KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 8)
Pháp
Sư Tịnh Không
Nguyện thứ hai, “Xưng tán Như Lai”
Câu này rất quan trọng đặc biệt ở xã
hội ngày nay. Xã hội có an định hay xã hội động loạn đương nhiên phụ thuộc
nhiều nhân tố, nhưng có một nhân tố quan trọng nhất, Phật pháp gọi là duyên.
Một trong số các duyên chính là tán thán, cũng chính là ngôn ngữ lời nói của
chúng ta. Phật Bồ tát hy vọng chúng ta ở xã hội này phải ẩn ác dương thiện.
Kinh văn phía sau, Phật dạy “Khéo giữ khẩu nghiệp không nói lỗi người”.
Người ta có điểm tốt, chúng ta phải tán thán, biểu dương, xã hội này liền có
thể từ trong hỗn loạn chuyển thành an định. Toàn thế giới ngày nay đều loạn,
căn nguyên đó do người thế gian tán thán ác mà che giấu cái thiện. Thiện thì
không nói đến, ác thì lại tận lực tuyên dương, tô vẽ khiến lòng người bất an.
Lời nói của chúng ta phải vì xã hội
gánh trách nhiệm, phải vì nhân dân cả thế gian gánh trách nhiệm, không thể tuỳ
tiện mà nói. Xã hội ngày nay, có thể nói luân lý đạo đức không có người giảng.
Nếu trên miệng ai nói đến luân lý đạo đức thì bị mọi người đều mắng là lạc hậu,
lỗi thời, không hợp trào lưu, không hợp thời đại, khó nghe hơn là bị cho rằng “tư
tưởng phong kiến”. Thế cái gì là hợp thời? Bất trung, bất hiếu, bất nhân,
bất nghĩa là hợp thời?
Cho nên xã hội ngày nay, bao gồm
giáo dục ở trường học, học sinh tiểu học nhận giáo dục đã bị tiêm nhiễm công
lợi, chỉ có lợi hại, không có đạo nghĩa, cho nên thế giới này làm sao không gặp
nạn. Băng của Nam Bắc Cực làm sao không tan ra? Chúng ta học Phật luôn được xem
là người sáng suốt, học Phật là người giác ngộ, chúng ta phải toàn tâm toàn ý
giúp đỡ xã hội này, thay đổi thói xấu, phong tục tập khí không tốt, làm thế nào
chuyển đổi chúng lại. Phương pháp tốt nhất là hoàn toàn dựa vào chính chúng ta,
không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Chính ta phải làm được. Người thế gian
bất trung, ta phải tâm trung tâm; người thế gian bất nghĩa, ta phải nghĩa khí;
người thế gian bất hiếu, ta phải tận hiếu. Giáo huấn của đại thánh nhân thế
xuất thế gian, ta phải y theo toàn bộ, nhất định tin tưởng mình có thể làm
được. Người người đều có tín tâm kiên định, ý nguyện kiên định, nỗ lực làm
theo, như phía trước đã nói: “Tín huệ, Nguyện Huệ, Hương Tượng Bồ Tát”,
thì thế giới này có thể cứu vãn, kiếp vận có thể vãn hồi, tai nạn có thể hóa
giải.
Do đây có thể biết, chính ngay ở mỗi
vị đồng tu chúng ta phải phát đại tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói “Đại tâm phàm phu”,
chúng ta là phàm phu phát đại tâm, công đức, uy đức vượt qua Thanh Văn Duyên
Giác Quyền Giáo Bồ Tát. Thanh Văn là A La Hán, Duyên Giác là Bích Chi Phật,
Quyền Giáo Bồ tát nếu lấy Thiên Thai, Biệt Giáo để nói chính là Bồ tát từ thập
hồi hướng trở xuống gọi là Tam Hiền Bồ tát. Cái gì gọi là phát đại tâm phàm
phu? Người vừa phát tâm, đem giáo huấn trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy thảy đều
làm được. Công đức người đó lập tức liền vượt qua bậc Tam thừa, liền được siêu
việt. Kinh Hoa Nghiệm Phật nói “đại tâm phàm phu” nhằm khích lệ chúng
ta. Nếu Ngài nói A La Hán mới có thể làm được thì chúng ta sẽ cảm thấy không có
phần, nhất định không làm được, tâm này không thể phát. Hoặc nói Bồ tát mới có
thể làm, cự ly phàm phu chúng ta quá xa với Bồ tát, cho nên Phật nói phàm phu.
