Bài thơ
XUÂN VÃN
của Điều
Ngự Giác Hoàng – Trần Nhân Tông
Thích
Thông Huệ
Vua
Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần.
Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền
cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ, biết rõ đường lối tu hành theo
tông chỉ “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha
đắc” (Xoay lại soi sáng chính mình là phận sự gốc, không
cầu bên ngoài mà được). Khi lên ngôi, dù bộn bề trăm việc
đối nội và đối ngoại, Ngài vẫn có chỗ sống riêng của
mình, tuy ở trong trần mà vẫn vui với Đạo. Năm 41 tuổi,
Ngài nhường ngôi cho con, sau đó xuất gia về núi Yên Tử,
lấy hiệu Hương Vân Đại đầu đà, được tôn xưng là Điều
Ngự Giác Hoàng. Ngài sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử
mang đậm bản sắc dân tộc, trở thành vị Sơ Tổ của dòng
Thiền đặc thù Việt Nam . Bài thơ “Xuân vãn” là một trong
những bài mượn cảnh mùa xuân, diễn đạt một cách sâu
sắc trình độ tâm linh vút cao của Ngài:
XUÂN
VÃN
Niên
thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất
xuân tâm sự bách hoa trung.
Như
kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền
bản, bồ đoàn khán trụy hồng.
Hòa
thượng Trúc Lâm dịch:
CUỐI
XUÂN
Thuở
bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân
về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa
Xuân nay bị ta khám phá,
Thiền
bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng.
Bài
thơ tứ tuyệt ngắn ngủi nhưng bao hàm cả hai giai đoạn đời
Ngài: lúc còn bé chưa biết đường tu và khi đã là vị Thiền
Sư đạt đạo.
“Thuở
bé chưa từng rõ sắc không / Xuân về hoa nở rộn trong lòng”:
Thuở bé là lúc còn non tuổi đời, cũng là khi còn ấu thơ
về đạo lý. Nhân một ngày xuân đi dạo trong vườn thượng
uyển, Thái Tử thấy trăm hoa đua nở tỏa hương ngào ngạt.
Chưa thấu hiểu lý Bát Nhã, chưa rõ thể tánh không của các
pháp, Thái Tử ngỡ thân tâm cảnh đều thật có. Ý thức
chấp ngã chấp pháp mạnh mẽ, nhất là trong điều kiện thuận
lợi về vật chất, Ngài làm sao tránh khỏi rộn ràng xao xuyến
khi thấy cảnh xuân về? Và đây hầu như là tâm trạng chung
của con người, nhất là những ai có tâm hồn nghệ sĩ. Nhà
thơ Đinh Hùng nhìn xuân sang mà nhớ hương người xưa:
Xuân
nào như xuân mới?
Hương
nào như hương xưa?
Lòng
chàng không có tuổi
Duyên
chàng se tình cờ.
hay
J. Leiba nói thay cô gái tuổi trăng tròn:
Em
nhớ năm em lên mười lăm,
Cũng
ngày đông cuối sắp sang xuân.
Mừng
xuân, em thấy tim hồi hộp,
Nhìn
cái xuân sang khác mọi lần.
Tập
khí của chúng ta là dính mắc với trần cảnh, loạn động
theo các duyên bên ngoài. Từ đó tạo nghiệp, quẩn quanh trong
sáu nẻo luân hồi. Đức Phật dạy, chính sáu căn là đầu
mối của phiền não sinnh tử, do tiếp xúc với sáu trần mà
khởi tâm phân biệt. Nhưng sáu căn cũng là nguồn gốc của
Niết bàn, khi thấy nghe hay biết tất cả các pháp mà vẫn
an nhiên tự tại. Thời điểm chợt nhận ra tánh giác thường
hằng của chính mình là khoảnh khắc diệu thường, ngàn năm
không dễ có. Những bậc đạt đạo dùng rất nhiều mỹ từ
tạm đặt tên cho tánh giác sẵn đủ ấy, vì thật sự nó
không có tên, cũng không thể dùng ngôn từ diễn tả. Ở đây,
Sơ Tổ Điều Ngự gọi là Chúa Xuân. “Chúa Xuân nay bị ta
khám phá”. Thật ra, Chúa Xuân không lẫn tránh, không giấu
mặt, cũng không phải ở đâu xa. Chỉ vì vọng thức che lấp
nên không nhận ra tánh giác lúc nào cũng sáng ngời.
