VU LAN, NGHĨ VỀ TÌNH MẪU TỬ
Huỳnh Kim Quang
Trên thế gian này,
dường như không ai và không một ngôi trường nào dạy làm sao để người ta có tình
yêu thương cha mẹ và con cái. Giống như không ai dạy con người làm sao biết hít
thở không khí để sống, tình yêu thương cha mẹ và con cái có trong bản chất con
người, mà đạo Phật gọi là “câu sinh,” tức sinh ra cùng một lần với sự có mặt của
con người.
Người mẹ khi
mang thai con là một chọn lựa quan trọng nhất trong đời. Người mẹ ấy biết rằng
từ nay trong cuộc đời bà lại có thêm một mảnh đời khác, nhưng thực sự không khác
tí nào cả, gắn bó keo sơn đến hơi thở cuối cùng của bà. Khi ý thức điều đó, cũng
có nghĩa là người mẹ chấp nhận một thứ bản ngã, một thân xác thứ hai ngay trong
chính con người mình. Đứa con là sự sống của người mẹ trong cả hai bình diện
tinh thần và thể chất.
Như vậy người mẹ
có phải chia bớt phần bản ngã và thể chất của bà cho đứa con? Nếu có thì người
mẹ đã mất mát một phần bản ngã và thể chất. Nếu không thì đứa con không là một
phần trong đời sống của người mẹ. Về mặt thể chất, vật chất thì dễ thấy cho nên,
ai nấy đều biết rõ là người mẹ từ lúc mang thai cho đến khi sanh con và nuôi dưỡng
con khôn lớn nên người đã tiêu hao thân xác rất nhiều. Về mặt tinh thần thì khó
thấy, nhưng tất nhiên không phải là hoàn toàn không thấy được. Xem đứa con như
một phần đời của mình, tức là người mẹ dành một chỗ đứng quan trọng trong tinh
thần cho con. Hay nói cách khác, đứa con là một phần bản ngã của người mẹ, người
mẹ chia một phần bản ngã cho con. Cái phần bản ngã của đứa con trong người mẹ đó
thật sự không thể lấy thước để đo được là bao lớn. Bởi vì chỗ đứng tinh thần không
hình tướng, cho nên, nó cũng là tất cả cái bản ngã của người mẹ.
Cũng từ đó, người
ta mới hiểu được phần nào lý do tại sao tục ngữ Việt Nam có câu rằng, “Nuôi con
trăm tuổi, mẹ lo hết chín mươi chín năm.” Và cũng vì lẽ đó, người ta mới thấy rằng
tại sao trong đời sống hằng ngày lúc nào người mẹ cũng nghĩ tới, cũng lo cho
con trước, rồi mới nghĩ, mới lo cho mình sau, mà có khi còn quên cả lo cho mình
nữa.
Cái cảm giác kỳ
diệu khi mang thai con nơi người mẹ không một người nào khác trên thế gian này,
kể cả người cha, có thể cảm nhận được một cách trọn vẹn và thấu đáo. Trong cơ
thể, trong tinh thần, trong tâm thức, trong cảm quan của người mẹ mỗi ngày mỗi
hiển lộ dần hình ảnh của đứa con trong đời mình, mà bào thai càng lớn thì cảm
thức đó càng lớn theo, càng thâm thiết hơn, càng nồng nàn hơn. Cho đến khi đứa
con chào đời, cái cảm thức rằng đó là mảnh đời thịt da máu huyết của mình, không
những không thay đổi mà còn tăng trưởng hơn, vì cái mảnh đời đó đang sờ sờ trước
mặt, có thể bồng bế, nâng niu, hôn hít cả ngày. Đó cũng là lý do tại sao, những
người làm cha mẹ hay có cái cảm nghĩ con mình vẫn còn bé bỏng, dù nó đã khôn lớn
trưởng thành. Và đó cũng là lý do tại sao cha mẹ nghĩ rằng mình có quyền trong
những quyết định trọng đại đối với cuộc đời của con cái.
Những người con
chỉ ý thức và cảm nhận được tình yêu thương của cha mẹ, đặc biệt đối với mẹ,
khi đã sinh ra đời, đã đến tuổi ý thức và hiểu biết. Khi đứa con cảm nhận được
tình yêu thương của mẹ thì lúc nó đã là một mảnh đời riêng biệt đối với người mẹ.