Chúng ta là phàm phu, đại tâm chúng ta phát ra liền có thể siêu việt ba thừa.
Lời của Phật nói là thật, không phải giả, chỉ sợ chính chúng ta không chịu phát
tâm, còn nếu phát tâm liền siêu việt, gọi là “buông bỏ đồ đao lập địa thành
Phật”.
Phát tâm rất quan trọng, không chỉ
siêu việt ba thừa mà hiện tại còn có lợi ích. Tầm nhìn của người thế gian rất
cạn, chỉ mong cầu cái lợi trước mắt, nếu không có lợi ích, dù bảo người đó làm
Phật, họ cũng không làm. Phát tâm được lợi ích gì? Đời sống vật chất không hề
thiếu kém, đây là lợi ích mà hiện tiền người phát tâm có được. Việc này Phật
giảng rất có đạo lý. Không phải sẽ có rất nhiều, nếu nói rất nhiều thì hành giả
liền sẽ tăng lòng tham. Chỉ nói “Không thiếu hụt”, mỗi ngày có được cái
ăn, có quần áo mặc, có nơi để ở. Chỉ cần chúng ta không thiếu hụt, không cần
phải có nhiều, vì có nhiều sẽ tăng lòng tham. Đó là lợi ích trước mắt.
Lợi ích thứ hai, thân thể khoẻ mạnh,
trẻ mãi không già. Người ở tuổi hai mươi phát đại tâm, làm đại tâm phàm phu sẽ
mãi mãi hai mươi tuổi. Dù sống đến bảy tám mươi tuổi, khuôn mặt người đó vẫn
tuổi hai mươi. Thân thể khoẻ mạnh, vĩnh viễn không bệnh. Đó là lợi ích hiện
tiền, lợi ích chân thật. Làm quan lớn, phát tài to mà thường hay bệnh tật thì
đó là việc rất đáng tiếc. Tiền tài cũng dùng hết vào phí thuốc thang. Cho nên
đại tâm phàm phu vĩnh viễn trẻ trung, vĩnh viễn khoẻ mạnh, dung mạo sáng lạng,
pháp hỉ tràn đầy, an vui tự tại.
Phật pháp rất hiện thực, hiện thực
hơn bất cứ thứ gì. Nếu trái với kinh giáo, không luận tu hành thế nào, người
sáng mắt vừa nhìn là biết ngay, vì sao? Vì trên mặt không có ánh sáng, người
không cần có công năng đặc dị cũng nhìn thấy. Nếu có công năng đặc dị vừa nhìn
sẽ thấy rõ ràng hơn. Chúng ta thường nói: “thần khí không tốt”, có thể
thấy được khí sắc của họ tối đen, không phải khí sắc sáng lạng. Tỉ mỉ quan sát
tiếp, dung mạo không tốt thì dù hoá trang thế nào cũng không cách gì giấu được.
Ngay thế gian xem tướng đoán mạng cũng thường nói “tướng tuỳ tâm chuyển”.
Cái đại tâm vừa phát ra là Phật tâm, tướng của Phật đẹp dường nào. Cái tướng
này của chúng ta cũng dần dần chuyển thành tướng Phật, đức tướng viên mãn,
không có chút kém khuyết.
