DO BAN BIÊN TẬP THƯ VIỆN HOA SEN PHỤ TRÁCH
NỘI
DUNG BÀI PHÁT THANH SỐ 14
PHẬT ĐẢN SANH: BỐN CHÂN LÝ MẦU NHIỆM
(Nghe
audio bấm vào hàng chữ này)
Thưa quý thính giả,
Vào
ngày rằm tháng Tư cách nay 2549 năm, thái tử Siddharta ra đời
tại vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca-ty-la-vệ gần biên thùy giữa
Ấn Độ và Népal, cha là quốc vương Tịnh Phạn và mẹ là
hoàng hậu Ma Da. Thái tử ra đời được bảy ngày thì hoàng
hậu Ma Da tạ thế, em bà là di mẫu Kiều Đàm, nuôi nấng
thái tử trong tình thương yêu rất mực.
Dù
sống trong cung vàng điện ngọc, từ vật chất tới tinh thần
đều được chăm lo chu đáo, nhưng ngài sớm nhận thức được
rằng vạn vật là vô thường, không có cái gì vĩnh viễn
tồn tại, mọi người sinh ra đều phải trải qua những chặng
đường từ già đến bệnh rồi chết, đôi khi cái chết lại
đến bất chợt, không ai ngờ, ngay trong lúc tuổi còn thanh
xuân.
Ngoài
ra, mỗi kiếp người, dù giầu, nghèo, sang, hèn, đều luôn
luôn có những chuyện đau khổ, bất toại nguyện. Niềm
vui của con người rất là bấp bênh, chợt tới nhưng cũng
có thể lại mất ngay đó. Không có gì là chắn chắn về
hạnh phúc lâu dài trong cuộc đời.
Tuy
tuổi còn trẻ, Ngài đã sớm mang những nỗi băn khoăn, suy
tư, khắc khoải về thân phận con người. Và rồi một đêm
kia, Ngài quyết định rũ bỏ mọi ràng buộc tục lụy, vượt
kinh thành, xuất gia tìm con đường giải thoát cho chúng sanh
khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Khi
ấy, ngài vừa hai mươi chín tuổi.
Sau
sáu năm khổ hạnh và bốn mươi chín ngày tịnh tọa dưới
gốc cây bồ đề, Ngài bừng tỉnh, trở thành bậc Giác Ngộ,
tiếng Ấn Độ là Buddha, người Trung Hoa phiên âm chữ Buddha
thành ra Phật Đà, nghĩa là Người Giác Ngộ (Giác Giả).
Từ
sự giác ngộ này, Ngài thấu suốt nguyên nhân mọi nỗi thống
khổ của kiếp người và phương pháp để chấm dứt mọi
khổ não, đó là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý mầu nhiệm,
bốn chân lý đưa con người lên bờ an lạc, giải thoát.
Bản
thân Ngài đã tự tu, tự chấm dứt được Nghiệp lực lôi
cuốn dòng đời chìm nổi trong biển sinh tử. Từ kinh nghiệm
đó, Ngài lặn lội trên bốn chục năm trường để truyền
lại cho chúng sinh những kinh nghiệm Ngài đã trải qua, giương
cao Ánh Đạo Vàng của Trí Tuệ, mở con đường giác ngộ
giải thoát cho chúng sinh. Với tấm lòng từ bi và bình đẳng
tuyệt đối, Ngài tuyên bố: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh
là Phật sẽ thành.” Từ ngữ chúng sinh ở đây không
phải chỉ dành riêng cho loài người, mà gồm tất cả các
loài sinh vật, cũng có tình cảm và Giác Tánh, như người.
Vào
những ngày cuối cùng của cuộc đời, sau những năm dài tận
tụy giáo hóa chúng sinh, Ngài trở về Kusinàra và tịch diệt
tại đây. Thân Ngài nằm giữa hai cây Long Thọ, hôm ấy cũng
nhằm ngày Rằm tháng Tư.
Ngày
nay, cứ mỗi Rằm tháng Tư âm lịch, Phật tử Việt Nam cũng
như Phật tử khắp năm châu đều hướng tâm về đức Phật. Đời Ngài đã thuộc về quá khứ nhưng giáo pháp giải thoát
của Ngài vẫn tồn tại và hữu ích cho chúng ta. Chúng
ta chào mừng ngày đản sanh của đức Phật cũng có nghĩa
là chúng ta chào mừng ngày đản sanh ra giáo pháp giải thoát
của Ngài. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau lắng tâm nghe
lại bài pháp đầu tiên mà ngài đã thuyết giảng sau khi Ngài
thành đạo, bài giảng về bốn chân lý mầu nhiệm, đó là:
1.
