Năm nay tôi đã trên sáu chục tuổi, ở cái tuổi mà
hằng ngày tìm tên bạn bè trên những mục cáo phó, phân ưu
trong các nhật báo và tuần báo. Biết rằng giờ phút ra đi
của mình cũng chẳng còn bao xa, cho nên đêm đêm nằm trằn
trọc, tôi băn khoăn không biết tương lai sau khi tắt hơi,
mình sẽ về đâu. Thuở nhỏ, mỗi khi làm điều lỗi,
tôi thường được nghe người lớn hù dọa về Thập Điện
Diêm Vương, về các loại địa
ngục ở dưới đất, vân vân, nhưng
tôi không quan tâm. Đến nay gần đất xa trời, nhiều lúc
tôi mơ hồ cảm thấy một nỗi sợ
hãi mênh mông, nên gửi thư này xin
thỉnh ý quý vị về vấn đề địa ngục.
Thưa
quý
thính giả,
Không
riêng vị thính giả gửi là thư này, mà nhiều người trong
chúng ta, dù có niềm tin về một tôn giáo nào đó, hoặc không
tin thần thánh gì cả, cũng có đôi chút ấn tượng trong đầu
về một cảnh giới được đặt tên là địa ngục.
Ý
niệm về địa ngục được hình thành từ thời cổ xưa,
xuất hiện cùng với ý niệm về ông Trời, về Thượng Đế,
về các loại Thánh Thần vân vân. Hầu hết các tôn giáo
đều nói đến những sự thưởng phạt sau khi chết, được
thưởng thì được sinh lên thiên đường hưởng phước, bị
phạt thì bị đầy xuống địa ngục chịu tội. Thời trước
người ta tin là trái đất vuông, mặt đất bằng phẳng, cho
nên thiên đường được giới thiệu là ở cao tít trên mây,
và địa ngục ở dưới sâu trong lòng đất. Lý do để được
thưởng hay bị phạt thì tùy theo luật lệ của mỗi tôn giáo
quy định.
Suốt
chiều dài của lịch sử loài người, hình ảnh về thiên
đường và địa ngục đã giúp những bậc trưởng thượng
trong các bộ lạc, làng mạc, thôn xóm, gia đình, như là một
trợ huấn cụ đắc lực để răn đe con cháu khỏi làm điều
sai trái.
Sau
này, khi các tổ chức tôn giáo hình thành, thì vai trò thiên
đường và địa ngục lại càng đắc lực hơn, trong việc
tạo ấn tượng về thưởng phạt, về nỗi khiếp sợ sẽ
bị đầy xuống địa ngục nếu trái lệnh, hoặc sự cứu
rỗi nếu người tín đồ vâng lời, khiến cho từ trong tiềm
thức, người ta tin chắc rằng cần phải có một nơi để
bấu víu, để nương tựa sau khi chết, nếu không sẽ phải
chịu muôn vàn khốn khổ, thiêu đốt vĩnh viễn trong địa
ngục.
Có
niềm tin cho là sau khi con người chết đi, linh hồn xuống
tới âm phủ, thì “quỷ thần hai vai” của người ấy sẽ
đem tất cả công và tội của họ tâu lên vua Diêm Vương
để ông ta quyết định sự thưởng phạt, hoặc cho lên trời
hưởng phước, hoặc đầy vào các loại địa ngục mà tên
gọi thường là rất rùng rợn, tùy theo sáng kiến của người
phát minh.
Đạo
Phật không tin chuyện quỷ thần hai vai và ông Diêm Vương
nào đó lại có thể quyết định vận mạng của ai được.
Nền đạo đức Phật giáo không xây dựng trên sự thưởng
phạt ở thiên đường hoặc địa ngục, do các Thần Linh áp
đặt, mà lấy quy luật nhân quả làm căn bản.
