ĐẠO PHẬT VÀ MÔI TRƯỜNG
Sống hòa hiệp với thiên nhiên là một sự thực hành thiết yếu của Đạo Phật
Tác giả: Nick Wallis giải thích tại sao
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / 16-11-2010
Khi
chúng ta nhìn vào những kinh luận truyền thống của Đạo Phật dường như có rất ít
liên hệ trực tiếp với những gì ngày nay gọi là khái niệm môi trường hay sinh
thái học. Khi chúng ta thể nhập một cách
thông minh vào thế giới mà Đức Phật đã sống và hành đạo, lý do của điều này sẽ
trở nên rõ ràng hơn. Khung cảnh nổi bật
lên là một nền văn hóa sống trong sự hòa hiệp vô cùng sâu xa với môi trường, nếu
đôi khi phải nói là trong sự thông cảm của lối sống Phật Giáo, và một cuộc “Vận
Động Môi Trường” đơn giản là không cần đến. Sự liên kết mạnh mẽ rằng con người cảm nhận với môi trường được soi sáng
một cách đặc biệt trong câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, mà trong ấy tất cả
những sự kiện nổi bật nhất xãy ra ở miền quê và được phối hợp với cây cối: Ngài đã đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni khi Mẹ
Ngài với nắm một cành cây Vô Ưu, kinh nghiệm của Ngài vào lúc thiếu niên trong
thể trạng thiền quán dưới cây tăng táo, Ngài giác ngộ dưới cây Bồ Đề, và Ngài
đã niết bàn giữa những cây Ta La Song Thọ. Do thế, trong sự tầm cầu để áp dụng Phật Pháp vào trong lĩnh vực môi trường,
chúng ta phải tìm kiếm những nguyên tắc nền tảng thích hợp đến chính thế giới
khác biệt này mà chúng ta đang sống.
Chúng
ta không cần phải nhìn đâu xa. Trong cái
nhìn sâu thẩm phổ thông, một trong những bông hoa Đại Thừa của giáo huấn Đức Phật
về Duyên Sinh (pratitya samutpada),
chúng ta có một tuệ giác căn bản trong mối liên hệ của chúng ta với thiên
nhiên. Cái nhìn này được minh họa trong
biểu tượng của lưới Đế Thích: phía trên Thiên đàng, trên nóc cung điện của vua trời Đế Thích, ở đấy treo vô số châu báu
xen lẫn với nhau trong một mạng lưới vĩ đại. Khi ánh sáng phản chiếu từ những trân bảo đủ loại này không chỉ mỗi hạt châu
phản chiếu toàn bộ vũ trụ, mà cũng là phản chiếu từ mỗi hạt châu khác trong
mạng lưới, bao hàm tất cả sự phản chiếu của tất cả châu báu, những sự phản
chiếu của những sự phản chiếu, và tất cả những sự phản chiếu kia.
Trong
cảnh tượng xinh đẹp ngoạn mục này, chúng ta có thể bắt đâu liên kết một cách
sáng tạo với sự hệ thuộc hổ tương của tất cả mọi tiến trình. Đem tuệ giác này về trái đất, một cách thực tiển,
điều trở nên rõ ràng rằng bằng việc tổn hại thiên nhiên, chúng ta thật sự làm tổn
hại chính mình. Có rất nhiều thí dụ để
minh chứng điều này trong truyền thông hiện tại: mưa a xít, hiệu ứng nhà kính,
những lỗ của tầng ozone, ô nhiễm phóng xạ, đây chỉ là một số điều được nêu
tên. Những sự phản ứng của thiên nhiên đến
sự cẩu thả của chúng ta làm tại hại cho chúng ta không chỉ về vật lý mà cũng về
tâm lý, khi chúng ta đối diện với sự đe dọa của môi trường gia tăng một cách
không thân thiện đến sức khỏe của đời sống nhân loại.