Tâm chúng ta thường giữ mặt thiện
của tất cả chúng sanh, miệng chúng ta thường hay tán thán mặt thiện của chúng
sanh, chúng ta liền tâm thiện, làm thiện, lời nói thiện, tướng mạo liền thiện,
thân thể thiện, không có thứ nào bất thiện. Còn nếu thường giữ tâm ác, chuyên
gây phiền phức cho người, chuyên nhìn khuyết điểm của người, tâm của chúng ta
ác, làm ác, nói ác, cuối cùng tướng mạo chính chúng ta cũng biến thành ác, thân
thể ác, làm sao có thể tránh khỏi họa. Người học Phật ngay đạo lý này cũng không
hiểu, vậy còn học cái gì.
Vận mệnh của mình hoàn toàn do chính
mình nắm lấy. Ngày trước tôi đã giảng rất nhiều lần, rất tỉ mỉ Liễu Phàm Tứ
Huấn. Tiên sinh Liễu Phàm là người thành thật, chịu nhận sai, mạnh dạn thay
đổi. Ông đã thành công trong việc chuyển biến vận mạng của mình. Sau khi chuyển
được vận mạng, ông giúp đỡ rất nhiều chúng sanh chuyển biến vận mạng. Đó là Bồ
tát hiện thân. Thời đại này, chư Phật Như Lai hết lời khuyên bảo chúng ta phải
phát đại tâm.
Cái gì là đại tâm? Ngay đây tôi có
thể nói cụ thể, nhất định phải phát tâm đem những lời giáo huấn trong kinh Vô
Lượng Thọ thảy đều làm được, đều thực tiễn ngay trong cuộc sống thường ngày,
trong công việc của chúng ta, và trong đối nhân xử thế. Đó là phàm phu phát đại
tâm. Làm theo như vậy, tương lai nhất định vãng sanh đến thế giới Cực Lạc,
thượng thượng phẩm vãng sanh. Làm đến 90% thì thượng trung phẩm vãng sanh.
Không nên rơi xuống dưới bậc thượng, thượng hạ phẩm cũng phải làm đến được 80%.
Chúng ta phải đặt tiêu chuẩn, nhất quyết tranh thủ thượng phẩm vãng sanh mới
chân thật đại tâm phàm phu. Đại tâm này không phải Bồ tát mà là Phật, “chỉ
có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba”. Phàm phu phát đại tâm chính là
pháp nhất thừa, chúng ta nhất định phải làm được.
Phải xưng tán “Như Lai”,
không dùng “chư Phật”, hai cú từ này khác nhau. Trên kinh Phật, việc
chuyển đổi danh từ cũng có dụng ý đặc biệt của nó. Trong “Kinh Kim Cang
giảng nghĩa” của cư sĩ Giang Vị Nông, ông chú giải rất tường tận. Kinh Kim
Cang, có lúc thì nói “chư Phật”, có lúc thì nói “Như Lai”. Cư sĩ
Giang giải thích, phàm hễ nói “chư Phật” là từ trên tướng mà nói, từ nơi
sự mà nói. Phàm hễ gọi “Như Lai” đều là từ trên tánh mà nói.
Kinh này không ngoại lệ. Kinh Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng như vậy, cho nên chúng ta phải thông hiểu. “Lễ
kính chư Phật” là từ nơi sự tướng mà nói. Trên sự tướng, tất cả cung kính.
Còn nói “Xưng tán Như Lai” là từ nơi tánh đức mà nói. Tương ưng với tánh
đức, chính là thiện, chúng ta phải xưng tán. Ac, chúng ta không nói cũng tốt
nhưng không thể xưng tán mà phải xưng tán cái thiện. Đối với “lễ kính”,
chúng ta lễ kính người thiện cũng phải lễ kính người ác. Không thể chỉ tôn kính
người thiện, còn với người ác thì không. Như vậy là sai. Chúng ta tôn kính
người ác nhưng không tán thán họ. Khác biệt chính ở chỗ này. Tâm cung kính đó
không được khác biệt, nhất định phải bình đẳng.
Việc xưng tán nhất định tương ưng
với tánh đức, khen cái thiện của người. Tất cả chúng sanh trên thế gian, không
ai chưa từng làm việc tốt, khởi tâm động niệm, lời nói việc làm, thiện ác lẫn
lộn. Vì chúng sanh thời nay, nghiệp chướng tập khí sâu nặng, ác nhiều lành ít.
