Thuyết A Di Đà kinh.
Chúng ta ngày ngày đọc kinh Di Đà
không biết bao nhiêu lần nhưng không phát hiện ra, không biết được câu nói nào.
Đại sư điềm chỉ như vậy. Chúng ta quay đầu xem lại, quả nhiên không sai, niệm
Phật thành Phật. Ngày trước tôi đã giới thiệu qua với các đồng tu, điều sau
cùng trong tịnh nghiệp tam phước, “phát tâm Bồ Đề, thâm tín nhân quả”.
Câu nói đó, tôi tìm tòi nhiều năm không ra, tôi không hiểu “thâm tín nhân
quả”. Đến sau này mới bỗng nhiên hiểu ra, “niệm Phật là nhân, thành Phật
là quả”. Niệm Phật thành Phật là đạo lý nhất định.
Vi diệu pháp này chúng ta đặc
biệt phải lưu ý và xem trọng. Trên kinh Địa Tạng, đọc đến Đại Trưởng Giả, Bà La
Môn nữ, Quang Mục nữ. Mỗi người đều chọn pháp môn niệm Phật. Đặc biệt Bà La Môn
nữ, Quang Mục nữ đều biết mẫu thân của mình đời trước tạo tác tội nghiệp cực
trọng. Tội nghiệp này nhất định ở địa ngục. Hai người đều là hiếu nữ, làm thế
nào để siêu độ thân mẫu của mình. Họ cầu Phật gia trì. Phật liền dạy họ phương
pháp niệm Phật. Cho nên chúng ta thấy trong kinh Địa Tạng, Phật không lừa dối
người. Phật có năng lực vào địa ngục cứu cha mẹ bạn hay không? Không có. Phật
không có năng lực, nhưng Phật biết dùng phương pháp gì có thể giúp họ. Bạn cứ y
theo phương pháp Phật dạy mà làm, quả nhiên liền có hiệu quả.
Ngày nay chúng ta hiểu rõ đạo lý.
Kinh Hoa Nghiêm Phật nói, “mười pháp giới y chánh trang nghiêm”, đó là
nói tận hư không khắp pháp giới, không phải chỉ cái thế giới này. Tận hư không
khắp pháp giới do đâu mà có? “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Kinh
đại thừa lại thường nói “tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, lòng chúng ta
nghĩ cái gì liền sẽ hiện ra cảnh giới như thế. Do đó, nếu trong lòng chúng ta
nghĩ đến Phật, Phật liền hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm cũng nói “nhớ Phật niệm
Phật, hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”. Đây chính là nguyên lý niệm
Phật thành Phật, niệm Bồ tát thì chứng được quả vị Bồ tát, niệm A La Hán tương
lai liền chứng quả A La Hán. Phương pháp này mau chóng hơn so với bất cứ phương
pháp nào trong đại thừa. Phương pháp trên kinh tiểu thừa nói khá nhiều, khi tu
thì quá phức tạp, trong khi phương pháp này lại mau chóng thẳng tắt.
Kinh nói sáu cõi luân hồi, sau
khi chết có sáu nơi để đi. Vì sao mọi người thường nói “người chết đều làm
quỷ”? Tỉ mỉ nghĩ lại, “người chết làm quỷ” cũng không phải không có
đạo lý, vì họ ngày ngày nghĩ đến quỷ, đương nhiên khi chết sẽ không đi nơi nào
khác ngoài cõi quỷ. Chưa chết nhưng ngày ngày nghĩ đến quỷ, nghĩ thứ gì thì
liền biến thành thứ đó. Ngoài nghĩ quỷ, còn làm việc quỷ, tạo nghiệp quỷ, kết
cái duyên với quỷ quá sâu. Việc của quỷ là tham. Phật nói nhân hạnh nghiệp nhân
của mười pháp giới, đường ngạ quỷ là lòng tham, đường địa ngục là sân hận,
đường súc sanh là ngu si. Một ngày từ sớm đến tối tham tài, tham danh, tham
sắc, mọi thứ đều tham, ngay đến học Phật rồi vẫn tham Phật pháp, như thế có
đáng lo không? Lòng tham liền tạo ra nghiệp quỷ, tạo nghiệp quỷ lại thường hay
nghĩ tưởng chết rồi làm quỷ, cho nên đại đa số người khi chết đều đi đến cõi
quỷ, cũng rất có đạo lý.