Chân
lý về Khổ:
Đây
là chân lý về các vấn đề của đời sống, qua sinh, già,
bệnh, chết, cầu mong mà không toại nguyện, thương yêu nhau
mà phải chia lìa, ghét nhau mà cứ phải gặp và thân tâm thay
đổi bất thường.
2.
Chân
lý về Nguồn gốc của Khổ:
Từ
ánh sáng của tuệ giác, Đức Phật giải thích nguyên nhân
của Khổ qua quy luật Nhân Quả và Nghiệp Báo. Khởi từ vô
minh, tham ái sinh ra sân hận và si mê, con người tạo Nghiệp,
trả Quả, nỗi thống khổ ngày càng sâu dầy.
3.
Chân
lý về sự Diệt Khổ:
Chân
lý này là lời dạy của Đức Phật về sự cần thiết phải
chấm dứt nguyên nhân tạo ra nỗi khổ để thoát Khổ.
4.
Chân lý về Con đường đưa đến diệt Khổ: Đây là lời
Đức Phật dạy về cách thức tu tập, về phương pháp để
Phật tử nương theo mà hành trì, ngõ hầu kết thúc được
mọi nỗi thống khổ, đạt được trạng thái tâm an lạc.
Phương pháp đó là Bát Chánh Đạo, còn gọi là Tam Học, tức
là ba môn học chung cho mọi người tu Phật, học Phật như
sau:
Giới
học gồm có:
–
Chánh ngữ,
–
Chánh nghiệp,
–
Chánh mạng
Định
học, gồm có:
–
Chánh tinh tấn,
–
Chánh niệm,
–
Chánh định
Tuệ
học, gồm có:
–
Chánh kiến,
–
Chánh tư duy
Nói
cho gọn thì con đường tu tập để chấm dứt mọi khổ đau
gồm:
–
Không
làm điều ác,
–
Siêng làm điều lành, thiện
và
–
Thanh lọc tâm ý.
Hơn
2500 năm đã trôi qua, mọi vật biến đổi vô thường, nhưng
giáo pháp giải thoát của Ngài vẫn còn tồn tại đến ngày
nay. Thông điệp về bốn chân lý cao quý của Ngài vẫn
còn thích hợp với xã hội hiện đại cũng như nhiều thế
kỷ trước đây. Chúng ta hãy nghe lời phát biểu của
Bác sĩ Carl C. Jung, nhà tâm lý học người Thuỵ Sĩ, vị sáng
lập trường chuyên ngành tâm lý học như sau:
– “Là
một người nghiên cứu về tôn giáo tỷ giáo, tôi tin tưởng
đạo Phật là đạo hoàn toàn nhất mà thế giới đã có.
Không phải lịch sử tôn giáo cũng không phải là sự nghiên
cứu triết học mà chính nghề nghiệp chuyên môn của tôi
— như là một bác sĩ — đã đưa tôi lần đầu tiên đến
thế giới tư tưởng Phật giáo. Công việc của tôi là chữa
trị những khổ đau về mặt tâm thần và chính điều này
đã đưa đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp
của Bậc thầy vĩ đại của nhân loại, mà đề tài chính
yếu là sự khổ đau triền miên, già, bệnh và chết.”
Trong
cuốn “Phật giáo”, tiến sĩ Edward Conze viết:
–
Đức Phật như là một bậc lương y. Cũng như bác sĩ phải
biết chẩn đoán nhiều căn bệnh khác nhau, nguyên nhân của
bệnh, thuốc giải độc và phương pháp chữa trị, và có
thể áp dụng thuốc thích hợp. Đức Phật cũng vậy, Ngài
dạy cho chúng ta Bốn Chân Lý kỳ diệu (Tứ Diệu Đế) chỉ
ra sự hiện hữu của khổ đau, nguyên nhân của khổ, sự
đoạn diệt khổ và con đường đưa đến sự diệt tận của
khổ đau.
Và
các ý kiến của nhiều người khác, thí dụ Tiến Sĩ Ambedkar:
– Phật
giáo hoạt động dân chủ, Phật giáo gìn giữ dân chủ trong
tôn giáo, dân chủ trong xã hội và dân chủ trong chính trị.
Bác
sĩ Albert Schweizer :
– Trên
quả địa cầu này, Ngài đem ý nghĩa những chân lý giá trị
trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ
cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Đức Phật là một
nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn
vũ.
