ĐẲNG CẤP TRONG CÁC TÔN GIÁO Ở ẤN ĐỘ
Thích Nguyên Hiệp
Hệ
thống đẳng cấp đã tồn tại ở Ấn hàng nghìn năm trước và vẫn còn tiếp tục ảnh
hưởng sâu sắc vào nhiều mặt đời sống của người dân Ấn hiện nay. Hệ thống đẳng
cấp, như thường được biết, có nguồn gốc từ Bà La Môn giáo, hay nói khác đi là
một sản phẩm của Bà La Môn giáo. Nhưng về sau, hệ thống đẳng cấp đã vượt ra
khỏi Bà La Môn giáo và xâm nhập vào những tôn giáo khác nhau, bao gồm cả những
tôn giáo có nguồn gốc bên ngoài Ấn Độ. Bài viết này tìm hiểu một vài khía cạnh
về hệ thống đẳng cấp trong các tôn giáo ở Ấn Độ.
Bà La Môn giáo và hệ thống đẳng cấp
Đẳng cấp ở Ấn đã trải qua nhiều thay đổi trước khi
trở thành có hệ thống như hiện nay. Về mặt văn bản, đẳng cấp được đề cập đầu
tiên trong Rg-Veda, bản kinh cổ nhất của Bà La Môn giáo. Theo Rg-Veda
thì bốn đẳng cấp đều được sinh ra từ một nguồn, từ trên cùng cơ thể của con
người sơ thủy (Purusa): Bà
La Môn được sinh ra từ miệng; Sát Đế Lợi sinh ra từ tay; Phệ Xá sinh ra từ bắp
vế; và Thủ Đà La sinh ra từ chân (Rg-Veda, 10.90)(1).
Từ khởi đầu, sự phân chia cao thấp giữa các đẳng
cấp được dựa theo vị trí trên cơ thể của con người sơ thủy mà từ đó các đẳng
cấp được sinh ra. Đẳng cấp sinh ra từ miệng, do ở gần đầu nhất, nên được xếp
cao nhất; và ngược lại, đẳng cấp sinh ra từ chân thì được coi là thấp nhất. Như
vậy theo Rg-Veda, cả bốn đẳng cấp đều xuất phát từ một nguồn và có những
liên hệ với thần linh.
Qua đến thời Upanishad, hệ thống đẳng cấp được lặp lại. Nhưng ở thời kỳ
này có sự phân tranh ngôi thứ giữa hai đẳng cấp đầu là Bà La Môn và Sát Đế Lợi.
Một đoạn trong Upanishad, lúc đầu cho rằng Sát Đế Lợi là đẳng cấp cao nhất vì
được sinh ra trước tiên, và tại tế lễ Rajasuya(2) các Bà La Môn phải
ngồi bên dưới các Sát Đế Lợi. Nhưng ngay sau đó Upanihad xác định lại: “Chính Bà La Môn là nguồn gốc của Sát Đế Lợi. Do đó,
cho dù vua có quyền uy tối cao, vị ấy cuối cùng phụ thuộc vào Bà La Môn vì là
nguồn gốc của mình. Vì vậy, bất cứ người nào làm tổn hại Bà La Môn là đang tấn
công chính nguồn gốc của người ấy. Vị ấy chịu sự tổn hại tương xứng khi vị ấy
làm hại người tốt hơn”. (Brihad-Āranyaka Upanishad 1.4.10)(3).
Trong Upanishad, Bà La Môn thậm chí được đồng nhất
với Phạm thiên, và như vậy Bà La Môn cũng được xem là nguồn gốc mà từ đó tất cả
các đẳng cấp khác đã sinh ra. Do đó, các đẳng cấp khác không được xâm phạm Bà
La Môn, vì xâm phạm Bà La Môn là xâm phạm nguồn gốc của mình. Sát hại một Bà La
Môn bị xem là tội lỗi lớn nhất. Các đẳng cấp khác, đặc biệt là Sát Đế Lợi, phải
có nhiệm vụ bảo vệ đẳng cấp Bà La Môn(4).