Hiểu rõ nguyên tắc này thì vì sao
ta không tạo ra nghiệp của Phật? Vì sao không niệm Phật? Mười pháp giới thực tế
do chính mình chọn lấy. Không ai làm chủ tể cho chúng ta. Việc này kinh Phật
nói quá nhiều. Cho dù đọa ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục đều là chính chúng ta
chọn lấy. Quyết không phải do thiên thần, quỷ thần chi phối. Hoàn toàn ta tự
làm tự chịu, lỗi lầm đều ở chính mình. Hiểu rõ chân tướng sự thật thì vì sao
không ở trong mười pháp giới tranh thủ hướng lên trên?
Tâm của Phật là gì? Tâm Phật là
tâm bình đẳng. Chúng ta đối với mọi người, tất cả việc, tất cả vật cũng dùng
tâm bình đẳng đối đãi. Nói thì dễ nhưng làm rất khó. Người chính là không bình
đẳng, tướng chính là không giống nhau. Phật một phương pháp, chúng ta xem cái
tánh của chúng, không nên dính vào cái tướng của chúng. Chúng sanh hữu tình có
Phật tánh, chúng sanh vô tình có pháp tánh. Tánh là bình đẳng. Cho nên chúng ta
trên tánh mà hạ công phu, không nên dính vào tướng. Phàm hễ thấy sắc nghe tiếng
đều có thể quay về tự tánh, tâm bình đẳng của bạn liền sẽ hiện tiền.
Tất cả Bồ tát không luận tu học
pháp môn gì. Pháp môn chỉ là phương pháp tu hành không giống nhau, phương tiện
không như nhau, nhưng nguyên lý nguyên tắc quyết không hề khác nhau, đều dạy
khéo quan sát. Khéo là từ tướng mà thấy tánh, tánh không tịch, tướng là hư
vọng. Tướng có ngàn vạn sự khác biệt, tánh chỉ có một không hề khác nhau, đều
không tịch. Cái không này là chân không, không phải trống không. Tịch là linh
tịch, không phải tối tăm trống rỗng không linh.
Nếu chúng ta không biết dụng tâm
thì dùng phương pháp của kinh Kim Cang cũng tốt. Hiện tượng muôn ngàn khác
biệt, không luận là chúng sanh hữu tình hay vô tình, trong lòng bạn phân biệt
chấp trước, phiền não tập khí hiện hành thì phải làm sao? Kinh Phật nói “Phàm
sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, hư vọng như nhau. Phàm sở hữu tướng, tướng
tốt cũng vậy mà tướng không tốt cũng vậy, khác biệt thế nào đi nữa thảy đều là
quy về hư vọng. Kinh lại nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào
ảnh”. Chỗ này Phật khuyên chúng ta “như lộ diệc như điện, ưng tác như
thị quán”. Phải nên có cái nhìn, cách nhìn như vậy mới là phương pháp tu
hành của pháp thân đại sĩ, không chấp tướng vì cái tướng này là bình đẳng.
Chúng ta tu nghiệp bình đẳng.
Nghiệp bình đẳng là nghiệp tu Phật, sau đó niệm Phật thì làm sao không vãng
sanh, làm sao không thành Phật? Cho nên nhất định không nên dính mắc. Yêu thích
cái tướng này, chán ghét cái tướng kia, đó là bạn đang tạo nghiệp luân hồi,
phải chịu khổ báo ba đường, phiền não thật lớn. Phải biết hảo tướng do tâm
thiện biến hiện ra, tướng không tốt là do tâm ác biến hiện ra. Năng biến là
tánh thức bất định, biến hiện là huyễn tướng ngàn vạn lần sai biệt. Mười pháp
giới y chánh trang nghiêm, chúng ta hiểu rõ đạo lý, hiểu rõ sự thật này, sau đó
vận dụng ngay trong cuộc sống, công phu đắc lực, pháp hỉ sung mãn.