Tâm
lý học của đạo Phật cho rằng tất cả những việc mà
mỗi dòng đời tạo ra, trải dài theo cuộc hành trình trong
thế giới hiện tượng tương đối này, là những hạt giống,
hay còn gọi là chủng tử thiện hoặc ác, trong tương lai khi
hội đủ cơ duyên, sẽ nẩy nở thành những thiện quả hoặc
ác báo, đều chứa tại Thức Thứ Tám, còn gọi là Tàng Thức
hoặc A Lại Da Thức, của chính dòng sinh mạng đó. Thức
này là lớp Vọng, cũng mênh mông như Chân Tâm, tạm ví như
làn sóng điện trong không gian.
Những
chủng tử thiện hoặc ác này sẽ xuất hiện vào giây phút
lâm chung, để quyết định cảnh giới tái sinh của đương
sự, nhà Phật gọi là “gió Nghiệp cuốn đi tái sinh”.
Một số người có kinh nghiệm về cận tử (near death
experience) kể lại đại khái rằng vào cái lúc họ cảm thấy
muốn ngừng thở, bỗng nhiên trước mắt nổi lên một cảnh
tượng tràn ngập không gian, cả quãng đời quá khứ, những
việc làm khiến cho họ rất sung sướng hoặc rất đau khổ,
xuất hiện như là đồng thời. Họ cảm thấy như trong giấc
mơ, như là hình ảnh của ký ức. Đối với quan điểm của
nhà Phật thì đó là giây phút mà một người có thể nhìn
thấy được chính cái kho chứa các nghiệp nhân, tức là Tàng
Thức của mình.
Chiếu
theo thành quả tự tu, tự giác ngộ lại Bản Thể của đức
Phật, người Phật tử không tin vào sự cứu rỗi do bên
ngoài mang đến, mà tin vào chính mình, theo gương sáng của
đức Bổn Sư. Trong đời sống, người Phật tử t���ng bước
chuyển hóa tâm, từ xấu ác trở thành lành thiện,
đó là giai đoạn chuyển hóa tương đối. Sau đó sẽ bước
qua giai đoạn cốt tủy của quá trình tu chứng là “thanh
tịnh hóa tâm”, vượt lên trên những khái niệm thiện
và ác tương đối, chỉ còn lại tâm Từ Bi và Trí Tuệ Bình
Đẳng, hóa giải tam độc Tham Sân Si, vốn là căn bản trói
buộc con người vào vòng sinh tử. Từ đây dòng sinh mệnh
được hoàn toàn giải phóng, đạt được mục tiêu tối cao
của con đường tu Phật, là Toàn Giác.
Có
câu chuyện ẩn dụ về sự tự tu, tự độ như sau:
“Trong
khu vườn kia có một nhóm thiền sinh đang đứng chung quanh
vị thiền sư. Góc vườn là một con cọp bị trói. Thiền
sư hỏi đám học trò:
–
Có ai biết cách cởi trói cho con cọp không?
Đám
thiền
sinh góp ý, người thì bàn “lấy tấm lưới chụp
nó”, người thì bảo ”xông thuốc mê cho nó”. Cuối cùng,
một thiền sinh ung dung:
–
Cứ bảo người nào đã trói được nó, thì chính người
đó mở trói cho nó là xong.
Câu
chuyện nói lên tính chất của quy luật nhân quả, người
nào tạo nhân thì người đó lãnh quả, người nào ăn thì
người đó no, người nào tu hành thanh tịnh hóa tâm thì người
đó giác ngộ.
Như
thế về căn bản, đạo Phật không tin vào sự cứu rỗi,
mà tin lời Phật tuyên bố khi mới thành đạo: “Ta là
Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, và
câu di huấn khi Ngài sắp nhập cảnh giới Niết Bàn: “Mọi
người hãy tự thắp đuốc lên mà đi”. Đuốc ở
đây là đuốc Tuệ, là ngọn đèn trí tuệ mà đức Phật
đã giơ cao, nay còn nằm trong kinh điển, mỗi người đều
cần phải “tự học, tự tu, tự giác thành Phật”.