Tái
tuyên bố một cách rõ ràng cái nhìn này về sự thâm nhập trong một ý nghĩa tích cực,
để cải thiện phẩm chất cuộc sống, chúng ta cần sống hòa hiệp hơn nhiều với
thiên nhiên. Điều này nghe có vẻ như là
một vấn đề hiển nhiên và giản dị, nhưng thật sự chắc chắn không là cung cách mà
nền văn hóa chúng ta tiếp cận với thiên nhiên. Trong nền văn hóa vật chất hiện tại, không nghi ngờ gì sự ảnh hưởng một
cách mạnh mẽ của quan điểm Ki Tô Giáo rằng Thượng Đế đã đặt để thiên nhiên ở đấy
cho con người sử dụng vì mục tiêu của nhân loại, nên chúng ta phải tiếp cận môi
trường từ quan điểm của sự quản lý tài nguyên. Trong nhiều trường hợp với những công ty kỷ nghệ lớn, điều này đáng gọi
là sự quản lý tài nguyên sai lạc, khi đầu óc hẹp hòi lèo lái vì mục tiêu lợi
nhuận làm cho những khối lượng khổng lồ của chất độc đã được thải vào trong bầu
trời, sông ngòi, và đại dương của chúng ta cũng như vung vải khắp những vùng đất
đai làm những nơi ấy trở thành những rắc rối cho những người khác.
Phương
pháp ‘quản lý tài nguyên’ đưa chúng ta vào trong những khó khăn trên một mức độ
cá nhân hơn. Trong việc nhìn chính
chúng ta như những người ‘quản lý’, và do thế bên trên thiên nhiên, chúng ta có
thể đánh mất một cách dễ dàng chính những phẩm chất này là những điều đã được
ban cho chúng ta, nhân loại chúng ta. Đây là là nguồn gốc đáng chú ý một cách đặc biệt. Có phải sự tàn bạo vô vàn liên hệ đến việc
tàn sát thú vật để làm cho những nhà bếp của thế giới được cung cấp liên tục với
thịt, hay sự giết hại những tạo vật khổng lồ ở trên biển cả bởi những quốc gia
giàu có như Nhật Bản đã làm cho suy thoái toàn bộ chủng loại loài người. Vị thế của Phật Giáo, trên mặt khác, nhấn mạnh
sự tương tác hòa hiệp giữa chính chúng ta và thiên nhiên, không thụ động cũng
không cố gắng để thống trị, và hoàn toàn đưa chúng ta quan tâm đến việc khả dĩ
cho một chế độ chay tịnh một cách tự nhiên.
Vì
thế, đây là viễn kiến, nhưng làm thế nào chúng ta biến điều này trở thành hiện
thực? Ở đây chúng ta thấy đạo đức Phật
Giáo hổ trợ chúng ta, với nguyên tắc căn bản về bất bạo động (ahimsa) hay không tổn hại. Trong tuyên bố của giới thứ nhất, tránh việc
tổn hại sự sống của chúng sinh, chúng ta có thể thấy kỷ nghệ sử dụng tài nguyên
trái ngược với nguyên tắc này; trong việc tàn phá rừng mưa nhiệt đới, chúng ta
phá hoại nơi sinh sống của những tạo vật khác và tạo điều kiện cho những điều
kiện của sự xói mòn đất đai, mà điều này đưa đến lụt lội và đói kém, do thế
biến thành khổ đau không kể xiết cho những người khác. Vì thế, đặt nguyên tắc này vào trong thực
hành, chúng ta cũng cần một mức độ tỉnh thức sâu sắc về những hậu quả do những
việc làm của chúng ta – đây là một điều kiện tiên quyết cho bất cứ hành động
thiện xảo chân thành nào.
Thông thường, những
hành động mà chúng ta thực thi trong mối liên hệ với môi trường cũng mâu thuẩn
với giới thứ hai, tránh không lấy những gì không được cho. Điều này có thể xãy ra trong ý nghĩa hoàn
toàn thô sơ hay vi tế hơn nhiều. Trong khi chạy quanh quẩn xuyên qua một cánh
đồng đầy bông hoa, bao nhiêu người trong
chúng ta hái một số bông hoa – hơn là chúng ta cần đến – giống như chúng là của
chúng ta và không có một tư tưởng nào nghĩ đến việc người khác sẽ bị thiếu thốn
những niềm vui trong việc cảm ơn những bông hoa ấy? Nguyên tắc bất bạo động không nên được xem
như có nghĩa rằng con người phải từ bỏ hoàn toàn việc sử dụng của mình đối với
những tài nguyên thiên nhiên vì sợ phải làm tổn hại bất cứ sự sống nào. Nói cho cùng, con người chúng ta cũng là một
bộ phận của thiên nhiên, và cần duy trì một sự quan tâm lành mạnh cho lợi ích
của chính chúng ta và của những thành viên nhân loại. Chúng ta cần sử dụng tài nguyên sẳn có để
giải thoát chúng ta khỏi việc vướng mắc những sự tàn phá thiên nhiên: bảo tố, lủ lụt, và đói kém. Tuy nhiên, với sự tỉnh thức về những hậu quả
của chúng ta, chúng ta có một trách nhiệm lớn lao hơn trong việc sử dụng tài
nguyên trong một cách có thể không tổn hại và lợi ích nhất.