Học Phật phải từ chỗ này mà học
tập, từ chỗ này mà dụng công. Niệm Phật là pháp môn đệ nhất trong tất cả pháp
môn. Tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh, đoạn phiền não, chứng bồ đề, thành
Phật đạo đều do niệm Phật A Di Đà mà thành tựu. Thế Tôn trong bổn kinh tán thán
Phật A Di Đà “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Phật Thích Ca
Mâu Ni đại diện cho tất cả chư Phật Như Lai tán thán Phật A Di Đà. Duyên của
chúng ta cũng thù thắng không gì bằng, vừa học Phật thì liền gặp được vua trong
các Phật, liền gặp được đệ nhất kinh thù thắng nhất trong nhà Phật. Bạn nói xem
duyên này thù thắng dường nào. Đó là do mọi người có phước, như kinh Di Đà đã
nói, vô lượng kiếp đến nay thiện căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta ngay
lúc này thảy đều chín muồi. Ngày nay gặp được thì nhất định phải nắm lấy cơ
duyên, nhất quyết không để lỡ.
“Đắc vi diệu pháp, thành tối
chánh giác”, chúng ta được vi diệu pháp, vấn đề chính là chúng ta có thể
thành tựu tối chánh giác hay không? Nếu muốn thành tối chánh giác thì không gì
khác hơn là y giáo phụng hành. Phật trong kinh dạy, chúng ta nhất định chăm chỉ
nỗ lực mà làm. Phật dạy không nên làm, chúng ta nhất định không phạm quy củ. Có
thế thì vãng sanh Tây Phương tịnh độ, người người đều có phần.
Pháp môn “ba căn đều nhiếp,
lợi độn đều thâu”, đặc biệt ở đạo tràng này, bốn chúng đồng tu đều là đệ tử
Di Đà. Như câu nói của Kito giáo: “vinh quang vô thượng”. Thượng đế của
họ là vinh quang, đệ tử Di Đà vinh quang đệ nhất. Thượng đế nhìn thấy bạn đều
cúi đầu tán thán, vì sao? Vì đệ tử Di Đà nơi đây làm sự nghiệp của Di Đà, rộng
độ tất cả chúng sanh, tiếp dẫn tất cả chúng sanh, vãng sanh bất thoái thành
Phật. Đạo tràng này của Singapore là đạo tràng đệ nhất thế giới. Nói đệ nhất để
hy vọng còn có đệ nhị, đệ tam, còn rất nhiều. Thế nhưng hiện tại, thế giới chỉ
có một đạo tràng này, mỗi ngày giảng kinh, ba trăm sáu mươi ngày không gián
đoạn. Lầu bốn niệm Phật đường ngày ngày niệm Phật. Thôn Di Đà xây dựng xong, số
người tham gia tăng. Chúng ta có thể phân ban niệm Phật, nhất định hai mươi bốn
giờ không gián đoạn.
Ngày trước lão pháp sư Đế Nhàn
dạy đồ đệ vá nồi. Người ta niệm Phật được ba năm, đứng mà vãng sanh. Sau khi
chết vẫn còn đứng ba ngày đợi sư phụ đến làm hậu sự. Đế lão dạy ông ấy phương
pháp rất đơn giản, đó là không nên hoài nghi, không nên xen tạp, không nên gián
đoạn, thành thật niệm, niệm mệt rồi nghỉ, nghỉ xong niệm tiếp. Ông liền y giáo
phụng hành, ba năm thành công.
Tương lai niệm Phật đường, thôn
Di Đà chúng ta tuân thủ theo khai thị này của lão pháp sư Đế Nhàn. Bên cạnh
niệm Phật đường có nơi nghỉ ngơi. Tôi thấy phía dưới đã làm xong một dãy phòng
nghỉ ngơi. Tuy nhiên, dãy phòng đó dường như vẫn không đủ dùng, nên kéo dài ra
thành một hàng. Người mệt thì đi nghỉ. Khi nghỉ ngơi không nên cởi áo tràng, vì
đã cởi ra sẽ dễ ngủ luôn, không dậy được. Mang áo tràng nằm nghỉ một lát, tinh
thần tốt hơn thì phải mau ngồi dậy đến niệm Phật đường mà niệm.