Trong Upanishad, hai đẳng cấp Bà La Môn và Sát Đế
Lợi được xem là hiện thân của hai vị thần Mitra và Varanu; và hai đẳng cấp này
có những liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Chính việc đồng nhất mình với thần linh,
hai đẳng cấp đầu đã tự “hợp pháp” vị trí của mình và phân định vai trò nắm
quyền điều hành xã hội: Bà La Môn lo công việc tâm linh, Sát Đế Lợi nắm lấy quyền lực thế tục.
Điều này không chỉ ở trong sách vở mà còn được áp
dụng vào trong đời sống thực tế. Ở Ấn Độ cổ đại, một vị vua chỉ được coi là hợp
pháp khi vị này đã trải qua một buổi lễ phong vương có sự cúng tế của các Bà La
Môn. Sau đó, trong quá trình trị vì của mình, nhà vua thường có một Bà La Môn
thân cận, và vị Bà La Môn này sẽ cố vấn cho vua nhiều vấn đề, từ tâm linh cho
đến những chính sách cai trị. Nhưng các Bà La Môn cũng cần đến nhà vua, nương
tựa vào vua để nhận lấy những lợi ích kinh tế. Và khi một Bà La Môn được một vị
vua ủng hộ thì vị này được xem có địa vị cao hơn những Bà La Môn không được vua
ủng hộ; và một vị vua được Bà La Môn ủng hộ thì được xem có quyền lực hơn những
vị vua không được Bà La Môn ủng hộ(5). Điều này có nghĩa rằng, một Bà La Môn làm việc
cho vua thì có vị trí cao hơn các Bà La Môn không làm việc cho vua; và những vị
vua có Bà La Môn cố vấn thì được xem là có quyền lực hơn những vị vua không có
Bà La Môn cố vấn.
Qua đến thời Bhagavadgītā, lúc này Bà La Môn dường như yếu thế hơn so
với Sát Đế Lợi. Vì vậy thánh điển này một lần nữa xác định lại hệ thống đẳng
cấp và phân chia các nhóm người dựa trên các đặc tính (guna). Nếu như sự
phân chia đẳng cấp trong Rg-Veda liên quan đến màu da và vị trí trên cơ
thể của con người sơ thủy, thì sự phân chia đẳng cấp trong Bhagavadgītā được
căn cứ trên đặc tính con người. Bhagavadgītā phân con người vào trong ba đặc
tính chính: sáng suốt (sattva), linh động (rajas) và tối tăm (tamas).
Đặc tính thứ nhất, sáng suốt, được xem là ưu trội ở nơi các Bà La Môn. Đặc tính
thứ hai, linh động, thuộc về hai đẳng cấp Sát Đế Lợi và Phệ Xá. Và đặc tính
cuối cùng dành cho những người nô lệ Thủ Đà La.
Nhưng khái niệm đặc tính (guna) này
lại có liên hệ với học thuyết nghiệp. Theo Bà La Môn giáo, người ta mang những
đặc tính khác nhau, theo đó có công việc và vị trí xã hội khác nhau, bởi do đã
tạo nên những nghiệp nhân khác nhau. Điều này dường như nhằm giảm bớt sự “bất
công” của thần linh trong việc tạo nên con người; và cũng nhằm khuyên bảo con
người hãy an phận với đẳng cấp đã có, thực hiện đúng các bổn phận (dharma)
của mình. Nếu ai muốn thay đổi đẳng cấp thì hãy thay đổi nghiệp, thay đổi
nghiệp bằng cách thực hiện đúng những bổn phận dành cho mình, và như vậy họ sẽ
có một đời sống tốt trong đời sống kế tiếp.