Như mục
sư Phật Giáo Anh quốc, người sáng lập Hội Thân Hữu Phật tử Tây Phương, Sangharakshita
đã từng nói, ‘Việc sử dụng đúng đắn thiên nhiên là một bộ phận của đời sống tâm
linh.’ Điều này môt lần nữa đưa chúng ta
quan tâm đến việc khả dĩ cho chế độ chay tịnh. Ở việc ước lượng sơ sài, phải cần rau cải mười lần hơn để nuôi một người
dùng chay tịnh. Trong một thế giới với sự căng thẳng gia tăng chưa từng có về
việc cung cấp thực phẩm cho việc ăn uống xa xỉ về thịt dường như ngày càng
thiếu đạo đức hơn, ngoài việc liên hệ đến sự tàn sát thú vật.
Nếu chúng ta có thể
bắt đầu thâm nhập sâu xa hơn đến mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên qua
sự thấu hiểu tương tức tương nhập, và sống hòa hiệp hơn với môi trường của
chúng ta qua việc sử dụng nguyên tắc bất bạo động, thế thì một sự tỉnh thức lớn
mạnh hơn về thiên nhiên sẽ bắt đầu để bồi bổ cho việc thực hành tâm linh của
chúng ta. Khả năng của chúng ta để phát
triển như những con người là gắn bó một cách gần gũi với môi trường mà chúng ta
sinh sống; hòa hiệp với môi trường ấy sẽ có một tác dụng tích cực với sự thực
hành tâm linh của chúng ta. Nói cho
cùng, trong thế giới tự nhiên, chúng ta thấy nhiều biểu tượng gợi hứng nhất cho
khả năng phát triển của chúng ta ; bầu trời màu xanh, đại dương bao la, những
ngọn núi cao ngất. Có nhiều tấm gương đơm
hoa kết trái từ việc gợi hứng đến từ kinh nghiệm của con người về sự xinh đẹp
và tráng lệ của thiên nhiên, đặc biệt những nơi hoang vu. Từ những nhà khoa học đến huyền bí học, con
người đã tìm thấy những điều mầu nhiệm và phức tạp của thiên nhiên là cội nguồn
của tuệ giác và tăng thượng. Vì lý do
duy nhất này, điều rất quan trọng là tối thiểu một số những nơi hoang vắng nào
đấy sẽ được tồn tại [1].
Mặc dù thế, chúng ta
phải cẩn trọng về việc quá đa cảm về thiên nhiên; sự tuần hoàn của đời sống trong
thế giới tự nhiên có thể đôi khi rất khắc nghiệt. Sự phát triển kỷ thuật đã giải thoát chúng
ta khỏi điều này một phần nào và một vận động cho việc ‘trở lại với tự nhiên’
chắc chắn sẽ không là một giải pháp cho những vấn nạn của nhân loại. Với hàng khối vấn đề, nhưng mỗi hành động nho
nhỏ của chúng ta là đáng giá. Hy vọng
rằng sẽ đủ để mọi người thức tỉnh đến sự kiện rằng chúng ta đang cần kiếp sự
thay đổi thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên để cho những thế hệ tương lai
có thể tiếp tục thu hưởng sự sống đầy cảm hứng trên trái đất này.
[1]
Có những đỉnh núi ở Nepal cấm người lai vãng để bảo tồn sự linh thiêng của những
nơi ấy.
and the Environment Ẩn Tâm Lộ ngày10 – 03 – 2011 http://fwbo.org/articles/buddhism&environment.html
Discussion about this post