VẤN ĐỀ BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC TỰ THIÊU
VÀ GIỚI KHÔNG SÁT SANH TRONG ĐẠO PHẬT
Thích Hạnh Bình
1. Dẫn
luận
Đạo
Phật xuất hiện tại nước Ấn độ vào khoảng thế kỷ
thứ VI TTL, sau đó được vua A Dục (Asoka) tín ngưỡng, đem
đạo Phật truyền bá đi khắp mọi miền nước Ấn độ và
ngay cả truyền sang các nước lân cận, và từ đó dần dần
truyền đi khắp thế giới. Đạo Phật được phát triển
mạnh ở những nước Châu Á, như Trung Quốc, Thái Lan, Miến
Điện, Lào, Campuchia, Việt Nam, Nhật Bản, Đại Hàn, Đài
Loan…cho đến nay Phật giáo cũng đang phát triển ở những
nước Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc.
Theo
các nhà nghiên cứu sử cho rằng, đạo Phật được truyền
đến Việt Nam rất sớm, vào khoảng đầu thế kỷ thứ II
STL, bằng 2 ngã đường thủy và đường bộ. Phật giáo Việt
Nam theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, chịu ảnh hưởng
Phật giáo Trung Quốc cả về mặt nội dung tư tưởng lẫn
hình thức tu tập.
Phật
giáo là một tôn giáo, nhưng rất chú trọng đến mặt nhận
thức, với mục đích giáo dục con người từ bỏ việc ác,
làm các hạnh lành, và hướng đến mục tiêu giác ngộ và
giải thoát, với phương châm lấy trí tuệ làm kim chỉ nam,
lấy tinh thần từ bi hỷ xả làm phương châm hành động.
Thế
nhưng qua thời gian đổi thay, không gian biến đổi, do vậy,
lời Phật dạy cũng theo đó có nhận thức và lý giải khác
nhau hình thành các tông phái, nổi bật là hai phái Thượng
toạ bộ và Đại chúng bộ hay từ chúng ta thường dung là
Đại thừa và Tiểu thừa. Ngang qua quá trình lịch sử diễn
biến của Phật giáo, chúng ta có thể đi đến xác định,
Phật giáo Việt Nam thuộc Phật giáo Đại thừa. Nhưng, Phật
giáo Đại thừa ở Việt Nam có điểm đặc thù gì so với
Phật giáo Ấn độ? Đây là điểm chúng ta cần nghiên cứu
và lý giải, trước khi thảo luận đến sự kiện tự thiêu
của HT. Quảng Đức.
Đất
nước Việt Nam có địa hình cong như chữ S, phía bắc giáp
với Trung Quốc, phía tây giáp Lào và Campuchia, phía đông là
một bờ biển chạy dài từ Bắc đến Nam, đất đai phì nhiêu
và nhiều rừng núi, dân cư đông đúc cần cù lại thông minh.
Từ địa hình và đặc tính con người của nước này, các
nhà chính trị của những đất nước lớn và có đầu óc
xâm lược không thể không nghĩ đến Việt Nam trong sứ mệnh
quốc tế, nhất là khu vực Đông Nam Á. Đây chính là lý do
tại sao đất nước Việt Nam luôn luôn rơi vào chiến tranh,
nền độc lập dân tộc bị hăm dọa. Cũng chính vì vậy,
trong quá trình giữ nước và dựng nước của dân tộc Việt
Nam luôn luôn bị đe dọa bởi kẻ bành trướng, nhưng không
vì thế, nhân dân Việt Nam chịu khuất phục trước kẻ thù.
Khi nền độc lập dân tộc bị nguy cơ, bất luận là thành
phần nào trong xã hội, là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ,
dân hay quân, thậm chí người làm công tác tôn giáo cũng cầm
gươm giết giặc, chống ngoại xâm. Lịch sử đấu tranh chống
ngoại xâm của nhân dân Việt Nam đã hùng hồn chứng minh
điều đó. Có thể nói, đó là tính đặc thù của dân tộc,
là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam.
Do
vì bối cảnh và tính đặc thù của dân tộc như vậy, Phật
giáo tuy lấy tinh thần từ bi làm phương châm hành động,
nhưng muốn tồn tại và phát triển ở đất nước này, tinh
thần hòa nhập và tôn trọng nền độc lập dân tộc, chung
vai sát cánh gánh vác trách nhiệm với dân tộc là điều không
thể thiếu trong Phật giáo. Tinh thần Bồ tát hạnh của Phật
giáo Đại thừa được triển khai ở đây là phù hợp, không
bị chướng ngại, bất cứ ở đâu có người dân đau khổ,
cần Phật giáo giúp đỡ thì nơi ấy có Bồ tát là tinh thần
của “Kinh Pháp Hoa”. Theo tôi đây là điểm đặc thù của
Phật giáo Việt Nam.
Xuất
phát từ tinh thần này, sau khi đạo Phật được truyền nhập
vào Việt Nam, được nhân dân Việt Nam đón nhận, không những
chỉ có thế mà dần dần phát triển, và đã trở thành một
tôn giáo chính của dân tộc. Sự đón nhận đó, không phải
tự nhiên mà có, nó xuất phát từ hai phía, dân tộc Việt
Nam có lòng hiếu khách và sự cởi mở. Ngược lại về phía
Phật giáo có hệ thống triết lý trong sáng, làm nền tảng
cho xã hội phát triển, có lòng bao dung, biết trách nhiệm,
đề cao vai trò trí tuệ, nhất là tinh thần nhập thế của
Phật giáo Đại thừa đã thể hiện một cách nhuần nhuyễn,
mạnh dạn xem sự thịnh suy của đạo pháp gắn liền với
sự tồn vong của nền độc lập dân tộc, và ngược lại,
sự tồn vong của đạo pháp biểu thị sự mất hay còn truyền
thống văn hóa của dân tộc VN. Đó là lý do tại sao Phật
giáo luôn luôn là một tôn giáo chính của dân tộc.
Sự
kiện HT. Thích Quảng Đức[1] tự thiêu năm 1963, là sự kiện
lớn trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, mang tính tiêu biểu
cho tinh thần đấu tranh giữ gìn nền độc lập, giữ gìn
nền văn hóa truyền thống của dân tộc và gìn giữ đạo
pháp, nó được thể hiện ở một vị tăng sĩ Việt Nam, là
người mang hai trách nhiệm đạo pháp và dân tộc. Vì sự
nghiệp cao cả này, Hòa thượng với tư cách là một vị tu
sĩ Phật giáo Việt Nam, lại vừa là một công dân Việt Nam,
trong tay không một tấc sắt, lấy nhục thân và trái tim vì
dân vì nước, vì văn hóa vì Phật giáo của chính mình, làm
ngọn đuốc soi sáng nhân gian, kêu gọi sự đoàn kết của
toàn dân tộc, cùng đứng lên yêu cầu một chính quyền tay
sai tàn bạo của gia đình Ngô Đình Diệm, hãy trả lại quyền
tự do tôn giáo, bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc,
chấm dứt chính sách độc tài vong bản và phi nhân. Kết quả
của sự kiện lịch sử đó đã kêu gọi được sự đoàn
kết của dân tộc, giành lại quyền tự do tôn giáo và truyền
thống văn hóa của dân tộc. Một điều đáng tiếc ở đây,
sau sự kiện này mãi cho đến nay, về phía Phật giáo cũng
như mặt nhà nước chưa thấy có một tiếng nói chân chính
nào về sự hy sinh cao cả của Ngài.