Phương pháp niệm Phật, chúng ta
tuân thủ theo pháp sư Hành Sách. Đó là tổ sư của tịnh tông. Phương pháp của
ngài “nhiễu Phật, chỉ tịnh, lễ bái”. Tương lai nếu có nhiều người niệm
Phật, chúng ta phân thành khu. Tượng Phật đặt ngay giữa để nhiễu Phật. Tượng
Phật không nên để trên đài, vì không thể nhiễu qua được. Quanh tượng Phật phải
có đường đi. Phía sau tượng có thể nhiễu Phật. Cho nên niệm Phật đường không
giống như giảng đài. Niệm Phật là lấy nhiễu Phật làm chủ. Bởi vì tinh thần thể
lực chúng ta không đủ thì không cách gì duy trì quá lâu, cho nên nếu nhiễu mệt,
chúng ta có thể ngồi xuống nghỉ ngơi. Việc này chúng ta xem trong kinh Hoa
Nghiêm, Thiện Tài Đồng tử đi tham học, tham phỏng vị thứ nhất là tỳ kheo Đức Vân,
Hoa Nghiêm 40 gọi là tỳ kheo Kiết Tường Vân. Ông đi tham phỏng nhưng không tìm
thấy ngài. Kết quả sau cùng “biệt phong kiến đạo”, trên đỉnh núi có một
đỉnh núi khác. “Biệt phong” đại biểu cho ý gì? Pháp môn đặc biệt chính là pháp
môn tịnh độ. Cho nên ngài tu pháp môn đặc biệt này ở nơi biệt phong.
Ngài tu như thế nào? Bát Chu Tam
Muội, Phật Lập Tam Muội. Ngài chỉ đứng và kinh hành nhiễu Phật, không ngồi,
không nằm ngủ. Thông thường chúng ta nói Bát Chu Tam Muội, một kỳ là ba tháng.
Vậy phải có thể lực rất tốt, người thông thường không làm được. Một ngày một
đêm không ngủ, bạn còn không chịu nổi thì chín mươi ngày không ngủ làm sao
được? Không chỉ không ngủ mà ngay đến ngồi cũng không được ngồi. Cho nên niệm
Phật đường phải lấy nhiễu Phật làm chủ đạo. Nhiễu Phật phải ra tiếng. Sau khi
nhiễu mệt thì bên cạnh có bồ đoàn để bạn ngồi xuống niệm. Khi ngồi có thể không
niệm ra tiếng mà cùng niệm theo đại chúng. Nếu ngồi mà hôn trầm ngủ gật thì
liền đứng dậy đến trước tượng Phật lạy. Lạy Phật cũng là phương pháp vận động
điều tiết thân thể. Còn nếu quá mệt thì sang khu bên cạnh nghỉ ngơi cho khoẻ
rồi phải mau trở lại niệm Phật một cách thật dụng công, chân thật nỗ lực.
Ngày trước thiền đường thiền tông
gọi là “trường tuyển Phật”. Ngày nay nơi đây chúng ta cũng là trường
tuyển Phật. Tất cả chúng sanh tuyển cử đến để làm Phật, còn có việc gì quan
trọng hơn việc này? Đại sự nhân duyên chính là như vậy. Hy vọng đồng tu chúng
ta trân trọng, dùng toàn bộ lực lượng thành tựu đạo tràng. Đạo tràng này là đạo
tràng của mười phương tất cả chư Phật Như Lai. Chính chúng ta rất rõ ràng tường
tận. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai bao gồm chính chúng ta trong
đó. Nếu chúng ta đã muốn làm Phật, tất cả Phật đều tán thán Phật A Di Đà thì
chúng ta cũng phải tán thán Phật A Di Đà; cũng phải toàn tâm toàn lực vì Phật A
Di Đà mà làm việc. Phải thay Phật A Di Đà trong đại thời đại này mà xây dựng
một nơi tiếp dẫn chúng sanh đến niệm Phật thành Phật, không luận sức cống hiến
của chúng ta lớn hay nhỏ. Kinh Hoa Nghiêm nói, đó đều là bình đẳng. Một niệm
thiện, một chút công đức nhỏ đều là tận hư không khắp pháp giới. Phước báu vô
lượng vô biên. Chúng ta có thể khẳng định, không nên hoài nghi, đó là đắc đạo
thành đạo.
