BỐN ĐỘNG TÂM
Tâm Diệu
Lời
Ban Biên Tập: Một
cư sĩ học giả viết trong một quyển sách đã xuất bản, trong đó có lập lại một
lời nói của đức Phật không được đúng như trong kinh đã ghi, điều này có thể tạo
cho Phật tử hiểu lệch lạc về đạo Phật dẫn tới một đạo Phật mê tín. Họ nói Đức Phật nói rằng: “… Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi Thánh
địa này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lành
và nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùng tại một trong
những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh
nhàn..” Bài viết dưới đây làm sáng tỏ vấn đề:
Sau
khi nhận bữa cơm cúng dường cuối cùng của cư sĩ Thuần
Đà, đức Phật bị nhiễm bệnh nặng và nói với tôn giả
A Nan đi đến thành Câu Thi Na (Kushinagar). Trên đường đi,
mặc dầu sức khỏe Ngài yếu, nhưng đức Phật vẫn tiếp
tục nói Pháp khi có người đến hỏi.
Đến
rừng Sa La, Ngài nằm nghỉ trên chiếc võng giữa hai cây sa
la song thọ và như một một điềm báo đặc biệt, cây sa
la song thọ trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa
hoa này rơi lên, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường,
rồi chư Thiên thần khắp mười phương thế giới tụ hội
về để chiêm ngưỡng Như Lai lần cuối. Ngài nói với A Nan
tối hôm nay vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt nơi
rừng Sa La này.
Lo
ngại sau khi Phật nhập diệt sẽ không còn cơ hội gặp gỡ
và học hỏi nơi các vị trưởng lão Tỳ kheo, khi các vị
ấy đến bái yết Phật, nên A Nan thỉnh cầu đức Thế Tôn
giải tỏa nỗi niềm này.
Phật
dạy:
“-
Này A Nan, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm
ngưỡng và tôn kính. Bốn Thánh tích đó là: Nơi Như Lai đản
sanh, Nơi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
nơi Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng, và nơi Như Lai diệt
độ, nhập Vô dư y Niết Bàn.”Phật
nói tiếp:
“-
Này A Nan, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần
phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này A Nan, các thiện tín Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm
suy tư: “Đây là chỗ Như Lai đản sanh”, “Đây là chỗ Như
Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, “Đây là
chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng”, “Đây là chỗ Như
Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn.”
“-
Này A Nan, và những ai, trong khi đi chiêm bái những Thánh tích
mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy,
sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi thiện thú, cảnh giới
chư Thiên.”[1]
Đó
là lời dạy trong những giây phút cuối cùng của đức Phật,
Ngài khuyên chúng ta nên đến chiêm ngưỡng bốn Thánh tích
với lòng tôn kính và với “tâm thâm tín hoan hỷ“.
Nếu được như vậy, khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay
cõi trời.
Muốn
được như thế, người hành hương, không chỉ đến đó tham
quan cảnh trí di tích mà còn phải mang theo hai yếu tố tâm
quan trọng là: tâm thâm tín, và
tâm hoan hỷ.
Chắc
chắn khi đến bốn nơi này ai ai cũng có tâm vui sướng, hoan
hỷ. Còn việc tâm thâm tín, chắc không phải chỉ là tâm
thâm tín, khi đứng trước bốn Thánh tích đó, mà phải luôn
luôn canh cánh mang theo bên mình, cho đến khi thân hoại mạng
chung.
Thâm
tín cái gì? Đó là tin sâu, tin bền và tin chắc về
ba ngôi quý báu
Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, vì ba ngôi
quý báu này có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi
tà kiến, phiền não, khổ đau và ra khỏi sinh tử luân hồi.
Phật
là Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật
là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là
một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho
mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Pháp
là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng
chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận
của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ
thêm những lời Phật dạy, những lời dạy mà, nếu chúng
ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ,
đến bến bờ giải thoát.
