YẾU
NGHĨA KINH VÔ LƯỢNG NGHĨA
VÀ NHẬP VÔ LƯỢNG NGHĨA XỨ TAM
MUỘI
(Bài giảng tại
trường hạ chùa Phổ Quang, Q.Tân Bình, 8-2008)
HT. Thích Trí
Quảng
Kinh Pháp Hoa được gọi là Viên giáo, vì bao hàm
được tất cả các kinh điển mà Đức Phật đã thuyết trong suốt cuộc đời Ngài. Các
pháp Phật dạy đều là phương tiện để giúp chúng ta thâm nhập thế giới Phật, được
kinh Pháp Hoa ví như thuyền bè đưa người từ niềm an lạc này đến niềm an lạc
khác, để sau cùng tất cả hành giả đều chứng Nhứt thiết chủng trí. Vì vậy, nếu
không thực hành giáo pháp, chắc chắn đời đời kiếp kiếp ở trong Nhà lửa tam
giới.
Ngoài ra, một ý
khác trong kinh Pháp Hoa mà chúng ta cần lưu tâm. Trước khi Phật nói kinh Pháp
Hoa, Ngài nói kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập Vô lượng nghĩa xứ tam muội. Tại sao
Phật phải nói kinh này trước và phải nhập tam muội này.
Vì nếu không có
kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập được định Vô lượng nghĩa thì không thể nào nói kinh
Pháp Hoa; đó là cốt lõi rất quan trọng. Không phải tụng kinh Pháp Hoa văn tự là
trở thành hành giả Pháp Hoa, phải tu Vô lượng nghĩa và đắc định Vô lượng nghĩa
mới có Pháp Hoa để tu hành.
Kinh Vô Lượng
Nghĩa gồm có ba phần chính yếu: đức hạnh, trí tuệ và công đức. Vì vậy, hành giả
thể hiện được yếu nghĩa của Vô Lượng Nghĩa kinh là người có đức hạnh, có
trí tuệ và sống lợi ích cho cuộc đời; nói cách khác, đó là tam thừa giáo, hay
kinh Pháp Hoa xuất hiện sau tam thừa giáo : Thanh văn, Duyên giác và Bồ
tát. Phẩm Thí dụ thứ ba của kinh Pháp Hoa nói về ba xe và Nhà lửa. Ba xe
là xe dê, xe nai và xe trâu, dụ cho tam thừa giáo. Thanh văn, Duyên giác và Bồ
tát nương theo ba xe, hay tam thừa giáo để ra khỏi Nhà lửa, đến bãi đất
trống, mới có kinh Pháp Hoa gọi là đại bạch ngưu xa. Như vậy, sử dụng xe nào
cũng được, hay tu tất cả pháp môn sai biệt của tam thừa giáo, cũng đều ra khỏi
Nhà lửa, đến bãi đất trống và cuối cùng chứng Nhứt thiết chủng trí.
Tu pháp môn nào
cũng được, nhưng phải chấm dứt phiền não, trần lao và nghiệp chướng; không có
pháp môn nào là tốt nhất. Pháp nào thích hơp với mình là tốt; vì Phật dạy rằng
chúng sinh nhiều bệnh, thầy thuốc phải có nhiều thuốc khác nhau, quan trọng ở
việc chẩn đoán đúng bệnh và sử dụng đúng thuốc. Thuốc hay, nhưng dùng không
đúng bệnh thì không khỏi bệnh, có khi còn tử vong.
Tìm được pháp
môn thích hợp với mình thì phiền não, trần lao và nghiệp chướng phải hết. Ví dụ
người vừa nghèo, vừa dốt, lại bệnh hoạn, không thể cứu nhân độ thế, giống như
đi một mình không nổi mà muốn cõng người sao được. Bản thân mình tự độ không
xong mà đòi độ đời thu đệ tử để tất cả cùng sống nheo nhóc, phiền não là hại
mình và hại người. Người này phải đi xe dê trước, nhằm nhắc nhở các thầy phải
tu pháp tiểu thừa trước, phải lo cứu mình, tự độ mình trước, lo cưu mang chi
cho thêm phiền não.
Lo giải thoát
cho chính mình là Phật dạy tu Thanh văn thừa, xuất gia, buông bỏ tất cả, làm
sao đoạn được mối quan hệ không tốt đẹp giữa mình và thế tục, để họ không quấy rầy
được cuộc đời tu hành của mình. Người ở nhà bị phiền não gia đình trói buộc và
đi làm việc cũng bị phiền não bao vây, làm cho tâm bất an; nếu cứ tiếp
tục ở đó tu thì không hết phiền não mà nghiệp chướng lại tăng.