Phật sau khi thành đạo không thể
nói là không còn việc gì. Sau khi thành đạo, một việc to lớn duy nhất chính là
ở ngay trong nhân địa phải thực hiện viên mãn cái nguyện đã phát ra. Không thể
nói mà không làm. Trong nhân địa đã phát ra nguyện gì? “Chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ”. “Độ chúng sanh” là thương yêu, quan tâm, thương xót
chúng sanh; toàn tâm toàn lực giúp đỡ chúng sanh. Trên kinh nói “ngàn nơi
mong cầu ngàn nơi đến”. Nơi nào chúng sanh có cảm, Phật liền hiện thân. Cảm
này chính là mong cầu Phật Bồ tát bảo hộ, gia trì. Chỉ cần có cầu, Phật liền có
ứng.
“Cảm” có hai loại: cảm rõ
ràng, còn gọi hiển cầu; và cảm âm thầm, chính mình thậm chí không phát hiện ra
chính mình có ý niệm mong cầu. Ý niệm này dường như rất vi tế, không phát hiện
ra. Một ý niệm vi tế như vậy, chính mình còn không biết, thế nhưng cảm ứng của
Phật rất linh mẫn. Các ngài có thể cảm ứng đến. Khi quan sát đến, Phật nhất
định có ứng.
Ứng của Phật cũng có hai loại:
hiển ứng và minh ứng. Minh ứng thì bạn không thể cảm giác được. Phật đích thực
đang ở xung quanh bạn, đang giúp đỡ bạn, nhưng bạn không hề cảm giác được. Hiển
ứng là cho bạn cảm nhận, hoặc giả bạn nhìn thấy hình tượng của Phật Bồ tát,
nghe được âm thanh của Phật Bồ tát. Như kinh Địa Tạng, Bà La Môn nữ cúng dường
đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Cô nghe được âm thanh của Phật, nói
chuyện với Phật, đó là hiển ứng rõ ràng. Tuy Phật không hiện thân, không nhìn
thấy thân tướng, nhưng nghe được âm thanh. Cho nên cảm và ứng đều có minh hiển
khác nhau. Có minh cảm hiển ứng, minh cảm minh ứng, có hiển cảm hiển ứng, hiển
cảm minh ứng. Cảm ứng đạo giao có bốn loại khác nhau. Chúng sanh thế gian căn
tánh chín muồi, đó là minh cảm không phải hiển cảm.
Vào ba ngàn năm trước, thế gian
này của chúng ta căn tánh chín muồi, cảm động Thích Ca Mâu Ni Phật ứng hoá đến.
Phật là hiển ứng, ứng hoá rõ ràng. Phật xuất hiện ở thế gian, không có người
quen biết, không có người thỉnh pháp. Không người thỉnh pháp thì Phật phải nhập
diệt, phải vào Bát Niết Bàn, vì ngài ở thế gian này không có việc gì làm. Phàm
phu chúng ta ngu si không biết Thế Tôn thành Phật, không hề biết có Phật xuất
thế. May mà người trời Tịnh Cư xem thấy, vội vàng đi xuống, thay chúng ta khải
thỉnh. Người trời Tịnh Cư chính là ngũ bất hoàn thiên trong đệ tứ thiền. Tầng
trời thứ năm này đều là người tu hành, không phải phàm phu. Kinh điển nói “thánh
nhân tam quả trở lên”, nơi đó đạo tràng lớn, họ mới nhìn thấy Phật xuất
hiện ở thế gian.
Thế là Thế Tôn tiếp nhận lễ thỉnh
của chúng sanh, bắt đầu vì mọi người giảng kinh nói pháp, triển khai sự nghiệp
giáo hoá chúng sanh. Sự nghiệp này dùng lời hiện đại mà nói là “công tác
giáo dục xã hội”.