Trước
sự kiện tự thiêu này, có người đặt câu hỏi: Sự kiện
tự thiêu của HT. Quảng Đức có mâu thuẫn với giới ‘không
được sát sanh’ của đức Phật không? Để lý giải vấn
đề này, nội dung bài viết này sẽ thảo luận đến những
vấn đề như sau: 1. Tinh thần giáo dục của Phật giáo, 2.
Giới luật và tinh thần giới luật, 3. Tinh thần Bồ tát đạo,
4. Đạo Phật Việt Nam và bối cảnh của nó, 5. Ý nghĩa việc
tự thiêu của HT. Quảng Đức. Đây là toàn bộ nội dung thảo
luận trong bài viết này.
2. Tinh thần
giáo dục của Phật giáo
2.1.
Mục đích giáo dục
Như
chúng ta biết, Phật giáo là một Tôn giáo có chiều dài lịch
sử rất lâu đời. Sự phát triển của Đạo Phật cũng khá
phức tạp, từ Phật giáo nguyên thủy (tính từ Phật thành
đạo đến sau khi Phật nhập diệt vào khoản 100 năm) phát
triển đến Phật giáo Bộ phái; từ Bộ phái phát triển đến
Đại thừa. Mặc dầu mỗi giai đoạn lịch sử, Phật giáo
có những quan điểm và hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng
nhìn chung mục đích giáo dục của Phật giáo có điểm chung
là giải quyết những vấn đề khổ đau cho tự thân mình,
gia đình mình và xã hội. Quan điểm này được các kinh điển
Tiểu thừa cũng như Đại thừa ghi như sau. Trước hết là
Kinh Nikaya.
“…
vì hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho quần chúng, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho
chư thiên và loài người.”[2]
Không
những chỉ có kinh điển Phật giáo Nguyên thủy mà ngay cả
kinh điển Đại thừa “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”[3], đức
Phật cũng nói lên mục đích và ý nghĩa này như sau:
“Vị
nhứt đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế, khai thị chúng
sanh ngộ nhập Phật tri kiến.” ( Lý do duy nhất mà đức
Phật ra đời là làm thế nào để cho tất cả chúng sanh đều
có thể thành đạt tri kiến của Phật.)
Qua
2 nguồn tư liệu của Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo
Đại thừa, nó chứng minh cho chúng ta thấy rằng, mục đích
giáo dục Phật giáo là làm thế nào để cho chính mình và
mọi người đạt đến mục tiêu giác ngộ và giải thoát.
Nói nột cách dễ hiểu hơn, lời giảng của đức Phật đều
có mục đích chung là hướng dẫn cho mọi người, làm thế
nào để chấm dứt những những khổ đau trong cuộc sống
để có đời sống an vui và hạnh phúc.
2.
2. Phương pháp giáo dục
Căn
cứ tinh thần và mục đích giáo dục của đức Phật như
vừa trình bày, phương pháp giáo dục của đạo Phật rất
đa dạng, không có một hình thức cố định nào, tất cả
đều tùy thuộc vào đối tượng cụ thể, lý do chính của
nó là vì trình độ và sự hiểu biết của chúng sanh không
đồng, hơn nữa hoàn cảnh sống của mọi chúng sanh cũng không
giống nhau, do đó khi đức Phật trình bày một vấn đề gì
đều căn cứ vào sự hiểu biết của đối tượng, đó là
lý do tại sao trong kinh điển Phật giáo Đại thừa, tư tưởng
‘phương tiện’ được thiết lập và đề cao, vì không
có tư tưởng phương tiện, thì lời Phật dạy khó có thể
phục vụ con người và xã hội. Để làm sáng tỏ vấn đề,
ở đây chúng ta có thể trích dẫn một vài kinh để minh chứng.
Trong
“Kinh Tương Ưng Bộ” Tập V, ‘Tương Ưng hơi thở vô ra’,
kinh này đức Phật trình bày, một số đông tỷ kheo tu tập
pháp môn bất tịnh, họ cảm thấy nhàm chán cuộc sống này,
muốn tự tử. Đức Phật biết được việc này, khuyên họ
không nên tiếp tục tu tập pháp môn quán bất tịnh nên tu
tập pháp môn quán sổ tức, tức là niệm hơi thở vô hơi
thở ra. Các vị tỷ kheo đã làm y theo lời đức Phật chỉ
dạy, đều mang lại kết quả tốt đẹp và chứng được
thánh quả. Cùng đề cập vấn đề này, trong “Thanh Tịnh
Đạo Luận”, Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) giải thích:
“Khi
một người tu tập một pháp môn không thích hợp thì khó
tiến bộ, lâu đắc thánh quả, khi tu tập một pháp môn thích
hợp thì dễ tiến mau đắc”[4]
Nội
dung và ý nghĩa hai đoạn kinh, luận vừa trích dẫn, nó gợi
ý cho chúng ta hiểu rõ, ý nghĩa về phương pháp giáo dục
của đức Phật luôn luôn thay đổi tùy theo đối tượng,
không cố chấp, không có một hình thức giáo dục cố định
nào có thể làm nguyên tắc chung cho mọi người mọi đối
tượng. Cũng vậy, công việc hoằng dương Phật pháp ở mỗi
thời đại khác nhau, không nên lấy một hình thức nào làm
cái gọi là tiêu chuẩn cho mọi con người và mọi thời đại
khác nhau, lý do chính đáng vì trình độ hiểu biết của mỗi
người trong xã hội không giống nhau, kẻ thông minh người
ám độn, vả lại cuộc sống của từng địa phương không
giống nhau, tín ngưỡng, phong tục tập quán lại không đồng,
do đó lời giảng dạy của đức Phật cũng phải uyển chuyển
theo căn cơ và trình độ của chúng sanh mà thiết lập giáo
pháp. Tinh thần phóng khoáng này đã được Phật giáo Đại
thừa vận dụng một cách nhuần nhuyễn. Phẩm ‘Phương tiện’
trong “Kinh Pháp Hoa” là một điển hình cụ thể.