Thực tế cho
thấy các thầy còn phiền não mà Phật tử lại mang phiền não thêm trao cho. Một
trăm người đến chùa thì chín mươi chín người có vấn đề. Vấn đề của chính mình
chưa gỡ được, làm sao tháo gỡ vấn đề cho người. Phải nói tu hành của Thanh văn
là yếm thế trốn đời. Các Tổ ngày xưa cũng vậy, phải vô núi tu, sống với hoàn
cảnh vật chất đạm bạc nhất, tâm mới yên tĩnh được. Tu Thanh văn được lợi lạc
như vậy, mới thực tập và thành tựu được 37 trợ đạo phẩm. Ở núi rừng vắng vẻ mới
dễ quán pháp Không, vì không có người, không có việc, không ai quấy rầy, mới
chứng được pháp Không, vô tác vô nguyện. Ở núi rừng thì còn gì mà mong muốn,
hay đúng hơn là có muốn cũng không được. Ở đây tu, nhưng vụt nghiệp ham muốn
khởi lên thì có thể leo lên xe, chạy đi tìm. Ngày xưa ở núi Thị Vải mà xuống
núi, ra được đường lớn thật là xa và rất vất vả, nên lâu lắm mới phải xuống chợ
mua muối thôi.
Hàng Thanh văn
tu hành ở nơi thanh vắng, dễ thâm nhập pháp Không. Kinh Pháp Hoa gọi là ra khỏi
Nhà lửa đến bãi đất trống; đất trống là tâm trống không, Phật gọi là tâm địa.
Trước kia, mảnh đất tâm của mình rất nhiều cỏ dại, thử kiểm tra xem một ngày
tâm, hay Thức mình linh hoạt, biến động vô cùng; giữ tâm yên tĩnh không đơn
giản. Vì vậy phải ngồi xe dê, hay nương theo 31 trợ đạo phẩm để ra khòi Nhà lửa
tam giới, đầu tiên là quán Không. Sẽ thấy tất cả mọi việc trên đời này chỉ là
ảo giác thì không có gì chi phối chúng ta được; từ đó, cuộc đời này đối với chúng
ta hoàn toàn vô nghĩa, chúng ta không bận tâm đến cuộc đời và cả việc sống chết
của mình, là đã chạy ra khỏi Nhà lửa bằng tâm, cắt đứt tâm lo lắng, buồn phiền
, hơn thua phải trái, đến được bãi đất trống.
Duyên giác đi
xe nai. Nhờ có trí tuệ, mặc dù sức khỏe cũng yếu, nhưng thông minh hơn Thanh
văn, nên Phật dạy Duyên giác tu pháp quán để giải thoát, không phải bỏ tất cả
để thoát thân như Thanh văn. Họ chạy ra Nhà lửa, nhưng phải nhìn kỹ trên đường
đi, chỗ nào có rắn rít hùm sói làm hại, hoặc có kẻ cướp thì phải tránh. Nói
cách khác, Duyên giác quán biển Thức mênh mông, tầm nhìn được mở rộng, thấu
suốt mọi sự việc diễn tiến từ quá khứ đến vị lai. Ngồi yên, tất cả bức tranh
cuộc đời sẽ hiện ra trong tâm thức hành giả; chẳng hạn như tôi nhớ lại thuở nhỏ
lúc chưa tu, cuộc sống như thế nào, cho đến xuất gia, tu học trong nước, ngoài
nước và làm việc cho đến ngày nay; tất cả những cảnh sống quá khứ và hiện tại,
kể cả những dự tính tương lai sẽ làm gì, tất cả hiện ra đầy đủ trong tâm thức
tôi. Biển Thức rộng mênh mông thu nhiếp cả ba đời là vậy.