Có lẽ Luật Manu là cuốn sách giảng giải về
hệ thống đẳng cấp chi tiết hơn cả. Mở đầu, nó đã giải thích về nguồn gốc của
các đẳng cấp; và như các thánh điển trước đó, nó cũng cho rằng hệ thống đẳng
cấp là do thần linh định ra. Luật Manu đi xa hơn, còn giải thích về các
nhiệm vụ, bổn phận và công việc của mỗi đẳng cấp; cũng như quy định những loại
thức ăn, áo quần và nơi ở mà mỗi đẳng cấp cần phải theo. Nó cũng đặt ra những
hình phạt dành cho mỗi đẳng cấp nếu có sự vi phạm các luật định.
Theo Luật Manu, công việc và bổn phận của
đẳng cấp Bà La Môn là nghiên cứu và giảng dạy các Veda, thực hiện bố thí và tế
lễ. Bổn phận của đẳng cấp Sát Đế Lợi là bảo vệ dân chúng, ngăn chặn kẻ ác,
trừng phạt kẻ cướp và tham gia chiến đấu. Sát Đế Lợi vẫn có thể thực hiện tế
lễ, nhưng không được thực hiện bổn phận như một tu sĩ, tức không được thực hiện
tế lễ cho người khác; được đọc Veda
nhưng không được giảng dạy. Nhiệm vụ của những người Phệ Xá là tạo ra tài sản,
chăn nuôi và bảo vệ súc vật. Họ cũng được thực hiện tế lễ và đọc tụng Veda,
nhưng không được giảng dạy cho người khác. Bổn phận của đẳng cấp Thủ Đà La là
làm nô lệ cho ba đẳng cấp trước. Họ không được sở hữu tài sản, nếu sở hữu sẽ
phạm trọng tội.
Luật Manu còn đặt ra nhiều hình phạt nghiêm ngặt dành cho mỗi đẳng cấp. Tuy nhiên,
sự thiên vị lại nghiêng về đẳng cấp Bà La Môn; và những hình phạt được đặt ra
cũng chỉ nhằm củng cố quyền lực và đem lại lợi ích cho đẳng cấp này. Điều này
là hiển nhiên, bởi vì Luật Manu thực sự chỉ là một sản phẩm của đẳng cấp
Bà La Môn, và nó được hình thành cũng vì đặc quyền đặc lợi của đẳng cấp này.
Có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc hệ thống
đẳng cấp của Bà La Môn giáo(6). Nếu xem xét những gì
được mô tả trong các thánh điển của tôn giáo này, ta thấy có hai vấn đề: 1.
Đẳng cấp là một vấn đề “siêu hình”, vì nó được cho là do thần linh tạo ra, hay
nói cách khác, nó có nguồn gốc từ thần linh, từ “Con người sơ thủy”. 2. Đẳng cấp được phân chia dựa trên đặc
điểm sinh học, tức dựa trên sắc da và tính cách của từng nhóm người. Dựa trên
sắc da, nhóm người có da trắng là các Bà La Môn; nhóm người có da đỏ là Sát Đế
Lợi; nhóm người có da vàng là Phệ Xá; và nhóm người có da đen thuộc về Thủ Đà
La. Về đặc tính, các Bà La Môn thường được cho có các đặc điểm như thông minh,
chân thật, thanh sạch và những đặc tính tốt khác. Sát Đế Lợi và Phệ Xá thì được
cho có các đặc tính như dũng cảm, kiêu hãnh, hăng hái… Đẳng cấp cuối cùng, Thủ
Đà La, bị gán cho các đặc tính xấu như ngu muội, dơ bẩn và thiếu tính sáng
tạo…
Về phương diện lịch sử xã hội, hệ
thống đẳng cấp được cho là sản phẩm của những người Aryan khi những người này
xâm chiếm Ấn Độ. Trước khi những người Aryan đến, có nhiều tộc người khác nhau
sinh sống tại Ấn, trong đó tộc người Dravidian chiếm đa số. Sau khi chinh phục
Ấn Độ, trong quá trình phân bổ lao động, những người Aryan đã phân chia cộng
đồng của họ thành ba nhóm là Sát Đế Lợi, Bà La Môn và Phệ Xá để đảm trách những
công việc khác nhau. Về sau, những người Aryan đã lập nên một đẳng cấp thứ tư,
đó là Thủ Đà La, những cư dân bản địa được người Aryan chấp nhận, hoặc những
người pha trộn huyết thống giữa Aryan và người bản địa. Ngoài ra, còn có một
đẳng cấp thứ năm là Panchama, những người tiện dân, là những cư dân bản địa mà
người Aryan không thừa nhận(7).