Xuất
phát từ những tinh thần cơ bản này, chúng ta có thể hình
dung lý giải tại sao trong Phật giáo có sự tranh luận về
‘5 việc của Đại thiên’ hay ‘Thập sự phi pháp’. Điều
đó biểu thị quá trình diễn biến của đạo Phật đã phát
sinh giữa hai dòng tư tưởng một bên là bảo thủ và một
bên là canh tân. Kết quả của sự tranh luận này đã không
có điểm đồng nhất, cho nên nội bộ Phật giáo đã chia
thành hai phái là Đại thừa và Tiểu thừa. Xét cho cùng, cho
dù là Đại thừa hay Tiểu thừa, Phật giáo phát triển cho
đến nay, hình thức sinh hoạt của từng phái vẫn bị thay
đổi theo thời gian và không gian, tư tưởng cũng có khá nhiều
điểm thêm vào, không còn như xưa nữa. Đây là sự thật
lịch sử phát triển của Phật giáo, không ai phủ nhận.
Căn
cứ tinh thần ‘Phương tiện’ trong hai hệ kinh điển của
Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa, cho phép chúng ta nghiên
cứu đến vấn đề ‘giới luật’. Giới luật có phải
chăng là những qui định không thay đổi, mọi người xuất
gia phải triệt để thi hành? Nếu như quan điểm này là đúng,
thì vấn đề được đặt ra là, trong giới luật của tỷ
kheo hay tỷ kheo ni có khá nhiều giới điều không còn phù
hợp nữa, ngoài những giới đã được ghi rõ trong luật,
hiện nay có nhiều vấn đề là người xuất gia không nên
làm, nhưng lại không được qui định cụ thể trong giới
luật, thế thì người xuất gia có thể sử dụng được không?
Nếu như không được thì chúng ta căn cứ từ đâu? Đây chính
là vấn đề giới luật và tinh thần giới luật sẽ được
thảo luận ở phần dưới đây. Nó chính là yếu tố cơ bản
để lý giải vấn đề ‘tự thiêu’ của Hòa thượng Quảng
Đức và giới ‘không sát sinh’ trong đạo Phật.
3. Giới luật
và tinh thần giới luật
Thánh
điển của Phật giáo bao gồm Kinh Luật và Luận tạng. Luật
là những qui định cụ thể, là nguyên tắc sống cho các hàng
đệ tử xuất gia và tại gia. Hiện nay luật tạng còn để
lại là những bộ luật của các bộ phái, được kiết tập
sau khi đức Phật nhập diệt. Theo tôi, thật ra trong thời
kỳ Phật còn tại thế không có sự phân chia tách biệt thành
từng bộ, gọi là kinh luật và luận. Trong lời Phật dạy
(kinh) đã ẩn chứa trong đó tinh thần giới luật, từ tinh
thần này về sau, căn cứ từng đoàn thể xuất gia sống theo
từng địa phương, hình thành những qui định cụ thể, nhằm
gìn giữ nếp sống tu tập cho tăng đoàn cố định nào đó,
cũng từ đó những bộ luật hình thành. Tính chất và mục
đích của giới luật như thế nào như đã được liệt kê
trong “Luật Ma ha Tăng kỳ”[5]. Quan điểm này đã được
HT. Ấn Thuận giải thích như sau:
“Sau
khi đức Thế Tôn thành chánh giác, Ngài đã tuyên dương giáo
pháp. Giáo pháp mà đã được đức Phật trình bày chỉ là
những điều Ngài chứng ngộ, do vậy Pháp là tất cả Phật
pháp. Đức Phật là một vị xuất gia, Ngài thuyết pháp độ
sanh bèn có người theo ngài xuất gia. Chúng đệ tử theo ngài
xuất gia càng ngày càng nhiều, không thể không có tổ chức,
do vậy, y cứ theo chánh pháp để hóa nhiếp tăng già (Y pháp
nhiếp tăng) mà hình thành chế độ Tăng già…Nói đến, chế
độ nhiếp tăng, nội dung không giống nhau, nhưng chủ yếu
vấn đề là chế độ của một đoàn thể. (1) Vì có một
số người xuất gia, có những hành vi không đạo đức, với
mục đích tìm cầu kinh tế, điều đó không những làm chướng
ngại việc tu chứng cá nhân người đó, còn phá hoại cho
đoàn thể Tăng già, do đó đức Phật chế định giới luật,
là những qui định mà những người xuất gia cần phải tuân
giữ;… (4) Cùng là những người xuất gia trong Phật pháp,
cần chế độ thống nhất về những hành vi của tăng già,
như những vấn đề đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, khất
thực…”[6]
Tóm
lại, mục đích đức Phật thiết lập giới luật không ngoài
hai nhiệm vụ chính là bảo vệ cộng đồng tăng già sống
trong sự hòa hợp thanh tịnh bình đẳng và hướng đến giác
ngộ và giải thoát. Do vậy, giới luật trong đạo Phật có
ý nghĩa cụ thể và thực tế, không phải là những giới
điều suông và không có giá trị trên thực tế. Ví dụ, điều
thứ 27 trong 30 điều Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề qui định về
việc mặc y tắm mưa, cũng như điều thứ 89 của pháp Ba-dật-đề
qui định về việc làm y tắm mưa. Điều này không còn giá
trị ở xã hội chúng ta, vì đời sống tăng ni của xã hội
ngày nay là cuộc sống định cư, mỗi nơi cư trú cho tăng
ni đều có phòng tắm, không một tỷ kheo, tỷ kheo ni nào đi
tắm mưa, không giống như tăng già sống vào thời đức Phật,
có cuộc sống di cư, nay chỗ này mai chỗ khác, không có nhà
tắm, nhân dịp trời mưa các tỷ kheo đi tắm mưa, do đó mà
có qui định về việc may áo mưa và tắm mưa. Qui định này
chỉ có giá trị, khi tăng già sống đời sống di cư, sống
trong rừng núi, nó sẽ không có giá trị khi đời sống tăng
già đã thay đổi, xã hội thay đổi. Hoàn cảnh xã hội thay
đổi thì qui định sống cũng sẽ phải thay đổi. Thế thì
cái gì là cái không bị thay đổi? Theo tôi đó là tinh thần
của giới luật. Cái gì gọi là tinh thần giới luật? Ở
đây chúng ta có thể vay mượn một bài kệ số 183 trong “Kinh
Pháp cú”[7] lý giải về nghi vấn này.
Không
làm các điều ác,
Thành
tựu các hạnh lành,
Giữ
tâm ý trong sạch.
Đó
là lời chư Phật dạy.