Nếu có thể chuyển biến lại, làm thiện nhiều ác ít thì toàn phong khí của xã hội
đó sẽ được chuyển biến. Chúng ta tán dương thiện, không nói ác, những người làm
ác đó theo thời gian dần dần sẽ giác ngộ. Người ác cũng có lương tâm, lâu dần
họ sẽ phản tỉnh, sanh tâm hổ thẹn: “Ta tạo nhiều việc ác, mọi người đều
không nói, đều có thể bao dung. Ta làm chút việc thiện nhỏ như vậy mà mọi người
đều tán thán”. Từ đó họ sẽ liền hồi tâm chuyển ý, ít làm ác, làm thiện
nhiều.
Nếu không tán thán cái thiện của
người khác, ác nhỏ của họ thì chúng ta làm ầm lên, như vậy sẽ sanh ra hậu quả
ngược lại. Người đó sanh tâm hối hận vì đã làm việc tốt, vì làm tốt không ai
biết đến, không ai khen ngợi, còn làm chút việc ác liền được thiên hạ biết đến.
Người muốn làm thiện nhìn thấy cũng sẽ dần bỏ luôn ý niệm thiện. Trên thế giới,
người ta đều làm ác dẫn đến quan niệm sai lầm cho rằng làm ác mới hợp thời.
Quan niệm đó dẫn dắt người trên thế gian bỏ đi ý niệm thiện, tăng trưởng ác
niệm, liều mạng làm ác, mang đến cho xã hội này những tai nạn lớn, chúng sanh
vô cùng thống khổ. Truy cứu nguyên nhân căn bản chính là ở ngay cuộc sống
thường ngày của chúng ta. Ngay cả lời nói không cẩn trọng cũng tạo thành hậu
quả, mang đến tai họa. Phật đã nói rất nhiều trong tất cả kinh luận nhưng chúng
ta không lưu ý, không tỉ mỉ quan sát, và không cố gắng học tập.
“Xưng tán Như Lai”, đặc biệt
trong 53 đồng tham, Phật cho chúng ta xem một tấm gương. Chương sau cùng của
Hoa Nghiêm nêu ra thiện tài đồng tử, một tấm gương tu học Đại thừa. Thiện Tài
đồng tử là mẫu mực đại tâm phàm phu. Ngài gặp Phật pháp, hoan hỉ tín thọ, lễ Bồ
tát Văn Thù làm thầy. Nhiều người nghe đến đây sẽ cho rằng Thiện Tài gặp vận
may, được thầy giáo tốt là Bồ tát Văn Thù, liệu người khác có được may mắn như
vậy và đến nơi đâu để tìm thiện tri thức? Thực ra Bồ tát Văn Thù ở ngay trước
mặt mà nhiều người không nhận biết. Đó là “Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh”.
Văn Thù biểu thị trí tuệ. Kinh này tràn đầy trí tuệ viên mãn. Y theo bộ kinh
này mà tu học, đó chính là chúng ta đang thân cận Bồ tát Văn Thù, trở thnh học
trò của ngài. Sau khi học thì lập tức ứng dụng, đó chính là tham học. Thiện Ti
trong hội của Bồ tát Văn Thù, thành tựu được căn bản trí, sau đó Văn Thù khuyên
bảo ngài đi tham học. Tham học biểu thị đời sống. Làm thế nào đem cái mình đã
học thực tiễn ngay trong đời sống. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Bồ tát.
Họ thị hiện tướng nam nữ già trẻ, các ngành nghề y như đời sống của chúng ta.
Từ sớm đến tối, chúng ta tiếp xúc tất cả mọi người, tất cả việc, vật, đó chính
là năm mươi ba tham học, thảy đều là hoá thân của chư Phật Như Lai.
(Còn tiếp …)
KINH
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp
sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên
dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên
tập: PT. Giác Minh Duyên
Discussion about this post