Đẳng cấp trong Kỳ Na giáo (Jainism)
Từ khởi đầu, giống như Phật giáo, Kỳ Na giáo phủ
nhận thẩm quyền của các Veda và cũng phủ nhận luôn hệ thống đẳng cấp của Bà La
Môn giáo mà nó được tin là do thần linh định ra. Kỳ Na giáo cũng tin rằng chính
hành vi, chứ không phải dòng dõi, tạo nên vị trí xã hội của một con người. Tức
rằng người ta trở thành Bà La Môn hay Thủ Đà La không phải từ khi mới sinh ra
mà do những hành vi của họ tạo nên.
Nhưng về sau, Kỳ Na giáo đã chấp nhận hệ thống đẳng
cấp của Bà La Môn giáo và đã áp dụng hệ thống này vào trong tôn giáo của mình.
Tuy nhiên có sự khác nhau trong niềm tin về nguồn gốc của hệ thống đẳng cấp giữa
hai tôn giáo này. Trong khi Bà La Môn quan niệm hệ thống đẳng cấp có nguồn gốc
từ thần linh thì Kỳ Na giáo không chấp nhận điều này. Sự phân chia đẳng cấp
trong Kỳ Na giáo được dựa trên công việc hơn là dòng dõi. Nhưng bởi vì nghề
nghiệp thời trước thường mang tính truyền thừa theo gia đình và dòng tộc, theo
đó đẳng cấp cũng trở thành truyền thừa. Và thực tế là không có, và không thể
có, sự chuyển đổi đẳng cấp ở trong Kỳ Na giáo. Một Bà La Môn thì hẳn nhiên
không muốn đổi thành Thủ Đà La; và họ cũng không dễ gì chấp nhận một người tiện
dân đứng ngang hàng với mình trong cùng một đẳng cấp.
Vào lúc đầu, đẳng cấp Bà La Môn không có mặt trong
Kỳ Na giáo, tức Kỳ Na chỉ có ba đẳng cấp sau. Về sau, đẳng cấp Bà La Môn mới
được thêm vào; có lẽ do khi có những Bà La Môn cải đạo sang tôn giáo này. Ở
miền Nam
Ấn Độ, những người này được gọi là “Bà La Môn Kỳ Na”(8).
Kỳ Na giáo gọi người của ba đẳng cấp đầu là “người
sinh hai lần”, bởi vì những người này có một lần sinh thứ hai về mặt tâm linh
bằng một nghi lễ tôn giáo đặc biệt; và sau khi trải qua lần “sinh thứ hai” này,
người ta sẽ trở nên “thiêng” hơn do đã có những nối kết với thần linh. Điều này
giống với Bà La Môn giáo. Nhưng trong Bà La Môn giáo, một người sau khi trải
qua lần sinh thứ hai này thì không những đã có sự nối kết với thần linh mà còn
chính thức trở thành thành viên của cộng đồng Aryan(9).