Nội
dung và ý nghĩa bài kệ này, đức Phật khuyên chúng ta không
nên làm những điều ác, hãy làm những việc lành. Vì theo
đức Phật, làm những điều ác là nguyên nhân của khổ đau,
là nguồn gốc sanh tử luân hồi, đưa đẩy chúng sanh lặn
hụp trong sáu cõi. Đó là ý nghĩa và mục đích giáo dục
của đức Phật, cũng là tinh thần đạo đức của Phật giáo.
Như vậy, cái gì là ‘điều ác’? Những việc sát sanh, trộm
cướp, dâm dục, nói lời không thật, uống rượu… là những
hành vi cụ thể của điều ác. Ngược lại, những gì là
việc ‘lành’? Đó là từ bỏ những hành vi vừa đề cập.
Như vậy, giới luật cơ bản của đức Phật là: (1). Không
được sát sanh, (2). Không được trộm cắp, (3). Không được
tà dâm (xuất gia không được dâm dục), (4) Không được nói
láo, (5) Không được uống rượu. Tthế nhưng, nếu như chúng
ta có một loại bịnh nào cần đến rượu mới chữa khỏi,
người Phật tử có nên uống không? Theo nhà Phật không phải
là vấn đề uống hay không uống, giết hại hay không giết
hại, chủ yếu vấn đề là mục đích hay động cơ của việc
uống rượu đó là gì, mang tâm thiện hay tâm ác? Đây chính
là ý nghĩa được giải thích trong “Kinh Chánh Kiến”[8]
“Chư
hiền ! Thế nào là bất thiện? Thế nào là căn bổn bất
thiện? Thế nào là thiện? Thế nào là căn bổn thiện? Chư
hiền, sát sanh…là ‘bất thiện’ như vậy gọi là bất
thiện. Chư hiền, thế nào gọi là ‘căn bổn bất thiện’?
Tham lam, sân hận và ngu si là căn bổn bất thiện, như vậy
gọi là căn bổn bất thiện; Chư hiền, thế nào là ‘thiện?
Từ bỏ sát sanh…là thiện, như vậy gọi là thiện; Chư hiền,
thế nào gọi là căn bổn thiện? Chư hiền, không tham lam,
không sân hận và không ngu si là căn bổn thiện, như vậy
được gọi là căn bổn thiện.”
Đoạn
kinh vừa dẫn trên, đức Phật giải thích 4 vấn đề cơ bản
là bất thiện và căn bổn bất thiện, thiện và căn bổn
thiện. Ý nghĩa này phân tích cho chúng ta hiểu rõ rằng, nguồn
gốc của hành vi bất thiện là lòng tham lam, sân hận và ngu
si, cũng vậy nguồn gốc của việc lành chính là lòng không
tham lam, sân hận và si mê. Hay nói một cách khác động cơ
dẫn đến hành động mang tính bất thiện được biểu hiện
bên ngoài, chính là tham, sân và si và ngược lại hành vi thiện
được thể hiện ra bên ngoài xuất phát từ lòng không tham
lam, sân hận và ngu si. Điều đó cũng gợi ý cho chúng ta hiểu
rằng, đôi lúc có những hành vi biểu hiện bên ngoài mang
tính thiện, nhưng thựcc chất với một ý đồ của tâm rất
xấu xa và đen tối, những hành vi này theo sự phân tích của
đạo Phật cũng không được xem là việc lành, không phù hợp
lời dạy của đức Phật. Ví dụ có người vay mượn Phật
pháp để làm những việc bất chính. Phật pháp là cái hay
cái đẹp, nhưng với tâm của người vay mượn đó thì quá
xấu xa, Phật pháp cũng trở thành xấu. Ngược lại, có những
hành vi được thể hiện bên ngoài không mấy tốt đẹp, nhưng
người làm với tâm trong sạch và sáng suốt, thì hành vi này
vẫn được xem là hành vi thiện. Như vậy, tính không tham
không sân hận và không ngu si là tinh thần của giới luật.
Bất cứ hành vi nào dù đó là hành vi bất chính, nhưng nó
liên kết với lòng không tham sân và si thì hành vi đó được
định nghĩa là ‘thiện’. Có thể nói đây là tinh thần
cơ bản của giới luật trong Phật giáo.
Giới
luật mà đức Phật thiết lập, luôn luôn dựa vào tinh thần
giác ngộ và giải thoát. Điều kiện để được giác ngộ
giải thoát luôn luôn gắn liền với đặc tính không tham lam,
sân hận và ngu si. Rời bỏ 3 đặc tính này mà thiết lập
hay hành trì giới luật đều là ‘phi Phật pháp’.
Căn
cứ vào tinh thần này, chúng ta có thể lý giải được sự
kiện HT. Quảng Đức tự thiêu và giới ‘Không sát sanh’
trong nhà Phật không bị mâu thuẫn. Lý do vì Bồ tát Quảng
đức tự thiêu không phải lòng tham lam quyền lực, hay bất
cứ địa vị danh vọng nào, cũng không phải vì lòng sân hận,
càng không phải là hành động si mê, mà ngược lại Ngài
rất sáng suốt tỉnh táo, với trái tim muốn được bảo tồn
nền văn hóa truyền thống của dân tộc được gìn giữ,
tôn giáo được bình đẳng. Với tấm lòng và ý chí đó Ngài
đã tự mình đốt thân với mục đích kêu gọi làm thức
tỉnh chính quyền kỳ thị tôn giáo và tay sai cho nước ngoài
của chính quyền Ngô đình Diệm. Hành vi tự thiêu này, theo
đức Phật không khuyến khích, nhưng nó không vi phạm đến
tinh thần giới luật của Phật giáo.
4. Bồ tát đạo
4.
1. Tinh thần Bồ Tát đạo
Bồ
tát là từ viết tắt và dịch âm từ tiếng Phạn là ‘bodhi-sattva’.
Bodhi (bồ đề) có nghĩa là ‘giác ngộ’, sattva (tát đoả)
nghĩa là ‘hữu tình’, chỉ cho những loài chúng sanh có tỉnh
thức; hai từ này ghép lại dịch âm là ‘Bồ đề tát đoả’,
có nghĩa là giác hữu tình, tức là Bồ tát không những tự
mình đã giác ngộ (tự giác) mà còn đem những điều giác
ngộ đó làm lợi ích cho chúng sanh, như vậy được gọi là
Bồ tát.