– Giám
mục Milman:
Càng
ngày tôi càng cảm thấy gần gũi với đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, nhất là về đặc tính và thực nghiệm của Ngài.
Ngài là con đường, là chân lý, và là lẽ sống.
Tổng
thống Ấn Độ Nehru:
– “Nếu
một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải
được giải quyết trong hài hòa và dân chủ theo đường lối
dạy bảo của đức Phật.
Trong
một thế giới dông tố và xung đột, hận thù và bạo lực,
thông điệp của đức Phật sáng chói như vầng thái dương
rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông điệp của Ngài lại
thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên
tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đã càng tăng
thêm sinh khí vào thông điệp bất diệt này. Chúng ta hãy cố
gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong
ánh sáng giáo lý của Ngài. Có thể chúng ta phải bình thản
đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời
đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích
nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp).”
Abdul
Atahiya, một thi nhân Hồi giáo nhận xét:
“Nếu
bạn muốn thấy một người cao quí nhất trong loài người,
bạn hãy nhìn vị Hoàng tử trong y phục một người ăn xin;
chính là Đức Phật đó, hình ảnh siêu phàm đầy thánh tính
của Ngài thật vĩ đại giữa con người.”
Con
đường diệt trừ tham ái để chấm dứt đau khổ chính là
con đường với tám yếu tố chân chánh hay còn gọi tám bước
nhiệm mầu dẫn đến an lạc hạnh phúc. Chúng ta hãy
nghe học giả Christmas Humphreys, một vị thẩm phán nổi tiếng
người Anh, nói về chân lý cao quý thứ tư này:
“Con
đường của Phật giáo là con đường trung đạo giữa hai
cực đoan. Đây không phải là một sự thỏa hiệp yếu đuối,
nhưng là một sự vừa phải hợp lý, tránh sự cuồng tín
và sự lười biếng giải đãi, tuần tự tiến lên với quyết
tâm, không có sự chần chừ để nẩy ra phản ứng riêng,
mà luôn tiến không ngừng bước. Đức Phật gọi nó là Con
Đường Tám Điều Chân Chánh (Bát Chánh Đạo) đưa đến Niết-bàn,
và con đường này có thể được xem như là một cuộc hành
trình tu tập tâm linh thánh thiện cao quý nhất, song được
biểu hiện ở một hình thức giản đơn.
Phật
giáo cũng không bi quan hay yếm thế. Phật giáo là một hệ
thống tư duy, một tôn giáo, một khoa học tâm linh, và một
triết lý sống hợp lý, thiết thực và bao hàm tất cả. Đạo
Phật mời gọi những ai đi tìm chân lý bởi vì Phật giáo
là một tôn giáo không có giáo điều, làm thoả mãn nhu cầu
của lý trí cũng như con tim, nhấn mạnh tinh thần tự tin,
tự lập, đi kèm với sự khoan dung đối với quan điểm của
những người khác, bao hàm cả khoa học, tôn giáo, triết học,
tâm lý học, huyền thoại, đạo đức luân lý và nghệ thuật.
Đạo Phật còn chỉ ra rằng chính con người là đấng sáng
tạo của kiếp sống hiện tại của mình và là người thiết
kế độc nhất toàn bộ sinh mệnh của hắn ta.”
Thời
gian trôi qua, với thông điệp đầu tiên của đức Phật về
bốn chân lý nhiệm mầu rất thực dụng đối với con người
và xã hội dù ở bất cứ nơi đâu và thời nào. Đức Phật
đã chứng nghiệm và chỉ lại cho chúng ta con đường dẫn
đến sự giải thoát, mọi người được hoàn toàn tự do
quyết định nếu muốn đi theo con đường đó. Chúng
ta hãy nghe lời phát biểu của giáo sư Laksami Narasu trong quyển
Essence of Buddhism của ông.
“Nói
về Phật giáo, người ta có thể khẳng định đó là một
tôn giáo không có sự cuồng tín. Mục đích của Phật giáo
là nhằm tạo ra một sự chuyển hóa từ nội tâm của mỗi
cá nhân bằng cách tự chinh phục và chiến thắng mình, vượt
qua những sức mạnh của tiền bạc vật chất. Đức
Phật chỉ làm một việc là chỉ ra con đường duy nhất đưa
đến sự tự giải thoát, và con đường đó được để lại
cho mỗi cá nhân để tự chính mình quyết định, nếu muốn
đi theo.”
Ban
Biên Tập
(www.
Thuvienhoasen.org)
Discussion about this post