Tuy
nhiên, trên con đường giáo hóa chúng sinh từng bước, đạo
Phật đi trong nhân gian thường dùng những phương tiện
đã sẵn có của người dân địa phương để truyền bá tư
tưởng nhà Phật, theo tôn chỉ “tùy duyên mà bất biến”,
dùng bình địa phương đựng thuốc Phật giáo, khiến cho mọi
người đều được thấm nhuần tư tưởng từ bi hỷ xả
mà không cảm thấy nền văn hóa truyền thống của họ bị
xúc phạm. Thí dụ tượng ảnh đức Phật khi ở Ấn Độ
thì gầy gò, nghiêm túc, đúng là hình ảnh người tu khổ
hạnh. Sang tới Mỹ, tại tu viện Shasta trên sườn núi Shasta,
nơi có trên sáu chục vị sư người Tây Phương từ các tôn
giáo khác chuyển qua đạo Phật đang tu hành, thì tượng Bồ
Tát Quán Thế Âm lại giống hệt tượng Đức Mẹ. Trong khi
đó, tượng ảnh Phật và chư Bồ Tát bên Trung Hoa thì lại
mập mạp, hơi mỉm cười, đượm vẻ từ bi, cảm thông với
chúng sinh, theo truyền thống hiếu khách của người Á Đông
là “đem lại niềm vui cho nhau”.
Tóm
lại, đạo Phật cũng nói về thiên đường và địa ngục,
nhưng với ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Từ quan điểm
“nhất thiết duy tâm tạo” trong kinh Hoa Nghiêm, thiên
đường và địa ngục dưới mắt người Phật tử chính là
những cảnh giới tâm thức, mà mỗi người đều trải qua
hằng ngày. Nếu con người không chế ngự được ba thói
xấu là tham lam, sân hận và si mê, để cho bản thân rong ruổi
trong sự bon chen, tính toán lợi mình hại người, thì tâm
hồn không được an lạc, mà phiền não triền miên, ăn không
ngon, ngủ không yên, thường thấy ác mộng do những bực bội
bất mãn gặp phải hằng ngày, đó cũng đã được coi là
cảnh giới địa ngục của tâm thức rồi.
Trong
kinh Địa Tạng, chúng ta cũng thấy nói đến những cảnh giới
địa ngục. Vì “nhất thiết duy tâm tạo” nên những cảnh
giới trong kinh Địa Tạng cũng là những cảnh giới tâm thức.
Địa Tạng cũng có nghĩa là Tâm Địa, là Đất Tâm. Nhà Thiền
có câu “Đất Tâm nếu trống không thì mặt trời Trí
Tuệ tự chiếu”. Người nào có thể “thanh tịnh hóa
tâm”, khiến cho Đất Tâm trống không, thí Trí Tuệ Bình
Đẳng tự hiện, cũng có nghĩa là Bồ Tát Địa Tạng đã
phá xong cửa ngục tâm thức cho người đó rồi. Còn như nếu
Đất Tâm mà ô nhiễm quá, thì vào giờ phút lâm chung, do nghiệp
thiện hoặc ác trong quá khứ, mà thần thức người đó sẽ
bị chiêu cảm vào cảnh giới tương ưng.
Quan
điểm của nhà Phật về tất cả hiện hữu trên thế gian
là vô thường. Tâm cũng vô thường, khi tâm chuyển thì tất
cả mọi thứ do tâm tạo cũng chuyển theo tâm. Cho nên, đối
với nhà Phật, không có cảnh giới địa ngục vĩnh viễn.
Mỗi người đều có thể tự ra khỏi địa ngục bằng sự
thanh tịnh hóa tâm của họ. Đó là niềm hy vọng về
giải thoát của tất cả mọi người.
Nhà
Phật có câu: “ Buông dao đồ tể là thành Phật” hoặc
“Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”. “Buông dao”
và “quay đầu” ở đây có nghĩa là buông bỏ đời sống
ô nhiễm, bước vào con đường thực hành các phương pháp
để “thanh tịnh hóa tâm” như Mật Tông, Thiền Bắc Tông,
Thiền Nam Tông, Tịnh Độ Tông, vân vân …
Trên
đây chúng tôi đã trình bày vài khái niệm về địa ngục.