Sự
hình thành tinh thần Bồ Tát đạo của Phật giáo Đại thừa,
có thể nói được xuất phát từ “Kinh Bổn Sanh” (jataka),
là một bộ kinh tường thuật tỉ mỉ về tiền thân đức
Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá khứ, Ngài đã trải qua vô lượng
kiếp tu tập, không giới hạn chỉ dưới hình thức của một
người xuất gia mà thể hiện qua nhiều hình tướng, có thể
một vị vua Chuyển luân thánh vương, Bà La môn, Sát đế lợi,
Thủ đà la, một vị cư sĩ, một Công chúa…với ý nghĩa
đề cao tinh thần vị tha cứu giúp chúng sanh của Ngài. Đức
Phật Thích Ca sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni và thành Phật tại
Bồ đề đạo tràng chỉ là một sự kiện thị hiện của
đức Phật, vì ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp trong
quá khứ, mỗi một lần thị hiện với một hình thức là
một vị Bồ Tát với một hạnh nguyện làm lợi lạc cho quần
sanh, đáp ứng tất cả những gi chúng sanh yêu cầu, miễn
sao chúng sanh được vui sướng là ngài mãn nguyện, cho dù
việc làm đó có ảnh hưởng không tốt đối với cuộc sống
của ngài, đôi lúc ngài hy sinh cả tính mạng, vợ con, tài
sản…Ngài đều vui lòng cam chịu tất cả[9].
Tư
tưởng Bồ Tát trong “Kinh Bổn Sanh” là cơ sở để phát
triển và hình thành tinh thần Bồ Tát đạo theo hệ tư tưởng
của kinh điển Đại thừa. Quá trình phát triển tư tưởng
này khá phức tạp. Thật ra, ở thời kỳ “Kinh Tạp A hàm”,
“Kinh Trung A hàm” hoặc “Kinh Tương Ưng Bộ”,“Kinh Trung
Bộ” khái niệm Bồ tát cũng đã được đề cập, nhưng
với ý nghĩa rất đơn thuần, khái niệm Bồ tát chỉ cho đức
Phật Thích Ca Mâu Ni khi chưa xuất gia còn là một vị cư sĩ,
chưa thành đẳng chánh giác. Như trong ‘Kinh Bồ Đề Vương
Tử’ đức Phật nói: ‘Ta trước khi giác ngộ, thành bậc
chánh đẳng giác, khi còn là vị Bồ tát’[10]. Câu kinh này
biểu thị ý nghĩa đức Thích Ca Mâu Ni khi chưa thành Phật,
nhưng từ Kinh A hàm đến thời đại của “Kinh Bổn Sanh”
thì khái niệm về Bồ Tát hoàn toàn đổi khác, nhất là đến
giai đoạn Phật giáo Đại thừa, khái niệm Bồ tát chỉ cho
những vị đã giác ngộ, chỉ vì muốn thực hành chí nguyện
độ sanh mà ở ngôi vị Bồ tát[11].
4.
2. Thực hành Bồ tát đạo (Sáu ba la mật)
Hạnh
nguyện của Bồ tát lấy việc độ sanh làm mục đích, do
vậy cần có tinh thần lăn xả thể nhập vào xã hội, tiếp
cận quần chúng, tùy thuận chúng sanh thực hiện bản nguyện
độ sanh của mình. Quan điểm này trái với tinh thần tu tập
của Phật giáo nguyên thủy, đức Phật luôn luôn khuyên các
vị tỷ kheo tìm một nơi an tịnh vắng vẻ, như trong rừng
núi…tránh xa làng xóm, để tu tập thiền định. Như chúng
ta thấy xã hội là nơi rất phức tạp, tiền tài, sắc đẹp,
danh vọng, ăn uống nhậu nhẹt…đều ở trong đó, tất nhiên
nó không phù hợp cho người mới xuất gia học đạo, công
tu tập chưa dày, kinh nghiệm chưa có, rất dễ bị cám dỗ,
vì chúng có sức quyến rũ cực mạnh. Do vậy, Bồ tát muốn
hội nhập xã hội để độ sanh điều kiện tiên quyết phải
có tinh thần ‘vô ngã vị tha’ và lòng ‘từ bi’. Vô ngã
là không còn có khái niệm tự ngã, vì có tự ngã sẽ có
ngã sở, có ngã sở tức có sự chấp trước về ‘của mình’
và ‘của người’, như vậy sẽ không có tâm bình đẳng
khi thực thi hạnh nguyện độ sanh, do vậy cần có tinh thần
‘vô ngã vị tha’. Tinh thần vô ngã vị tha không phải tự
nhiên mà có, phải dày công tu học Phật pháp, giác ngộ chân
lý; hay nói đđúng hơn là phải có trí tuệ. Trí tuệ mới
có chức năng chặt đứt mọi chấp trước và phiền não.
Điều kiện thứ hai là Bồ tát phải có lòng ‘từ bi’.
Tại sao phải có điều kiện này? Vì xã hội là một nơi
rất phức tạp, đủ mọi hạng người ở trong đó, do vậy
khi gặp chướng duyên, nếu không có lòng từ bi Bồ tát dễ
sanh tâm hận thù và thối chí độ sanh, lòng từ bi có chức
năng làm lắng dịu tất cả sự không bằng lòng, tăng thêm
nghị lực độ sanh. Đây là hai điều kiện cơ bản cho Bồ
tát thực hành chí nguyện độ sanh.
Dựa
vào tinh thần cơ bản này, Phật giáo Đại thừa lấy 6 ba
la mật (pràmita) làm phương tiện độ sanh cho người thực
thi tinh thần Bồ tát hạnh. Như trong “Kinh Ma ha Bát nhã Ba
la mật đa” đức Phật giải thích:
“Sáu
Ba la mật là con đường của Bồ tát, là ánh sáng, là bó
đuốc, là trí tuệ…”[12]
Đồng
thời, trong “Kinh Đại Bát Niết bàn” đức Phật cũng giải
thích như sau:
“Này
Thiện nam tử, Bồ tát ma ha tát cần phải tu tập sáu Ba la
mật, nhưng không cầu kết quả của việc tu tập sáu Ba la
mật. Khi tu tập pháp vô thượng Ba la mật nên phát nguyện
rằng: Ta nay lấy pháp sáu Ba la mật này vì tất cả chúng
sanh mà phục vụ, chúng sanh được sự phục vụ của ta, chỉ
mong rằng tất cả chúng đều được chứng nhập A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề. Trong khi tu tập pháp Sáu Ba la mật
này, nguyện cam chịu tất cả những loại khổ não, trong khi
khổ não ta quyết không thối tâm Bồ đề.”[13]
Có
thể nói, Sáu ba la mật là con đường thực thi tinh thần Bồ
tát đạo, ứng dụng tinh thần độ sanh của Bồ tát vào cuộc
đời, như tình cảm của người mẹ nuôi con, không có một
thoáng suy nghĩ tư lợi, trục lợi cho chính bản thân mình,
sẵn lòng cam chịu tất cả khổ nhọc, và còn hơn thế nữa,
Bồ tát có thể hy sinh tánh mạng của mình để mưu cầu hạnh
phúc và an lạc cho chúng sanh. Tinh thần đó đã được thể
hiện rất rõ nét ngang qua ‘Phẩm Bồ tát Thường Bất Khinh’
trong “Kinh Pháp Hoa”. Ở đây, được miêu tả Bồ tát có
thể cam chịu tất cả những lời chưởi mắng khinh khi, đánh
đập, thậm chí cho đến sự hy sinh tính mạng của chính mình,
chỉ vì mục đích cầu Phật đạo và cứu độ chúng sanh.