Đức Phật dạy
người có trí tuệ nên quán sát. Gần nhất, chúng ta quán sát những kinh nghiệm
sống trong hiện đời. Thí dụ trên bước đường tu, tôi hồi tưởng lại mình từ một cậu
bé nhà quê đến nay đã trải qua 60 năm, phải vượt qua không biết bao nhiêu sóng
gió hiểm nguy, mới ra khỏi Nhà lửa, được như ngày nay, thì không bao giờ tôi
muốn, hay không dám trở lại Nhà lửa này nữa. Cuộc đời này ớn quá, phải đối đầu
trước bao nhiêu việc sống chết trong gang tấc. Nói cách khác, trong biển Thức
mênh mông, có những đợt sóng ngầm rất nguy hiểm sẵn sàng nhận chìm mình; đó là
mới nói một đời này thôi, chưa kể nhiều kiếp trước và gặp không biết bao nhiêu
người tà ác phá hại mình, ví như các loài thủy quái rất đáng kinh sợ. Nhớ lại
những người mình tin tưởng rằng họ tốt, nhưng quay lại hại mình cho nên rất sợ
gặp lại, nghĩa là sợ tái sinh trong Nhà lửa.
Trong biển Thức
mênh mông có những trận cuồng phong làm người ta đảo điên, mà Tô Đông Pha gọi
là tám gió cuốn phăng con người; bao nhiêu cám dỗ của cuộc đời lôi cuốn, không khéo
là bị nhận chìm. Thật vậy, tôi nhìn lại những bạn đồng tu bị gió nghiệp cuốn
trôi; người thì bị tiền tài, người bị danh lợi, hoặc bị tình cảm lôi kéo, hoàn
tục, kiểm lại không còn được mấy người tu. Một bạn đồng tu cùng tuổi với tôi,
cùng học ở Phật học đường Nam Việt, thật là tội nghiệp cho ông này, đi cúng đám
ma ở nhà đàn bà góa chồng, cúng đến 49 ngày thì ông 1ạy Hòa thượng Thiện Hòa
xin về với bà nọ.
Khi nghiệp ái
khởi lên, tình cảm thế tục sinh ra, phải hoàn tục; nhưng lọt vào cái bẫy của
cuộc đời rồi, mọi việc không đẹp như ông này lầm tưởng; quả là nguy hiểm vô cùng.
Một ông thầy khác làm chúng trưởng của tôi ở Phật học đường Nam Việt, được Hòa
thượng Thiện Hòa giao trông coi phòng phát hành kinh sách chùa Ấn Quang. Làm
một lúc, ông trở thành nhà kinh doanh có chút tiền thì liền có người để ý ông,
hay đúng hơn là ngắm túi bạc của ông. Một hôm, ông ra đời với họ và mỉa mai
thay, túi tiền ông đến lúc sạch bách thì liền bị họ bỏ rơi, cuối cùng ông phải đi
vác gạo mướn ở chợ An Đông, rồi bị ho lao chết; kết thúc cuộc đời thật là thê
thảm.
Sống trong biển
Thức, người bị sóng ngầm, người bị cuồng phong, người bị thú dữ xé nát. Vì vậy,
Phật dạy người tu Duyên giác thừa phải quán sát cuộc đời thật chính xác nhớ rõ
trong kiếp luân hồi sinh tử, đã bị vùi dập khổ đau như thế nào để dứt khoát
không rơi trở lại Nhà lửa tam giới.
Chỉ có hàng Bồ
tát được ví như người đi xe trâu có khả năng kéo nặng. Nghĩa là Bồ tát vừa
thông minh, vừa khỏe mạnh, vừa có phước đức, nên tự thân đã thoát được phiền não
sinh tử lại vừa có khả năng cứu đời, cầm đuốc soi đường để dìu dắt người khác
cùng đi với mình ra khỏi Nhà lửa tam giới, đến bãi đất trống.
Tóm lại, Thanh
văn, Duyên giác và Bồ tát với ba hoàn cảnh khác nhau, nên phải tu các pháp khác
nhạu theo tam thừa giáo; nhưng cuối cùng, ba hạng đệ tử này đều được giải thoát
giống nhau.
Đạo đức, trí
tuệ và công đức, ba điều cốt lõi này trong kinh Vô Lượng Nghĩa đã bao gồm tất
cả những gì Phật thuyết pháp trong suốt 49 năm, nhằm đưa ba hạng người, người bình
thường (Thanh văn), người thông minh (Duyên giác) và Bồ tát luôn cứu nhân độ
thế, ra khỏi sinh tử luân hồi của tam giới.
Kinh Pháp Hoa
là điểm hội tụ của tất cả các pháp tu khác nhau, nhưng giải thoát là một. Được
giải thoát, tâm trống không, rồi cứu nhân độ thế bao nhiêu cũng không bị vướng
mắc. Phật dạy rằng Bổ tát độ vô số chúng sinh, nhưng không thấy có chúng sinh
nào bị độ, mới là độ tận chúng sinh. Còn tự cho rằng mình tu Bồ tát hạnh, mà bốthí cái gì cũng ghi vào sổ sách, nhớ hoài; nếu người nhận không nhớ ơn là khó
chịu liền; đó là Bồ tát giả danh.