Cũng như Bà La Môn giáo, Thủ Đà La là đẳng cấp thấp
nhất trong Kỳ Na giáo và là đẳng cấp chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống xã
hội cũng như tôn giáo. Họ không có “lần sinh thứ hai” vì không có nguồn gốc
Aryan. Về sau, hệ thống đẳng cấp của Kỳ Na giáo được cơ cấu chặt chẽ và nghiêm
ngặt hơn. Mỗi đẳng cấp còn phân chia ra vô số đẳng cấp nhỏ khác, điều cũng
giống với Bà La Môn giáo. Họ đặt ra những luật lệ liên quan đến việc kết hôn,
thức ăn, nơi ở và cả việc thực hiện các nghi thức tôn giáo.
Đẳng cấp trong Do Thái, Kitô và Hồi giáo
Do Thái, Kitô và Hồi giáo ở Ấn đều chấp nhận hệ
thống đẳng cấp, nhưng có những khác biệt về danh xưng. Các cộng đồng của những
tôn giáo này có sự phân chia về vị trí cao thấp, và có những quy định nghiêm
ngặt cho từng đẳng cấp trong cùng một tôn giáo.
Do Thái ở Ấn chia làm ba cộng đồng chính, tương ứng
với ba đẳng cấp: những người Do Thái Baghdadi, Do Thái Bene và Do Thái Cochini. Trong ba cộng đồng này, những người Baghdadi được
xem là có ưu thế hơn cả; còn những người Do Thái Bene bị xem là thấp kém nhất.
Sự phân chia cao thấp giữa các cộng đồng này được giải thích là do chịu ảnh
hưởng hệ thống đẳng cấp của Ấn giáo, nhưng cũng được cho là do những luật lệ
tôn giáo của mỗi cộng đồng. Sự phân chia giữa các cộng đồng Do Thái khá sâu
sắc. Ví dụ, những người Do Thái Baghdadi không được kết hôn với những người Do Thái Bene, không được ăn thức ăn do
những người Do Thái Bene nấu… Điều này không khác với Bà La Môn giáo, quan niệm
rằng việc một đẳng cấp cao kết hôn với đẳng cấp thấp hay ăn thức ăn do đẳng cấp
thấp nấu, sẽ khiến cho đẳng cấp cao bị uế nhiễm.
Kitô giáo cũng không thoát khỏi hệ thống đẳng cấp.
Sự phân chia đẳng cấp trong Kitô giáo được cho là bị ảnh hưởng bởi Ấn giáo.
Trước khi trở thành tín đồ của Kitô giáo, những người Ấn đã có đẳng cấp riêng
của họ; và họ tiếp tục giữ lấy đẳng cấp của mình sau khi cải sang tôn giáo mới.
Ở Goa, những người thuộc đẳng cấp Bà La Môn và
Sát Đế Lợi, khi cải sang Kitô giáo đã trở thành những người Bamonn và Chardo,
là hai đẳng cấp cao trong sự phân tầng của tôn giáo này.
Những người Ấn thuộc đẳng cấp thấp hay tầng lớp
tiện dân, khi cải đạo sang Kitô hay Hồi giáo, với hy vọng rằng sẽ xóa đi vị trí
đẳng cấp thấp hèn của họ, nhưng điều này trong thực tế đã không xảy ra, hoặc
rất ít xảy ra. Những người tiện dân vẫn là tiện dân. Họ vẫn tiếp tục chịu sự
thiệt thòi trong cộng đồng xã hội nói chung, và bị phân biệt đối xử ngay bên
trong cộng đồng tôn giáo của họ nói riêng. Nhiều nơi ở Ấn, những người Kitô
đẳng cấp thấp không được xin lễ cùng một nhà thờ với người có đẳng cấp cao, và
thậm chí không được đi chung đường với những người có đẳng cấp cao. Điều này
xem ra không khác mấy với Bà La Môn giáo mấy ngàn năm trước. Và sự xung đột bạo
lực giữa những người Kitô có đẳng cấp cao và những người Kitô tiện dân không
phải hiếm xảy ra ở Ấn.