Cho nên, tình thương yêu của con cái đối với mẹ không thâm thiết, không mặn nồng,
không sâu sắc như người mẹ thương yêu con. Và cũng vì vậy, thường là khi con cái
thành gia thất, rồi trải qua kinh nghiệm làm mẹ, làm cha mới thâm cảm được thế
nào là tình yêu thương ruột thịt, máu huyết không phân ly của người mẹ, người
cha. Nhưng, có khi biết được thì đã muộn, bởi vì có thể lúc đó cha mẹ đã khuất
núi!
Các loài chúng
sinh khác, mà dễ thấy như loài thú vật, cũng có những cảm nhận về mối yêu thương
gắn bó bất khả phân giữa mẹ con, nhưng vì chúng không có một nền văn hóa, đạo đức
và luân lý phát triển đến cao độ như loài người nên chỉ nằm ở bình diện bản năng.
Thể hiện tình yêu
thương của cha mẹ và con cái, vì vậy, là bản sắc văn hóa, đạo đức và luân lý đặc
thù của loài người từ ngàn xưa đến ngày nay.
Đạo Phật khi nêu
cao tinh thần hiếu hạnh cũng tức là bảo vệ và phát huy nếp sống văn hóa, đạo đức
và luân lý cao đẹp của con người.
Có điều đặc biệt
nơi tinh thần hiếu hạnh của Đạo Phật là ngoài việc thể hiện hiếu hạnh đối với
cha mẹ về mặt vật chất trong đời này còn nhắm đến một đời sống cao thượng hơn ở
thế giới tâm linh và trong nhiều đời nhiều kiếp chứ không chỉ quanh quẩn trong
lãnh vực vật chất, thể xác và ở đời này. Những báo đáp thâm ân cha mẹ của con cái
về mặt vật chất không phải là hành trang mà cha mẹ có thể mang theo lâu dài trên
lộ trình luân hồi sinh tử. Khi nhắm mắt xuôi tay, tất cả những tiền tài, của cải,
giàu sang, danh vọng đều bỏ lại, duy chỉ có nghiệp lực là mang theo. Dĩ nhiên,
nói như vậy, không có nghĩa là con cái không cần phải báo đáp thâm ân cha mẹ về
mặt vật chất trong đời này, nhưng chừng ấy không, chưa đủ.
Đó là ý nghĩa tích
cực của tinh thần hiếu hạnh trong Đạo Phật. Tình thương yêu của cha mẹ và con cái
dù thiêng liêng và cao cả đến đâu cũng chỉ xây dựng trên nền tảng tình cảm thế
gian, có nghĩa là vẫn còn bị trói buộc trong vòng xoáy của vô minh điên đảo để
rồi cuối cùng vẫn phải chịu trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Thực hiện hiếu hạnh
theo tinh thần Đạo Phật là hướng về con đường giải thoát tận gốc những triền phược
và khổ lụy. Đây chính là mục tiêu cao nhất mà tinh thần hiếu hạnh trong Đạo Phật
muốn nhắm đến.
Mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái là mối nhân duyên vừa vi tế, vừa phức tạp đến khó hiểu đối với
con mắt của người bình phàm. Nhiều bậc cha mẹ ăn ở hiền đức mà sanh con ngỗ nghịch,
bất hiếu. Ngược lại, nhiều cha mẹ ăn ở bất nhân, thất đức mà có con hiền lương,
hiếu thảo. Vì vậy, nhân duyên làm cha mẹ và con cái với nhau không thể tính
trong một đời này mà phải kết nối từ nhiều đời trước. Có khi đó là thiện duyên,
phước báo. Có khi đó là ác nghiệp, oan gia. Cứ xem cái gương lịch sử của Ngài Đại
Mục Kiền Liên, là một trong mười vị đại đệ tử xuất sắc nhất của đức Phật, thì
biết. Mẹ Ngài Mục Kiền Liên có tâm lượng hẹp hòi, bủn xỉn, keo kiệt, mà còn ác
nữa, nên khi chết mới đọa làm loài ngạ quỷ đói khát khổ sở vô cùng, vậy mà có
người con tu hành chứng đắc Thánh Quả A La Hán với thần thông đệ nhất. Còn hàng
cư sĩ tại gia thời đức Phật thì có Vua Tần Bà Sa La và Hoàng Hậu Vi Đề Hi là vị
minh quân nhân từ đức độ trị vì nước Ma Kiệt Đà. Ấy vậy mà, nhà vua và hoàng hậu
lại sanh ra người con là A Xà Thế ngỗ nghịch giết cha để soán ngôi, lại còn đày
mẹ vào lãnh cung tăm tối cho đến chết. Oan nghiệt biết chừng nào!