Không
còn nghi nghờ gì nữa, HT. Thích Quảng Đức tiếp nối tinh
thần này, bằng trái tim thương dân mến nước, yêu chuộng
hòa bình và chế độ bình đẳng, Ngài đã lấy nhục thân
của chính mình làm ngọn đuốc soi đường thức tỉnh cho
một chính phủ vong bản đương thời, chỉ vì mục đích mong
cầu chính phủ đương thời có chính sách bình đẳng Tôn
giáo, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Tinh thần đó đáng được
ca ngợi tán dương, và cho dù dưới hình thức nào nó vẫn
luôn sống với những người con Phật và những người có
ý thức cao độ về dân tộc.
Sáu
ba la mật bao gồm: 1. Bố thí, 2. Trì giới, 3. Nhẫn nhục,
4. Tinh tấn, 5. Thiền định, 6. Trí tuệ. 1.Bố thí, tiếng
Phạn gọi là dana, nghĩa là thí xả. Từ bố thí trong Phật
giáo Đại thừa hàm chứa ý nghĩa rất rộng, không giới hạn
chỉ bố thí vật chất và pháp thí mà còn mang ý nghĩa bố
thí vợ con và ngay cả thân mạng của chính mình. Chuyện tiền
thân của đức Phật Thích Ca lấy thân mình để cứu một
con cọp đói là một ví dụ điển hình. Đây là loại văn
hóa đề cao tính hi sinh của các nước thuộc vùng Trung Đông
được Phật giáo hấp thu, khi Phật giáo truyền qua vùng lãnh
thổ này… Quan điểm này có ảnh hưởng đến những vấn
đề xả thân vì đạo của Phật giáo, 2. Trì giới, tiếng
Phạn gọi là sila, nghĩa là những giới điều có khả năng
ngăn chận những hành vi bất thiện. Giới gồm có giới của
người tại gia và giới của người xuất gia. Nhưng đặc
biệt giới của Bồ tát không giới hạn chỉ có người xuất
gia mà người tại gia cũng được thọ trì. Giữ giới không
mang ý nghĩa tiêu cực chỉ không làm các việc ác, mà còn
mang ý nghĩa phát huy việc lành. Giới thể của Bồ tát chính
là lòng không tham không si, 3. Nhẫn nhục, tiếng Phạn gọi
là Ksantipar, có nghĩa là sự nhẫn nhục, khi Bồ tát gặp hoàn
cảnh không thuận lợi bị người nhiếc mắng, phỉ nhổ…Bồ
tát cần phải có lòng nhẫn nhục để chịu đựng, mới có
thể tiếp tục sự nghiệp hóa độ chúng sanh; 4. Tinh tấn,
tiếng Phạn gọi là virya, có nghĩa là siêng năng tinh tấn,
nó là cái đối trị tính lười biếng, nó có chức năng thúc
đẩy, khích lệ Bồ tát hành đạo không biết mỏi mệt, kích
thích những việc thiện nào chưa sanh được sanh, những việc
thiện nào đã sanh được tăng trưởng, đó là chức năng
của tinh tấn; 5. Thiền định, tiếng Phạn gọi là Dhyana,
nghĩa là tịnh lự. thiền định có chức năng khiến cho hành
giả thân thể được khinh an, tâm được định tĩnh, không
tạp loạn; 6. Trí tuệ, tiếng Phạn gọi là prajna, nghĩa là
trí tuệ. Khái niệm trí tuệ trong Phật giáo định nghĩa không
tương đồng với sự thông minh hiểu biết của thế gian.
Chúng ta có thể định nghĩa từ trí tuệ bằng một từ khác
là ‘như thật tuệ tri’ hay ‘như lý tác ý’ là sự hiểu
biết đúng như sự thật, không phải là sự tưởng tượng
hay trạng thái ảo tưởng. Khái niệm này được trong “Kinh
Pháp Hoa” mô tả là ‘thập như thị’, vì trí tuệ là sự
hiểu biết đúng như sự thật, cho nên trí tuệ có khả năng
đoạn trừ phiền não, chặt đứt con đường dẫn đến khổ
đau, trong khi đó sự thông minh hiểu biết của thế gian không
làm được trách nhiệm này, đó là lý do tại sao khái niệm
trí tuệ không đồng nghĩa với từ hiểu biết của thế gian.
Trong
sáu ba la mật này, Bồ tát lấy bố thí làm mục tiêu hành
động, lấy trì giới, nhẫn nhục và tinh tấn làm phương
tiện độ sanh, lấy định và tuệ làm ngọn đuốc soi đường.
Như vậy, sáu Ba la mật là một phương pháp độ sanh toàn
hảo, không rơi vào sự sai lầm, và Bồ tát sẽ không bị
cám dỗ, khi lăn xả hoà nhập vào xã hội thực thi công việc
độ sanh. Đó là nội dung và ý nghĩa của tinh thần Bồ tát
đạo trong hệ tư tưởng Phật giáo Đại thừa..
Nếu
như 6 Ba la mật là phương tiện cho Bồ tát độ sinh thì việc
tự thiêu của Hòa thượng là hành vi của Bồ tát trong thời
hiện tại. Ngài lấy thân mình làm ngọn đuốc bố thí cho
dân tộc, đó là Bố thí Ba la mật; Ngài luôn kiên trì giữ
cho thân và tâm mình không bị rơi vào con đường danh lợi,
đó là sự trì giới giữ giới Ba la mật; Ngài chấp nhận
mọi sự nguyền rủa phỉ báng của đối phương của những
người chà đạp văn hóa dân tộc, đó là thái độ nhẫn
nhục Ba la mật của Hòa thượng; Ngài luôn luôn nỗ lực và
giữ tâm chân chánh đối với sự nghiệp kêu gọi tự do và
bình đẳng tôn giáo, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
đó là sự tinh tấn Ba la mật. Trong lúc ngọn lửa đốt cháy
thân mình mà Ngài vẫn an nhiên, đó là thiền định Ba la mật.
Suy tư của Ngài luôn luôn luôn vì tôn giáo vì văn hóa của
dân tộc, đó là một tâm hồn với trí tuệ Ba la mật. Như
vậy, sự kiện tự thiêu của HT. Quảng Đức là hành vi của
một vị Bồ tát hóa thân.