Hệ thống đẳng cấp cũng xâm nhập vào
trong Hồi giáo. Những người Ấn khi cải đạo sang Hồi giáo phần lớn đều giữ
nguyên đẳng cấp của mình. Về cơ bản, người Hồi ở Ấn được phân chia thành hai
đẳng cấp chính: những người đẳng cấp cao, được gọi là Sharaf (hoặc Ashraf) Jat,
là những người Hồi giáo đến từ nước ngoài và những người Ấn có đẳng cấp cao cải đạo sang Hồi giáo. Đẳng cấp
thấp, được gọi là Ajlaf Jat, gồm những người Ấn đẳng cấp thấp cải đạo sang Hồi
giáo. Ở một vài khu vực còn có thêm đẳng cấp thứ ba, được gọi là Arza Jat, là
đẳng cấp thấp nhất.
Sự phân biệt đẳng cấp trong Hồi giáo
rất sâu sắc. Giữa các đẳng cấp thường không có những mối liên hệ xã hội với
nhau, cho dù họ cùng một tôn giáo. Việc kết hôn với những người khác đẳng cấp
là tuyệt đối bị ngăn cấm, bị xem như một tội lỗi. Và những người thuộc giai
tầng tiện dân thường bị đối xử vô cùng tồi tệ. Sự phân chia đẳng cấp trong Hồi
giáo ở Ấn, theo B.R. Ambedkar, còn tồi tệ hơn cả trong Ấn giáo.
Vào thời thuộc địa, người Anh đã có
những nỗ lực nhằm hạn chế sự phân biệt đối xử với những người đẳng cấp thấp và
tầng lớp tiện dân. Vào những năm thập niên 30-40 thế kỷ trước, chính quyền Anh
đã ban luật để bảo vệ những người này. Thế nhưng chính những người Anh ở Ấn, họ
cũng từng xem mình là những người thuộc đẳng cấp Bà La Môn. Năm 1947, sau khi
Ấn Độ độc lập, chính phủ Ấn đã ban luật bảo vệ “những đẳng cấp chịu thiệt
thòi”. Nhưng điều này có lẽ chỉ có hiệu lực trên mặt giấy tờ và trong lĩnh vực
chính trị (Quốc hội Ấn có dành “ghế” cho những người Dalit), còn trong xã hội
thực tế, đời sống của những người tiện dân nhìn chung không có thay đổi nhiều.
Nói chung giai cấp thấp và tầng lớp
tiện dân, cho dù thuộc tôn giáo nào và cho dù vào thời nào, đều bị phân biệt
đối xử. Đầu thế kỷ trước, những người thuộc giai cấp thấp ở Nam Ấn “mặc dù có tài sản, lại
không có quyền xây nhà hai tầng, không được mang trang sức bằng vàng, và không
được che dù”(10).
Phật giáo và vấn đề đẳng cấp
Từ ban đầu Phật giáo không chấp nhận hệ thống đẳng
cấp, và cũng không có sự thay đổi quan điểm hay thỏa hiệp với vấn đề này trong
quá trình phát triển về sau. Theo Phật giáo, không có đẳng cấp trong dòng máu
cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Đức Phật cũng không chấp nhận việc phân chia con
người dựa trên các đặc tính, như việc cho rằng các Bà La Môn là thanh tịnh, còn
các Thủ Đà La là ngu tối và dơ bẩn. Theo Phật giáo, đẳng cấp chỉ là một vấn đề
quy ước của con người.
Kinh Phật Tự Thuyết (Udāna) nói rằng: “Ví
như, này các Tỷ kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamunā,
sông Aciracati, sông Sarabhū, sông Mahi, các con sông ấy
khi chảy đến biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành biển lớn. Cũng vậy, này các
Tỷ kheo, có bốn giai cấp này: Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Phệ Xá, Thủ Đà La, sau khi
từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai
tuyên bố sau này, họ từ bỏ tên và họ của họ trước đó, và trở thành những Sa môn
Thích tử”. (Bản dịch của HT.Minh Châu).