Mai
Hoa Ni đời Tống viết bài thơ Ngộ đạo như sau:
Tìm
Xuân, chẳng thấy bóng xuân sang,
Giày
rơm giẫm nát đỉnh mây ngàn.
Trở
về chợt ngửi hương mai ngát,
Xuân
ở đầu cành đã chứa chan.
(Đỗ
Tùng Bách dịch)
Một
đời lặn lội, mòn mỏi những bước chân giẫm nát cỏ cây
trên đỉnh núi mây phủ, thế mà vẫn chưa tìm thấy mùa xuân.
Chính vì ý tưởng “tìm xuân” nên xuân không thể hiện.
Chúa Xuân không ở bên ngoài, không phải là đối tượng của
sự tìm cầu, mà chính là mình – con người bất sanh bất diệt
xưa nay. Sực tỉnh xoay trở về chính mình, ta mới nhận ra,
quả thật xuân đang trùm khắp vạn hữu, mai đang tỏa ngát
mùi hương.!
Sơ
Tổ của chúng ta không những đã trở về, đã khám phá Chúa
Xuân, Ngài còn trọn vẹn sống cùng mùa Xuân miên viễn:
“Thiền
bản, bồ đoàn, ngắm cánh hồng”.
Thiền
bản là chiếc chõng hay giường nhỏ, bồ đoàn là chiếc gối
tròn để ngồi. Đây là hai dụng cụ sử dụng khi tọa thiền.
Giường hay chõng thiền còn ám chỉ chân tánh hay bản tâm
của mỗi người. Ngồi trên giường Thiền nghĩa là hằng
sống cùng bản tâm sẵn đủ. Bản tâm thường tịch nhưng
thường tri, luôn lặng lẽ mà luôn chiếu sáng. Định của
bản tâm không trụ không xả, không nhập không xuất nên là
thường định, đại định. Tinh thần Bồ tát Đại thừa
không bỏ huyễn cầu chơn, không bỏ mê về ngộ, không bỏ
trần gian thủ chứng Niết bàn. Trong các cảnh vô thường
sinh diệt, các bậc đạt đạo nhận ra và sống bằng thể
tánh chân thường bất sinh, nên có cái nhìn thẩm thấu vào
bản chất của các pháp. Do vậy, các Ngài tự tại anh nhiên
trước sự biến đổi của vũ trụ vạn hữu, nên nói “ngồi
trên giường Thiền ngắm từng cánh hoa rụng trong một chiều
xuân vãn”.
Cùng
một cảnh xuân nhưng lúc mê thì tâm loạn động, dính mắc
theo cảnh, khi ngộ thì an nhiên nhìn mọi sự đổi dời. Xuân
đời đến rồi đi, hoa theo xuân nở rồi tàn, nhưng Chúa Xuân
mãi hiện hữu, siêu vượt thời – không. Mùa Xuân miên viễn
ấy không ở đâu xa, không từ bên ngoài đến, mà ở ngay
đương xứ – tại đây và bây giờ. Cầu chúc tất cả chúng
ta, nhân mùa xuân đến, nhận ra Chúa – Xuân – tự – tâm của
chính mình, đồng thời chan rải hương xuân đến khắp mọi
người.
Mùa
Xuân Kỷ Sửu – 2009
Thiền
thất Viên Giác
Người
gửi bài: Anh Huy
Discussion about this post