5. Đạo Phật
Việt Nam và bối cảnh của nó
Nếu
như Phật giáo được truyền vào Việt Nam vào đầu thế kỷ
thứ II SCN, tính cho đến nay, thì Phật giáo Việt Nam đã có
chiều dài lịch sử gần 2000 năm cộng tồn với dân tộc.
Điều đó nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, Phật giáo và
dân tộc có mối quan hệ rất thiết thân và ôn hòa. Cho đến
nay, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và lịch sử dân tộc
Việt Nam vẫn chưa một lần nào ghi sự bất hòa giữa Phật
giáo và dân tộc, chỉ có ghi rằng, Phật giáo đã đóng góp
khá nhiều cho nền văn hóa dân tộc, nhất là công cuộc gìn
giữ bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đây là điều mà các
nhà lãnh đạo Phật giáo và đất nước cần chú ý và phát
huy sự đóng góp cao đẹp đó.
Nghiên
cứu tính đặc thù của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không
thể không nghiên cứu đến bối cảnh đất nước mà bản
thân Phật giáo đang sinh tồn. Có nghĩa là người nghiên cứu
cần phải phân tích và đánh giá tình hình kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội…của đất nước Việt Nam, vì nó
không nhiều thì ít có ảnh hưởng trực tiếp đến cách tư
duy và hành động cụ thể của Phật giáo ở Việt Nam. Nói
cách khác, Phật giáo muốn hoằng dương Phật pháp cho ai và
ở đâu, phải căn cứ vào cách suy nghĩ và nhu cầu thực tế
của người dân ở đó mới thiết lập một phương pháp thích
nghi để đáp ứng cho con người đó và địa phương đó.
Thế thì bối cảnh hay điểm đặc thù của Việt Nam là gì?
Theo tôi có hai đặc điểm: Trước nhất là nền kinh tế nông
nghiệp không phát triển. Trên thực tế nền kinh tế chủ
yếu của Việt Nam là nông nghiệp. Hầu hết người Việt
Nam sống bằng nghề nông, bám vào thửa ruộng mảnh vườn,
cày cấy trồng trọt làm phương tiện sống qua ngày, đời
sống người dân thật lam lũ. Đó chính là lý do chính đáng
để lý giải tại sao người dân Việt Nam có thói quen sống
trong tinh thần ‘làng’ ‘xóm’. Thật ra ‘làng’ ‘xóm’
là khái niệm tập thể, nhiều nhà nhiều gia đình chung nhau
mà sống. Tinh thần ‘làng’ xóm’ là tinh thần ‘tương
thân tương ái’, ‘lá lành đùm lá rách’. Điều đó nói
lên rằng, về mặt nhà nước không đủ sức giải vấn đề
công việc, đời sống cho người dân, người dân phải tự
giải quyết. Người dân lại quá nghèo khổ, không tự nuôi
bản thân nổi, ai cũng khó khăn, gia đình nào cũng thiếu hụt
cho nên phải cần, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách.
Cuộc sống đã nghèo đã khổ cho nên cần phải nương tựa
vào nhau, chia bùi xẻ ngọt với nhau mà sống, ai cũng nghèo
cả, nhưng khi trong xóm có người hoạn nạn, thì hãy nhín
một chút giúp cho nhau qua cơn hoạn nạn, và cứ thế duy trì
cuộc sống.
Đời
sống của người dân Việt Nam đã như thế thì Phật giáo
Việt Nam không thể là một tầng lớp quí tộc ăn trên ngồi
trước, cuộc sống xa hoa. Ngôi chùa không phải là cung điện
nguy nga lộng lẫy, mà là nơi thờ lễ bái, giữ gìn giềng
mối đạo đức văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhà sư
cũng không phải là những nhà triết học thông thái, với
những lý luận triết lý siêu hình, mà là những nhà tu chơn
chất mộc mạc bình dị, sống cuộc đời tương chao dưa muối,
với phương pháp giáo dục đơn giản nhẹ nhàng, khuyên dân
nên làm việc lành lánh điều dữ, với phương pháp tu tập
ngồi thiền tụng kinh hay niệm Phật, không đi vào triết lý
sâu xa. Không chỉ có thế, Phật giáo còn phải đảm đương
những công việc như là chữa bịnh, lo các ma chay cho dân làng,
dân có bịnh có điều buồn phiền thì đến chùa lạy Phật
lạy Bồ tát cầu được gia hộ, sau đó nhà sư cho mấy viên
thuốc nam về uống. Tình cảm giữa thầy và trò rất thâm
tình như thế, đạo Phật Việt Nam trong quá khứ đến với
dân với nước là thế. Có lẽ đó là lý do tại sao tục
ngữ dân gian Việt Nam có câu: Mái chùa che chở hồn dân tộc,
nếp sống muôn đời của tổ tiên’.
Ngoài
yếu tố này, còn có một yếu tố không kém phần quan trọng,
có ảnh hưởng đến nền kinh tế…đạo Phật Việt Nam, đó
là ‘chiến tranh’. Có thế nói, đất nước Việt Nam nghèo
khổ, kinh tế Việt Nam không phát triển, cần được liên
hệ đến yếu tố này. Một thời gian dài trong quá khứ, Việt
Nam luôn luôn ở trong tình thế sẵn sàng chiến tranh chống
ngoại xâm, gần 1000 năm chống Tàu, rồi 100 chống Pháp, rồi
lại đến cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đạo lý ở đâu có
lẽ tùy theo lập trường của mọi người, tôi không can thiệp
vào ý kiến cá nhân, nhưng ở đây tôi chỉ đề cập đến
vấn đề là Phật giáo Việt Nam gánh chịu hậu quả xấu
từ những cuộc chiến không ít. Đất nước đang bị ngoại
xâm đe dọa nền độc lập, có lý nào Phật giáo lại ngồi
trong đại điện tụng kinh niệm Phật. Có lý nào truyền thống
văn hóa dân tộc đang bị ngoại bang và những người tiếp
tay ngoại bang chà đạp, Phật giáo lại mặc nhiên phó thác
cho vận mệnh? Trước tình thế ấy, Phật giáo đã nhận chân
và ý thức rằng, dân tộc còn thì Phật giáo còn, văn hóa
truyền thống dân tộc mất thì Phật giáo cũng mất theo, đất
nước độc lập thì Phật giáo có cơ may phát triển. Đó
là những lý do chính đáng mà Phật giáo cùng vai sát cánh
cùng dân tộc ngăn chận những ý đồ đen tối của ngoại
xâm. Chính hai yếu tố này Phật giáo Việt Nam đã hình thành
tư tưởng và phương pháp hành đạo cho Phật giáo Việt Nam,
nó luôn luôn gắn liền với bối cảnh xã hội.