Tuy nhiên, nếu xét
trên bình diện nhân quả và nghiệp báo mà đức Phật đã dạy thì phước hay họa, thiện
hay ác mà chúng ta thọ nhận trong đời này đều là những gì do chính chúng ta tạo
ra trong quá khứ, một hay nhiều đời. Cũng vậy, lấy đó làm gương để thấy rằng tương
lai đời sau của chúng ta khổ hay lạc, phước hay họa là tùy thuộc hoàn toàn vào
những gì mà chúng ta tạo ra trong đời này. Nếu hiểu và đem cái hiểu đó áp dụng
triệt để vào đời sống hàng ngày thì người học Phật sẽ bớt đi, hay không còn cảm
thấy khổ sở, đau đớn, bi quan, tuyệt vọng nữa khi con cái mình đối xử tệ bạc.
Cho nên, các bậc cổ đức có nói rằng “Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.” Người
học Phật đúng ra phải là người sợ ngay lúc tạo nhân chứ không ngồi đó mà sợ khi
quả báo tới.
Nếu đã biết sợ
nhân thì phải rất thận trọng khi lập gia đình và có con. Phải suy nghĩ một cách
thấu đáo rằng có con không phải là việc đơn giản và tầm thường. Cái không đơn
giản và không tầm thường không chỉ ở chỗ hoàn cảnh tài chánh và sinh hoạt gia đình,
mà còn ở giá trị đích thực và cao quý khi sanh ra đời một đứa con, một con người,
một chúng sinh, hay cao xa hơn chính là một vị Phật đương lai. Nuôi dưỡng một đứa
con từ lúc còn trong bào thai đến khi khôn lớn nên người là một công việc trọng
đại và vô cùng khó khăn, mà bậc cha mẹ phải để tâm từng ly từng tí, từng ngày từng
giờ, từng miếng ăn thức uống đến cách giáo dục bằng lời nói, bằng cử chỉ sao
cho phù hợp theo từng tuổi tác lớn khôn của con cái. Một người Phật tử với tư cách
là cha là mẹ mà có thể dạy được con mình trở thành một người con hiếu thảo, một
người công dân hữu ích cho đất nước, cho xã hội đã là điều vô cùng quý giá. Huống
chi, cha mẹ có thể dạy con phát tâm Bồ Đề hướng đến con đường cao rộng của chư
Phật đi, không phải là đang tạo phước cho muôn loại chúng sinh đó sao?
Với lòng thương
yêu con mênh mông không bờ bến thì cha mẹ nào mà không cầu mong được như vậy! Nhưng
được hay không lại là một chuyện khác. Được hay không là tùy thuộc vào phước báo
của cha mẹ và chính con cái, vào bối cảnh gia đình, trường học và xã hội, vào phương
pháp và sức nỗ lực tới đâu của những bậc làm cha mẹ trong việc giáo dục con,
v.v…
Tình yêu thương
của cha mẹ một khi đã trang trải cho con thì không nghĩ đến chuyện con cái trả ơn,
giống như nước trên nguồn chảy xuống thì không nghĩ đến chuyện nước chảy ngược về
nguồn. Người làm cha mẹ vui nhất là thấy và biết rõ rằng mình đã làm tròn phận
sự, đã rót hết tình yêu thương cho con cái không giữ lại điều gì, là chứng kiến
sự trưởng thành thực sự của con cái. Nhưng, khổ nỗi, trong mắt của cha mẹ, con
cái lúc nào cũng bé bỏng, thơ dại, cho nên, phải lo lắng cho nó suốt đời. Hết
lo cho con rồi lại lo cho cháu, chắt. Dĩ nhiên, ở một khía cạnh nhận định nào đó,
sự lo lắng của cha mẹ sau khi con cái thành gia thất cho thấy ba nhược điểm. Một
là, cha mẹ chưa tin tưởng thật sự vào sự trưởng thành độc lập của con. Hai là,
cha mẹ chưa tin tưởng thật sự vào sự nuôi dưỡng và giáo dục của chính mình đối
với con cái, để cứ luôn luôn nghĩ rằng nó chưa thể tự lập, chưa thể tự quyết định,
chưa tự đứng vững, chưa tự xây dựng cuộc sống cho riêng nó. Ba là, khiến cho
con cái có tâm ỷ lại và lệ thuộc vào cha mẹ, trong khi đã đến lúc nó phải tự đứng
lên gánh lấy trách nhiệm để kiến lập cuộc đời riêng tư. Điều hiển nhiên là nói
như vậy không có nghĩa cho rằng tới lúc nào đó, trong đời, cha mẹ và con cái phải
vạch rõ lằn ranh, phải đoạn tuyệt tương quan, phải xoay lưng nhau mà sống, không
còn liên hệ gí, giống như chim rừng, cá biển. Tuyệt đối không phải thế! Tình yêu
thương của cha mẹ và con cái nằm trong máu huyết, trong tim óc, trong hơi thở,
trong sự sống của nhau, làm sao có thể cắt đứt?