Như vậy, một người khi tham gia vào cộng đồng Phật
giáo thì tất cả những gì liên quan đến đẳng cấp đều bị loại trừ. Tất cả đều
bình đẳng trong đời sống tôn giáo, và tất cả đều có khả năng đạt lấy giác ngộ,
bất kể màu da hay nguồn gốc gia đình của họ là gì.
Nhưng bởi vì tính triệt để của Phật giáo trong vấn
đề đẳng cấp đã khiến cho Phật giáo không thể tồn tại lâu dài được ở nơi mảnh
đất đã khai sinh ra chính tôn giáo này. Cố thủ tướng Ấn, J. Nehru đã nói rằng: “Phật
giáo, không thích ứng nó với đẳng cấp, và độc lập hơn trong tư tưởng và quan điểm của mình, cuối cùng
đã biến mất khỏi Ấn Độ, mặc dù nó đã ảnh hưởng sâu sắc vào Ấn Độ và Ấn giáo”(11).
Nhiều người có chung quan điểm với cố thủ tướng J.
Nehru, trong đó có cả những nhà Phật học và những tín đồ Kỳ Na giáo. Người ta
cho rằng việc triệt để chống lại đẳng cấp của Phật giáo là một trong các nguyên
nhân khiến Phật giáo không trụ được lâu dài ở Ấn. Nhưng tại sao việc không chấp
nhận đẳng cấp lại đưa đến sự suy tàn của một tôn giáo? Vấn đề này, nếu có dịp,
chúng tôi sẽ trở lại tìm hiểu trong một bài viết khác. n
(1)Textual Sources for the Studies of Hinduism, Wendy
Doniger O’Flaherty dịch, Manchester:
Manchester University Press, 1988, tr.28. Trong Rg-Veda, hệ thống đẳng
cấp bốn bậc này chỉ được đề cập một lần duy nhất; và đoạn kinh văn này được cho
là được bổ sung về sau.
(2) Đây là tế lễ do những vị vua Ấn Độ thời cổ đại
thực hiện, thường sau khi giành thắng lợi từ một cuộc chiến. Buổi lễ này tương
tự một buổi lễ phong vương, qua đó vị vua tổ chức tế lễ này khẳng định vị trí
đế vương của mình với dân chúng và với các vị vua lân bang. Sau buổi lễ, vị vua
này trở nên “hợp pháp” hơn, bởi được xem đã có sự hộ trì của thần linh.
(3)The Thirteen Principal Upanishads, R. E.
Hume dịch, Oxford:
Oxford University Press, 1921, tr.38.
(4) A. B. Keith, The Religion and Philosophy of
Veda and Upanishads, London:
Oxford University Press, 1925, tr.585.
(5) V. Kane, History of Dharmaśāstra, Vol. II, Pune: Bhandarkar
Oriental Research Institute, 1941, tr.40.
(6) Ví dụ như thuyết Chủng tộc của Risley, và Thuyết
Nghề nghiệp của Nesfield.
(7) Xem S. Radhakrishnan, Indian Philosophy, Vol.
I, Oxford University Press, 2008, các tr.111-113.
(8) Vilas A. Sangave, Jaina Community: A Social
Survey, Bombay: Popular Prakashan Private, 1980, tr.100.
(9) A.L. Basham, The Wonder That Was India: A Survey of the Culture of the
Indian Subcontinent Before the Coming of the Muslims, London: Sidgwick and Jackson, 1954, tr.138.
(10) Jagjit
Singh, Perspectives on Sikh Studies (the research on caste and caste system), Delhi: Guru Nanak
Foundation, 1985, tr.15.
(11)
Jawaharlal Nehru, The Discovery of India, New
Delhi: Penguin Books, 2004, tr.122.
Nguồn: Nguyệt san
Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS
Discussion about this post