Tất cả các kinh
điển Phật nói, từ A Hàm, Phương Đẳng, đến Bát Nhã, đều được gộp lại trong kinh
Pháp Hoa. Kinh A Hàm và Phương Đẳng là ba xe, hay tam thừa giáo. Kinh Bát Nhã
ví cho mảnh đất trống, phải quán Không: nhân Không, ngã Không và tất cánh
Không. Nghĩa là quán tứ đại ngũ uẩn không phải là mình, nên không chấp thân này
là mình, không chấp vật sở hữu là của mình, mọi thứ đều hoàn toàn Không, đạt
đến tất cánh Không.
Bồ tát Nguyệt
Quang quán pháp Không như vậy mà đắc đạo quả Bồ tát. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả sở
đắc của Bồ tát Nguyệt Quang bằng bài kệ sau:
Bồ tát Thanh
Lương Nguyệt
Thường du tất cánh
Không
Chúng sanh tâm cấu
tịnh
Bồ tát ảnh hiện
trung
Nghĩa là tâm
chúng sinh thanh tịnh, hay nhơ bẩn đến mấy, Bồ tát cũng hiện thân vô tâm họ để
cứu độ, mà không bị dính mắc. Còn độ người mà mình bị dính vô phiền não, nghiệp
của họ, không phải là Bồ tát.
Nói chung, một
đời giáo hóa của Phật giảng dạy tam thừa giáo, kết thúc lại gọi là kinh Vô Lượng
Nghĩa. Và trước khi nói kinh Pháp Hoa, Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa. Theo Thiên
Thai Trí Giả, Phật nói kinh Hoa Nghiêm trước rồi đến kinh A Hàm, Phương Đẳng,
Bát Nhã và sau cùng nói Niết bàn, Pháp Hoa. Nhưng trong kinh Pháp Hoa, chỉ ghi
một câu là trước khi nói Pháp Hoa, Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa. Như vậy, chúng
ta có thể hiểu rằng kinh A Hàm,
Phương Đẳng, Bát Nhã, Niết Bàn tiêu biểu cho kinh Vô lượng nghĩa.
Nói kinh Vô
Lượng Nghĩa xong, Phật nhập định Vô lượng nghĩa, vì Phật nói Vô lượng nghĩa thì
phải thực hành Vô lượng nghĩa cho mọi người thấy. Phật chỉ nói những gì Ngài đã
làm và Ngài làm những gì đã nói; cho nên Ngài có tôn danh là bậc Minh Hạnh
túc.
Vì vậy, nhập Vô
lượng nghĩa xứ tam muội có ý nghĩa quan trọng. Chưa nhập tam muội này cũng chưa
có kinh Pháp Hoa. Nhập Vô Lượng Nghĩa xứ tam muội là ngồi yên mà
ba đời nhân quả hiện ra trong tâm
chúng ta để tu Pháp Hoa. Ví dụ, tôi tập trung tư tưởng, tất cả cuộc đời quá khứ
hiện lên, cho tôi kinh nghiệm tốt xấu và vẽ ra hướng tương lai, tôi sẽ làm gì
cho tốt.
Tu hành mà
không nhập định, không tập trung tư tưởng được thì cái thấy không chính xác.
Phật dạy các Tỳ kheo phải thường sống trong chánh định; vì sống trong tạp niệm,
nghĩa là sống với biển Thức thì không có Phật, không đến với Phật được, còn
sống với cuộc đời thì càng cách xa Phật hơn nữa.
Định, tiếng
Phạn là Samadhi, Tàu dịch là tam ma địa, hay tam muội. Thầy Tỳ kheo an trú
trong chánh định thì thế giới Phật hiện ra. Người tu hơn nhau ở trụ định. Tỳ kheo
dở nhất là bị cuộc đời lôi cuốn, thứ hai là tâm tán loạn. Tỳ kheo được kính
trọng thường trụ định, ít nói, hoặc niệm Phật, tâm 1ắng yên, mới có khả năng
thay Phật độ đời. Trong các pháp sư nổi tiếng thời Phật tại thế, có Mã Thắng Tỳ
kheo được Phật ca ngợi. Vị này trụ định, không nói, yên lặng vào làng khất
thực, nhưng Xá Lợi Phất thấy tướng giải thoát của Ngài hền phát tâm và đắc quả
Tu đà hoàn, đi theo Ngài về gặp Phật thì đắc quả A la hán. Từ đó về sau, Phật
dạy các Tỳ kheo phải trụ định, trừ khi đến Phật nghe pháp, thời gian còn lại
ngồi trong hang đá, hoặc dưới gốc cây để nhập định. Thuyết kinh quan trọng,
nhưng trụ định quan trọng hơn, vì độ được nhiều người, tác động cho họ giải
thoát. Còn thuyết pháp hay, nhưng chưa chắc người nghe được giải thoát.