Nay xin nói về nỗi sợ hãi mênh mông của vị thính giả gửi
về câu hỏi.
Thưa
quý thính giả,
Tất
cả loài người chúng ta, mà có lẽ luôn cả các loài sinh
vật nữa, kể từ thời tiền sử, đều đã mang sẵn một
nỗi sợ hãi mênh mông. Ngay khi vừa mới lọt lòng mẹ, đứa
bé đã khóc thét lên vì sợ, tay chân quờ quạng, chới với.
Nó đang được nằm trong bào thai, được bảo bọc chặt chẽ,
ấm áp trong lòng mẹ nó, nay bỗng nhiên rơi tõm vào một khoảng
không gian trống rỗng, nên nó thất kinh hồn vía. Rồi theo
với thời gian, càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi
sợ hãi, từ những nỗi sợ nhỏ nhít linh tinh như sợ bị
đòn, cho tới nỗi sợ mất mát người thân yêu, mất nước,
vân vân. Vì nỗi sợ hãi triền miên này mà tinh thần con người
bị giam hãm, không khai phóng nổi.
Chúng
tôi xin trích dịch một đoạn bình luận về sự sợ hãi do
tư tưởng gia Krishnamurti trình bày trong cuốn On Fear, ông viết:
“Đầu
tiên chúng ta hãy tự hỏi “sợ là gì” và “nỗi sợ hãi nổi
lên như thế nào”?
Đối
với
chúng ta, bản thân từ ngữ “sợ” nghĩa là gì? Tôi đang
tự hỏi “sợ là cái gì”, chứ không phải là “tôi sợ cái
gì”.
Hiện
tại, ngay lúc tôi đang ngồi đây, tôi không sợ. Lúc này tôi
không sợ, chẳng có chuyện gì xẩy ra cho tôi, chẳng ai đe
dọa hoặc lấy cái gì của tôi. Nhưng ngoài cái thời gian
đang hiện hữu này, trong tâm thức tôi còn có một lớp sâu
hơn, đó là vùng ý thức hoặc vô thức, đâu đó, manh nha
tới điều gì đó có thể xảy ra cho tôi trong tương lai, hoặc
e ngại về một cái gì đó từ thời quá khứ đột nhiên
ụp xuống đầu tôi. Cho nên tôi sợ cả quá khứ lẫn
tương lai. Thế là tôi đã chia thời gian ra thành quá khứ
và tương lai. Đến đây thì sự suy nghĩ nhẩy vào lên giọng:
“Coi chừng, sẽ không gặp được điều đó một lần nữa
đâu”, hoặc “Sửa soạn sẵn cho tương lai đi. Tương lai anh
có thể sẽ nguy khốn. Bây giờ tuy là anh đã có chút đỉnh,
nhưng rồi ra có thể là anh sẽ bị mất hết. Biết đâu chừng
ngày mai anh sẽ chết, vợ anh có thể bỏ anh, có thể anh sẽ
mất công ăn việc làm. Anh có thể chẳng bao giờ trở thành
người có danh vọng. Có thể anh sẽ cô đơn… ”
Bây
giờ chúng ta hãy thử xét tới cái dạng sợ hãi của
chính bạn. Nhìn coi. Quan sát kỹ phản ứng của bạn đi. Bạn
có thể nhìn nỗi sợ hãi đó mà không nhấp nhổm muốn bỏ
chạy, không nẩy ra chút ý muốn bào chữa, kết án hoặc kiềm
chế chăng? Bạn có thể trực diện nỗi sợ đó mà không
có trong tâm cái từ ngữ đã làm thức dậy nỗi sợ
chăng? Bạn có thể trực diện sự chết, thí dụ thế, mà
không có từ ngữ đã đánh thức nỗi sợ chết chăng? Bản
thân từ ngữ đã đem tới sự chấn động, cũng như từ ngữ
“yêu” có sự rung động của chính nó, có ấn tượng của
chính nó, phải vậy không?