Tăng
là một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người,
bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật
đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho
tất cả chúng sinh, là những người thay Phật dẫn dắt chúng
sinh trên đường đạo.
Khi
đứng trước các Thánh tích, chúng ta có niềm tin chắc chắn
về Phật, Pháp, Tăng và
giữ vững niềm tin này không
đổi cho đến khi mệnh chung, thì chắc chắn chúng ta sẽ
được sanh trong cảnh giới Trời người.
Được
biết bốn Thánh tích đó là Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi
Phật đản sanh, hiện nay thuộc Vương quốc Nepal, nằm gần
ranh giới với phía Bắc Ấn Độ. Thánh tích thứ nhì là Bồ
Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya), nơi Phật thành đạo, nằm ở
phía Bắc Aán Độ. Thánh tích thứ ba là Vườn Lộc Uyển
(Sarnath), nơi Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cách thành
phố Ba La Nại (Varanasi) khoảng 7 dặm thuộc miền Trung Bắc
Aán Độ. Thánh tích thứ tư là Câu Thi Na (Kushinagar),
nơi Phật nhập Niết Bàn, cách thành phố Gorakhpur 52 km thuộc
miền Đông Bắc Aán Độ.
Bốn
Thánh tích đó còn được gọi là bốn động tâm, bởi
vì nếu như chúng ta đến được bốn nơi Thánh tích này thì
do tận mắt thấy được các di tích lịch sử đức Phật,
thấy được di tích nơi Ngài hiện thân, nơi Ngài thành đạo,
nơi Ngài chuyển pháp luân, nơi Ngài Niết Bàn và nơi những
dấu chân Ngài đã đi qua, nên lòng tin phát khởi và tăng
trưởng, tức rung động tâm thức. Nhờ lòng tin tăng trưởng
nên có thái độ quyết chí tu hành, hạ thủ công phu, quyết
không làm điều ác, làm tất cả việc lành và nhiếp tâm
thanh tịnh và do tiến trình nhân quả, quả báo tươi tốt
đơm hoa kết trái, chắc chắn khi mệnh chung sẽ sanh cõi người
hay cõi Trời, hưởng phước báu lâu dài.
Điều
quan trọng là phải động tâm, tức lòng tin phát khởi
nếu chưa có lòng tin, và tăng trưởng lòng tin nếu đã có
lòng tin, còn nếu đến mà tâm thức không mảy may rung động,
và không nỗ lực tu hành sau đó, thì cũng giống như những
người dân Ấn Độ hay Nepal thấy bốn Thánh tích này hàng
ngày, thử hỏi họ có hưởng phước báu không, có sanh cõi
trời khi lâm chung không hay những người có nhiều tiền của,
có phước báu đi Ấn Độ nhiều lần, đến nơi có thể có
động tâm nhưng rồi khi trở về theo thời gian lòng tin nguội
dần, không nỗ lực tu tập, không quyết chí tu hành, thì theo
tiến trình nhân quả sẽ ra sao? kiếp sau có được hưởng
nhiều hay bị bớt phước báu không?
Còn
như những ai đã đã tin sâu xa, tin chắc chắn và tin bền
bỉ vào Tam Bảo, vào chân tâm Phật tánh, và vào nhân quả
luân hồi, thì nếu có điều kiện đi chiêm ngưỡng bốn Thánh
tích này thì càng tốt, hãy nên đi, tuy nhiên đi để biết,
để thấy, để tưởng nhớ Phật, để tri ân Ngài hơn là
mang ý nghĩa cầu phước báu. Còn nếu nói rằng nếu đến
tứ động tâm để nhờ Phật ban phước thì không đúng với
nhân quả. Vấn đề là tăng tín tâm rồi đắc lực tu hành.
Trong những lời dạy của Ngài, không có lời nào Ngài nói
là đến đó để cầu phước báu.