Đức Phật nhập
Vô lượng nghĩa xứ tam muội rồi, trời mưa hoa Mạn đà la, Mạn thù sa. Hoa Mạn đà
la là hoa Trời, mà Trời tiêu biểu cho tâm an vui. Chư Thiên lúc nào cũng vui,
cũng trẻ đẹp, không biết buồn; khi nào biết buồn là chư Thiên sắp bị đọa.
Khi Phật nhập
Vô lượng nghĩa xứ tam muội, trời mưa hoa Mạn đà la, nghĩa là làm cho đại chúng
an vui. Nhận thức ý nghĩa này, khi tập họp quần chúng, tất cả được an lạc là
Phật pháp hiện ra, là điềm lành; không phải tập họp chúng để tranh cãi, để buôn
bán. Hoặc tập họp chúng đến chùa để vui chơi theo thế gian, nếu có thì tạm coi
là phương tiện mà thôi; còn cái vui của đạo phải khác, vui trong yên tĩnh. Người
thích cảnh sống yên tĩnh của Sa môn, vui trong khổ hạnh, vui trong Thiền định
mới tu được; nhưng cảm thấy chùa vắng vẻ buồn, từng nơi ồn náo để vui, sớm muộn
gì người đó cũng hoàn tục.
Nhập định của
Đức Phật ảnh hưởng cho đại chúng được an vui, tiêu biểu bằng hoa Mạn đà la, thể
hiện tinh thần Pháp Hoa, nhứt hoa chúng quả tu Thanh văn là nhứt hoa nhứt quả; một
mình tôi tu, một mình tôi nhập định, một mình tôi an vui, các thầy khác không
biết. Tu Thanh văn không ảnh hưởng tốt cho người khác được Phật ví như thủy
tinh không có công năng lóng nước trong như ma ni bảo châu. Thanh văn thanh tịnh,
nhưng không làm cho chúng thanh tịnh. Thực tế có nhiều vị chân tu, đạo đức cao,
nhưng không ảnh hưởng cho ai cả.
Hoa Mạn Thù Sa
nghĩa là trong sạch, tinh khiết. Phật nhập định, có hoa Mạn đà la và Mạn thù sa
rơi xuống nhằm diễn tả tâm trạng của đại chúng được lực Phật tác động cảm thấy
an vui và thanh tịnh giải thoát, càng vui thì tâm hành giả càng thanh tịnh và
thâm nhập thế giới Phật.
Vui trong tham
dục,
vui rồi khổ.
Khổ để tu
hành,
khổ hóa
vui;.
Người đời thấy
người tự ăn chay, lễ sám, thiền định, cho rằng cực khổ. Họ nào biết được cái
vui của đạo đưa chúng ta vào con đường thanh tịnh, giải thoát, con đường vui vô
tận. Vua Trần Thái Tông thưởng thức được nguồn vui vô hạn này khi học đạo với
Phù Vân quốc sư trên non Yên Tử, đã thốt lên rằng:
Mùi Thiền trong
ấy nào ai biết
Thức suốt đêm
trường vui với Tăng.
Còn thú vui của
thế gian do cuộc đời đưa cho sẽ dẫn vào con đường sa đọa, vì sau cuộc vui là
nỗi khổ niềm đau ập đến.