Bây
giờ hãy coi có phải là những hình ảnh trong tâm trí bạn
về sự chết, ký ức về biết bao nhiêu cái chết mà bạn
đã nhìn thấy, cùng với sự bạn tự liên tưởng chính bản
thân với những chuyện đã xẩy ra còn giữ trong tiềm thức
đó, — phải chăng đó chính là hình ảnh đã tạo ra sự sợ
hãi trong lòng bạn? Hay là quả thật bạn sợ sự chết sẽ
đến chứ không phải là bạn sợ những hình tượng trong
tâm đã tạo ra sự chết. Có phải là từ ngữ “chết” làm
cho bạn sợ hay là sự chết thật? Nếu chỉ là từ ngữ hoặc
ký ức là lý do để bạn sợ thì chẳng có gì đáng sợ hết
ráo.
Giả
dụ như hai năm trước bạn bị bệnh, ký ức về sự đau
đớn, về cơn bệnh vẫn còn tồn tại trong trí nhớ, nay nó
trỗi dậy nhắc nhở “Coi chừng, đừng để bị
bệnh lại như lần trước nữa đấy nhé”. Thế rồi ký ức
cùng với bè đảng của nó là guồng máy suy tư bèn tạo nên
sự sợ hãi, mà thật ra thì chẳng có cái gì đáng để mà
sợ hết ráo, vì lẽ lúc đó bạn đang rất là khoẻ mạnh.
Tư
tưởng, vốn là cái luôn luôn cũ mèm, bởi vì tư tưởng thoát
thai từ ký ức, mà ký ức thì dĩ nhiên là luôn luôn cũ mèm
— tư tưởng, vào lúc đó, tạo ra cái cảm giác là bạn đang
sợ hãi, nhưng đó chỉ là cảm giác, không có trong thực tế.
Thực tế là bạn đang khỏe mạnh. Nhưng cái kinh nghiệm về
sự đau ốm, vốn đã khắc ghi trong tâm trí, trỗi lên nỗi
sợ “Cẩn thận, đừng để bị bệnh lại nữa đấy nhé!”
Như
thế chúng ta thấy rằng chính suy nghĩ gây ra một loại sợ
hãi.”
Thưa
quý thính giả,
Như
Krishnamurti nói “… chính suy nghĩ gây ra một loại sợ
hãi”, đạo Phật từ hai ngàn năm trăm năm trước
cũng đã khuyên mọi người nên “thanh tịnh hoá tâm”, nghĩa
là đừng để cho tâm chạy nhẩy như con vượn, con ngựa (tâm
viên ý mã), thì sẽ được hưởng một đời sống giải thoát
từng bước, rồi sẽ tới giải thoát triệt để. Không cần
phải đi tới đích mới được hưởng hoa trái, mà ngay khi
quyết định bước lên con đường thanh tịnh hóa tâm là đã
bắt đầu được hưởng kết quả, tâm hồn đã thấy thơ
thới hân hoan rồi.
Có
bài kệ trong kinh Phật như sau:
Tội
từ tâm khởi đem tâm sám
Tâm
được tịnh rồi tội liền tiêu
Tội
tiêu tâm tịnh, thẩy đều không
Ấy
mới thật là chân sám hối.
Sám
hối ở đây là “thanh tịnh hoá tâm”, làm cho “tâm
tịnh”, chứ không phải là đem nải chuối tới chùa cúng
Phật, hứa hẹn và cầu xin lung tung.
Nhà
Phật cho rằng con người ta vì vô minh mà tạo nghiệp, thọ
báo, cũng ví như một người đang đi trong căn nhà tối. Khi
tâm được tịnh rồi “Trí Tuệ Bình Đẳng tự chiếu”,
thì cũng ví như bật ngọn đèn bừng sáng lên, bóng tối biến
mất, màn vô minh bỗng tan rã, là lúc con người giác ngộ
giải thoát vậy.
Ban
Biên Tập TVHS
Discussion about this post