Tâm
Diệu
Cước
Chú:
Trong
ba bản dịch, chúng tôi chọn bản dịch Kinh Đại Bát Niết
Bàn trong Kinh Trường Bộ Tập 1, hệ Pali do Hòa Thượng Minh
Châu dịch làm tài liệu chủ yếu, vì chỉ có bản này mới
có nhóm từ “tâm thâm tín hoan hỉ” nơi đoạn cuối của
đoạn thứ 8 mục thứ V (trang 644). Hai bản dịch kia từ Hán
tạng, không có nhóm từ này mà thay thế bằng nhóm từ “kính
lễ, xây dựng chùa tháp” (Kinh Trường A Hàm, Viện Cao Đẳng
Phật Học Huệ Nghiêm dịch, trang 204 ), “kinh hành kính
lễ, dựng chùa tháp cúng dường” (Kinh Trường A Hàm,
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, trang 110).
Tham
Chiếu:
[1]-Kinh
Trường Bộ, Tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali), Việt
dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học
Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 643-644.
[2]-Kinh
Trường A Hàm, Tập 1, Kinh Du Hành, (Hệ Sanscrit), Việt dịch:Viện
Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên Cứu Phật Học
Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 203-204.
[3]-Kinh
Trường A Hàm, Quyển 4, kinh Du Hành, Việt dịch: HT. Thích Thiện
Siêu, Phật Học Viện quốc Tế xuất bản 1986, trang 110-111.
[4]
Ấn bản Anh ngữ tại
http://world.std.com/~metta/canon/digha/dn16.html
(Part Five, “Four Places of Pilgrimage”)
Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật giác ngộ. (Bodhgaya)
Lâm Tì Ni, nơi Đức Phật đản sinh. (Lumbini)
Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng pháp lần đầu. (Sarnath – TP. Varanasi) (Ảnh: Bình Anson)
Bên trong đền là tượng Phật nhập diệt, nằm nghiêng bên phải, đầu về hướng bắc.
Tượng được đặt trên một bệ đá, mặt trước có khắc chữ đánh dấu
vào thế kỉ thứ năm sau công nguyên.
Tượng vốn bằng đồng, nhưng người hành hương lần lượt thếp vàng lên trên
Câu Thi Na, nơi Đức Phật niết bàn. (Kushinagar) (Ành: Bình Anson)
· Lumbini (Lâm-tì-ni) – Nơi đản sinh
· Bodh Gaya (Bồ-đề Đạo tràng) – Nơi thành đạo
· Sarnath (Lộc uyển) – Nơi chuyển pháp luân
· Kusinara (Câu-thi-na) – Nơi bát-niết-bàn
· Kapilavatthu (Ca-tì-la-vệ) – Quê hương của Ngài
· Sankassa – Nơi Ngài từ cung trời Đa-lợi trở về dạy A-tỳ-đàm cho ngài Xá-lợi-phất
· Rajgir/Rajagaha (Vương xá) – Kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha)
· Gijjakuta (Linh thứu) – Nơi Ngài thường giảng đạo trong những năm đầu tiên.
· Veluvana (Trúc lâm) – Tinh xá do vua Bình-sa (Bimbisara) dâng cúng.
· Kosambi (Câu-diệm-bi) – Nơi Ngài giảng pháp lục hòa kính.
· Savathi (Xá-vệ) – Tinh xá Kỳ Viên, nơi Ngài ngự trong 20 năm cuối.
· Vesali (Vệ-xá-ly) – Kinh đô của bộ tộc Licchavi. Nơi thành lập Ni đoàn, do bà Kiều-đàm-di lãnh đạo.
· Varanasi (Ba-na-lại) – Kinh đô của bộ tộc Kasị Thành phố lớn bên bờ sông Hặng
· Mathura – Trung tâm văn hóa điêu khắc.
· Indapatta – Kinh đô của bộ tộc Kuru, nơi Ngài giảng kinh Niệm xứ.
Discussion about this post