Sau khi hoa Mạn
đà la và Mạn thù sa rơi xuống, đại chúng thấy bạch hào tướng của Phật chiếu
suốt 18.000 thế giới ở phương Đông. Điều này tiêu biểu cho nhập định phải có trí
tuệ Thầy Tỳ kheo tu giới, tâm thanh tịnh, tập trung tư tưởng, mọi việc tự sáng
lên, là định sanh tuệ, thấy biết những điều mà bình thường không biết Tu
định, ngày nay gọi là tu Thiền. Thiền sư quan sát Thiền sinh để biết họ tu đúng
hay sai. Những nguời ngồi Thiền ngủ gục thuộc hàng sơ tâm, không tập trung tư
tưởng được, nên dễ rơi vào hôn trầm. Cần dạy họ cách tu để khắc phục. Nhớ lại
lúc còn ngồi ghế nhà trường ở Phật học đường Nam Việt, Hòa thượng Thiện Hòa
giảng bài xong thì tẩt cả Tăng sinh đều ngủ. Ngủ vì bài học không có sức thu
hút. Nói đúng hơn, Phật đạo dài xa, nên chúng ta không cảm được, không hiểu
được, mới dễ ngủ. Nghe những gì mình ưa thích, liền có sức thu hút, tập trung
được. Vì vậy mà ngày nay, người đời bày ra nhiều trò chơi đề thu hút người, mà người
ta càng laọ theo các trò chơi càng tạo tội lỗi. Tổ Quy Sơn từ xa xưa đã nói ý
này: Vọng tình dị tập. Chí đạo nan văn; nghĩa là cám dỗ của cuộc đời dễ lôi
cuốn người ta theo, còn học đạo thì khó lắm. Và nghe pháp mà không ngủ, vui
được thì Tổ Quy Sơn cũng đã nói: Bạt tực siêu quần. Vạn trung vô nhất; đối với
việc học đạo, muôn người chưa được một người. Hòa thượng Thiện Hoa thường nói
rằng: Trứng cá, bông xoài. Cây xoài trổ ra rất nhiều bông, nhưng kết thành trái
thì không nhiều. Đến với đạo và sống được trong đạo khó lắm, chúng ta phải nỗ lực.
Định lực, tức
sức tập trung của Phật cao, làm cho đại chúng tập trung theo, là thuyết pháp
trong định. Đức Phật phóng tạo hào quang đi suốt 18.000 thế giới, khiến tâm
chúng thanh tịnh, cũng lôi theo đến 18.000 thế giới đó tạo thành cảnh giới
thanh tịnh mầu nhiệm, hay thế giới của kinh Pháp Hoa, là thế giới của
Tâm.
Trong ánh quang
của Phật, đại chúng thấy có Phật ra đời, Phật thuyết pháp giáo hóa. Điều này
nghĩa là gì. Trước kia, các Tỳ kheo thấy Phật là thái tử tu thành Phật; nhưng
nay thấy Phật trước khi sanh ra ở Ta bà. Ngài đã là Phật. Họ nghĩ Phật tu thành
Phật được thì họ cũng thành Phật, nhưng tu hoài mà sao không ai thành Phật. Vì
vậy nương theo ánh quang Phật, nhận ra Phật hiện thân lại cuộc đời hoàn toàn
khác thân phận của chúng ta. Trong ánh quang Phật, hay là nương trí tuệ Phật,
thấy rõ thân phận của tất cả chúng sinh bị trói buộc trong lục đạo tử sanh, từ
đĩa ngục A tỳ cho đến trời Hữu đảnh, đã trải qua biết bao nhiêu kiếp luân hồi,
chịu khổ não vô lượng. Rõ ràng chúng ta hay tất cả chúng sinh khác Phật xa, cho
nên tu mãi mà không thành Phật, hay còn lâu mới thành Phật, Đức Phật tu sáu năm
thành Phật, chúng ta tu bao nhiêu lâu rồi và thành gì. Cảm nhận yếu nghĩa này,
chúng ta ca ngợi các vị tôn túc rằng:
Từ chơn tánh
hiện thân Đại sĩ
Giữa hồng trần
chẳng nhiễm bụi trần
Các vị Tổ sư
đạo cao đức trọng là Bồ tát hiện thân lại thế gian này, nên cuộc đời tu hàng
của các Ngài khác hẳn phàm nhân mới tu, cái gì cũng tham đắm, không bị cá mập nuốt
thì cũng bị sóng lớn nhận chìm là phải thôi.
Trong mùa an cư
kiết hạ, quý vị được phước duyên tập trung tu hành ở trường hạ của Thành hội
Phật giáo thành phồ Hồ Chí Minh, cầu mong tất cả nỗ lực sống trong pháp Phật, để
không phí phạm đời tu của mình, không có phụ công đức giáo dưỡng của chư tôn
đức, không phụ lòng tin của đàn na tín thí, sớm được thanh tịnh giải thoát,
xứng đáng là trường tử của Như Lai, là phước điền của chúng sinh.
(Nguồn: báo
Giác Ngộ số 448 & 449)
Người gửi bài:
Tịnh Tú
대
Discussion about this post