“THỈNH CHUYỂN PHÁP LUÂN”
Vì sao công tác giáo dục xã hội
phải gọi là chuyển pháp luân? “Pháp luân” là thí dụ. Thời đại cổ xưa,
mỗi dân tộc đều có một đồ án để làm tiêu chí cho dân tộc. Người hiện tại buôn
bán bất cứ ngành nghề nào cũng có thương hiệu, đồ án, gọi là mark. Tịnh tông
học hội chúng ta cũng có, đó chính là logo phía trên. Tương tự, Phật pháp cũng
thuận theo thế gian pháp, không ngoại lệ, cũng chọn lựa một tiêu chí để đại
biểu giáo học của Thế Tôn đối với xã hội. Thế Tôn chọn hình tượng bánh xe tượng
trưng cho những nội dung mà Phật giáo hoá chúng sanh. Đồ án này phải biểu thị
những gì Phật đã nói cho chúng sanh.
Thông thường đồ án dùng trong nhà
Phật có ba loại. Loại dùng nhiều nhất chính là “bánh xe pháp”, chúng ta
thường gọi “pháp luân thường chuyển”. Loại thứ hai là “hoa sen”
được nhà Phật dùng làm tiêu chí. Loại thứ ba là chữ “vạn”, một trong ba
mươi hai tướng của Phật. Trên ngực đức Phật luôn có một chữ vạn, biểu thị tốt
đẹp. Tất cả pháp Phật nói đều tốt đẹp nhất. Hoa sen đại biểu thanh tịnh vô
nhiễm, tuy sanh ra từ bùn nhưng không nhiễm. Bùn biểu thị cho sáu cõi. Phía
trên bùn là nước, biểu thị pháp giới bốn thánh là thanh văn, duyên giác, Bồ
tát, Phật. Hoa sen nở trên mặt nước, ý này chính là siêu việt sáu cõi, mười
pháp giới, đạt pháp giới Nhất Chân. Không chỉ sáu cõi không nhiễm, mà pháp giới
bốn thánh cũng không nhiễm, hoa sen chính là biểu thị cho ý này.
“Bánh xe” biểu thị ý nghĩa
viên mãn hơn. Bánh xe là tướng động. Trong động là không động. Các vị thử nghĩ
xem, có thứ nào có thể biểu thị bằng hai loại hình tượng này? Chỉ có bánh xe.
Bánh xe tròn, tâm viên bất động. Xung quanh động, lòng tâm không động, cho nên
nó đại biểu “động tịnh không hai, động tịnh là một”, việc này các hình
tượng khác không thể hiển thị ra được. Ý nghĩa sâu hơn nữa là đại biểu “tánh
tướng không hai, không có là một”. Xung quanh bánh xe biểu thị tướng, đại
biểu có. Tâm của bánh xe biểu thị không, đại biểu tánh. Tánh là không, cho nên
tâm viên không tìm ra được. Nhất định có tâm, nhưng tâm không thể được. Hiện
đại có học thuyết nào có thể nói rõ ràng? Cho nên nói điểm, điểm chỉ là một
khái niệm trừu tượng không phải thật. Thế nhưng điểm di động chính là tuyến.
Tuyến di động chính là diện. Chúng ta có thể quan sát tuyến cùng diện nhưng
không thể quan sát được điểm, vì thế không tìm ra tâm viên. Tâm là không, tướng
là có. Do không sanh ra có, có từ không mà ra, cho nên có vẫn là không, có
không phải là thật có. Có gọi là huyễn có, chân không bất không, diệu hữu phi
hữu. “Bánh xe” biểu thị ý này thật viên mãn.