Cắt đứt thì không
thể, nhưng cách thể hiện lòng yêu thương của cha mẹ và con cái trong đời sống của
thời đại ngày nay không giống như ngày xưa, ngay cả tại những nước có truyền thống
bảo vệ hiếu hạnh rất nghiêm túc tại Á Châu như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản,
v.v…
Ngày nay, cha mẹ
không muốn để cho con cái phải bận tâm lo lắng quá nhiều hay phải chịu gánh nặng
trách nhiệm chăm sóc lúc phụ mẫu về già, nên đã có kế hoạch từ những năm tháng
còn làm việc để tiết kiệm tiền bạc, mua bảo hiểm, lập trương mục hưu trí, v.v…
Cho đến khi về già thì cha mẹ có thể dùng số tiền đó để tự nuôi thân, hoặc có vào
viện dưỡng lão thì cũng không phải nhờ vả quá nhiều đến con cái. Các chính phủ đã
từ lâu giúp đỡ và khuyến khích người lao động thực hiện các chương trình phúc lợi
xã hội và hưu trí như vậy.
Con cái dù có hiếu
cũng không thể cưỡng lại những ràng buộc, chi phối, giới hạn của cuộc sống hàng
ngày và sinh hoạt vốn có của xã hội để có thể thực hiện hiếu hạnh một cách đầy đủ
giống như ngày xưa. Một ngày làm việc từ tám tiếng đồng hồ trở lên, suốt năm hoặc
sáu ngày một tuần, cuối tuần thì phải lo cho gia đình vợ chồng con cái, còn thì
giờ đâu để chăm sóc cho cha mẹ già, đặc biệt cha mẹ già bệnh tật. Cho nên, đưa
cha mẹ già vào viện dưỡng lão là điều khó tránh khỏi. Nếu thật sự vì hoàn cảnh
không thể xoay xở của con cái thì cha mẹ nào cũng vui vẻ và thông cảm. Nhưng điều
quan trọng là tấm lòng, là tình thương yêu kính trọng cha mẹ của con cái có còn
nguyên vẹn hay không. Không có thì giờ để trực tiếp chăm sóc cho cha mẹ là một
chuyện, có để tâm lo lắng, suy nghĩ, quan tâm, tới lui thăm lom và an ủi cha mẹ
hay không là chuyện khác. Điều cha mẹ già cần nơi con cái chính là chuyện sau này
đó, tức là sự quan tâm, thăm lom, an ủi và có mặt thường xuyên của con cái. Có
vào viện dưỡng lão rồi mới thấy điều đó nó quan trọng, nó cần thiết đối với những
người già như thế nào! Tội nghiệp biết bao!
Nói đi rồi cũng
nên nói lại, rằng là người con Phật thì phải sớm biết điều đó ắt xảy ra, vì đó
là quy luật sinh, già, bệnh, và chết. Người con Phật cần học cách và tự tu tập
như thế nào để đến khi mình ở tuổi già, sống trong viện dưỡng lão một mình, nằm
trên giường bệnh, hoặc trước lúc lâm chung vẫn có thể giữ được tâm bình khí hòa,
hay cao hơn nữa là an nhiên tự tại. Làm được như vậy thì đúng là không uổng công
đức Phật suốt gần năm mươi năm một mình với ba y và bình bát vân du khắp lưu vực
Sông Hằng để đem giáo pháp cứu khổ mà cảm hóa chúng sinh.
(Tưởng niệm mùa Vu Lan, Phật Lịch 2554)
Discussion about this post