Mười phương ba đời tất cả chư
Phật vì chúng sanh nói pháp, chính là nói rõ đại đạo lý, nói rõ chân tướng sự
thật này. Vòng tròn xung quanh bánh xe biểu thị mười pháp giới y chánh trang
nghiêm. Trung tâm của pháp luân đại biểu cho tự tánh, đại biểu pháp thân lý thể
của chúng ta, chân tâm bổn tánh. Tất cả chư Phật Như Lai vì chúng sanh giảng
kinh nói pháp cũng không ngoài nói rõ sự việc này. Đó là chân tướng của vũ trụ
nhân sanh. Cho nên dùng bánh xe để biểu pháp rất viên mãn tròn đầy. Nếu bánh xe
không động thì biến thành phế vật, cho nên bánh xe nhất định phải động.
Ngày nay khoa học phát triển, các
vị thử nghĩ xem, đạo lý gì có được thành tựu huy hoàng như ngày nay? Đều là
bánh xe đang chuyển. Bất cứ máy móc gì cũng không ngoài vòng tròn này. Hiện tại
bánh xe còn làm thành bánh răng. Ngay trong bánh xe với nhau cũng có thể sanh
ra tác dụng chuyển động, toàn bộ bánh xe đang chuyển động. Phật giảng kinh nói
pháp đã dùng bánh xe pháp luân chuyển để làm thí dụ. Chúng ta xem kinh Phật “chuyển
pháp luân”, chính là thúc đẩy công tác Phật Đà giáo dục xã hội.
Chư Phật Như Lai xuất hiện ở thế
gian chính vì sự việc như vậy. Có thể nói trong tám tướng thành đạo, bảy tướng
khác đều vì tướng này. Cho nên tôi đặc biệt nói tường tận tướng này. Những
tướng khác, chỉ cần nói qua vài ba câu là được. Tất cả chư Phật Bồ tát ứng hoá
ở thế gian cũng chính để làm việc này.
“THIÊN NHÂN QUY NGƯỠNG”
Phật xuất hiện ở thế gian, người
thế gian phàm phu mắt thịt không nhận biết Phật Đà. Thiên nhân trời Tịnh Cư “quy
ngưỡng”. Xem thấy Phật thị hiện ở thế gian, họ ngưỡng mộ quy tâm, thế là
thay tất cả chúng sanh “thỉnh chuyển pháp luân”, thỉnh Phật giảng kinh
nói pháp, giáo hoá đại chúng. Kinh nói: “Phật vi thiên nhân sư phạm, cửu
giới đạo sư”, không chỉ là mô phạm cho tất cả mọi người chúng ta, mà là tấm
gương tốt nhất cho tất cả hữu tình chín pháp giới. Chúng ta phải học Phật. Nếu
chúng ta giữ tâm học Phật, muốn học Phật làm người, muốn học Phật đối nhân xử
thế tiếp vật, muốn học ngôn ngữ của Phật, thì đều phải noi theo tấm gương mô
phạm ở Phật. Đó gọi là học Phật.
Học Phật không phải là nghiên cứu
kinh giáo. Người hiện tại gọi nghiên cứu kinh giáo là Phật học. Phật học và học
Phật hoàn toàn khác nhau. Phật học mà không biết học Phật thì bạn vẫn là phàm
phu sanh tử, không cách gì đoạn phiền não, không cách gì siêu việt luân hồi.
Nếu chân thật học Phật, bạn không chỉ siêu việt sáu cõi mà còn siêu việt mười
pháp giới. Đặc biệt y theo bộ kinh điển này mà tu học, thì chắc chắn nắm vững “vạn
người tu vạn người đi”, một người cũng không sót lọt. Đó là lời dạy của tổ
sư đại đức xưa nay, “thường dĩ pháp âm, giác chư thế gian”
Phía trước trong đề mục của chúng
ta “thỉnh pháp năng cảm”, “nói pháp là sở ứng”. Đó là hiển cảm
hiển ứng rất rõ ràng. “Thường” là không gián đoạn. Thích Ca Mâu Ni Phật
dưới cội Bồ Đề thị hiện thành chánh giác, thị hiện thành Phật. Từ đó về sau
giảng kinh nói pháp không hề có một ngày gián đoạn. Bốn mươi chín năm giảng
kinh hơn ba trăm pháp hội qui mô lớn, không kể pháp hội nhỏ. Nếu tính cả số
pháp hội nhỏ thì đến khoảng ba ngàn hội.
(Còn tiếp
…)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post