Qua
đó chúng ta thấy, lịch sử đất nước Việt Nam là một
lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm. Đất nước Việt Nam
tuy nhỏ nhưng không nhỏ về mặt tinh thần đoàn kết, nhân
dân Việt Nam tuy nghèo nhưng không nghèo tinh thần chiến đấu.
Phật giáo Việt Nam tuy đơn sơ, nhưng không đơn sơ tinh thần
nhập thế.
Phật
giáo là một tôn giáo lấy sự giác ngộ và giải thoát làm
mục tiêu hay nói một cách nôm na là một Tôn giáo diệt khổ.
Một trong những nỗi khổ của con người, đó là nỗi khổ
về về đất nước bị ngoại xâm, văn hóa truyền thống
bị phá hoại. Nỗi khổ này chính đức Phật là người có
kinh nghiệm hơn ai hết vì đất nước của Ngài bị đe dọa
bởi nước láng giềng là Kiều Tát La hùng mạnh. Ngài tự
nhận thấy rằng, nước Ca Tỳ La Vệ không thể đương đầu
với một nước như Câu Tát La, nên Ngài đã chọn con đường
chuyển luân pháp vương để cứu đất nước khỏi nạn đạo
binh. Điều chọn lựa của Ngài đúng như dự đoán, khi Ngài
trở thành bậc chánh đẳng chánh giác, Ngài đã hóa độ nhà
vua nước Câu Tát La; nhà vua trở thành đệ tử của Ngài,
do vậy Ca Tỳ La Vệ không rơi vào con đường chinh chiến.
Sự kiện này, nói lên một điều, chính đức Phật là người
rất quan tâm đến vấn đề tồn vong của đất nước, chúng
ta là đệ tử của Ngài lại không quan tâm khi đất nước
lâm nguy sao? Theo tôi, với một nhà tu sĩ Phật giáo thì tinh
thần bảo vệ tổ quốc là một nhiệm vụ, vì đất nước
có bình yên thì việc tu tập mới thuận duyên. Không thể
ngồi tu hành trong khi đất nước lâm nguy, dân tộc rối loạn.
Đó là lý do tại sao khi Phật giáo truyền đến Việt Nam,
Phật giáo lấy nỗi lo của dân tộc làm nỗi lo của mình.
Trong các phong trào chống ngoại xâm, giữ gìn nền độc lập
dân tộc, Phật giáo luôn luôn kề vai sát cánh với dân tộc,
làm tất cả những gì mình có thể.
Dẫu
rằng Phật giáo chủ trương một xã hội hòa bình, nhưng không
mang ý nghĩa làm ngơ trước sự bất công của xã hội. Dẫu
Phật giáo lấy tinh thần từ bi bác ái làm phương châm hành
động, nhưng không chấp nhận một quan điểm ‘ỷ mạnh hiếp
yếu’. Dẫu Phật giáo là một tôn giáo xuất phát từ Ấn
Độ, nhưng quan điểm của Phật giáo không có biên giới về
lãnh thổ, không có phân biệt giữa người với người, Phật
giáo ở đâu thì ở đấy là quê hương, là đất nước của
mình, cần phải được bảo vệ đất nước đó. Phật giáo
chưa từng có ý thức muốn thay đổi văn hóa Việt Nam thành
văn hóa Ấn độ. Phật giáo đến Việt Nam, lấy văn hóa Việt
Nam làm gốc, chẳng qua Phật giáo chỉ giúp cho dân tộc đó
nhận thức được nguyên tắc sống, giúp cho dân tộc đó
biết đâu là thiện đâu là ác, đâu là khổ đau, đâu là
hạnh phúc. Đó là tinh thần của Phật giáo, tinh thần đó
được truyền vào Việt Nam được nhân dân Việt Nam hoan nghênh
và chào đón, nó giống như viên thuốc bổ trợ lực cho dân
tộc, nhất là tinh thần Bồ tát đạo là tinh thần hòa nhập
xã hội của Phật giáo đại thừa. Có thể nói,đây là điểm
đặc thù của Phật giáo Việt Nam.
6. Ý nghĩa việc
tự thiêu của HT. Quảng Đức
Mỗi
quốc gia có một lãnh thổ riêng, có một truyền thống văn
hóa riêng, một ngôn ngữ riêng, có một tình cảm và một
niềm tin riêng. Sự khác biệt này, nói lên tính đặc thù
biểu tượng của nền văn hóa của một dân tộc. Văn hóa
đó là đứa con thân yêu, được dân tộc đó nuôi nấng vun
bồi từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó đẹp hay xấu
đúng hay sai, chúng ta không thể đứng từ góc độ của một
dân tộc khác đánh giá về nó, và thật sự cũng không cần
ai khen hay chê, xấu hay tốt cũng là văn hóa của dân tộc,
không thể thay khác được. Được sinh ra từ nền văn hóa
nào thì mới cảm nhận hết cái cảm giác thân thương của
nền văn hóa đó, không ai chấp nhận thay người mẹ của
mình bằng người mẹ khác, thay văn hóa dân tộc của mình
bằng loại văn hóa khác. Cũng vậy, Việt Nam là một nước
độc lập tự chủ, có một nền văn hóa riêng, có niềm tin
tín ngưỡng riêng, không ai có quyền thay đổi văn hóa, niềm
tin của dân tộc Việt Nam. Thế mà gia đình Ngô Đình Diệm
lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, cấu kết với ngoại
xâm, thông đồng với Vatican với ý đồ đen tối bành trướng
thế lực chính trị, củng cố địa vị cho gia đình, biến
Việt Nam thành một nước của Chúa, dùng quyền lực của
mình để thực thi nhiều chính sách đàn áp Phật giáo, là
một tôn giáo chính của dân tộc. Đó là nguyên nhân tại
sao có phong trào đấu tranh vào năm 1963, bắt nguồn từ ngọn
đuốc tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức. Dẫu rằng cuộc
đấu tranh này dưới ngọn cờ của Phật giáo, nhưng thực
chất nó là cuộc đấu tranh của dân tộc, vì mục đích muốn
bảo vệ Phật giáo, bảo vệ nền văn hóa truyền thống của
dân tộc.
Như
chúng ta đã biết Phật giáo đã cùng dân tộc Việt Nam chung
sống trong mái ấm tổ quốc gần 2000 năm lịch sử. Trong thời
gian cộng tồn chung sống đó, Phật giáo và dân tộc hòa quyện
với nhau như nước với sữa, cùng cam cộng khổ, nghĩa tình
khắng khít. Trang sử văn hóa dân tộc Việt Nam có biết bao
công trình văn hóa góp phần xây dựng nền văn hóa chung cho
đất nước cho dân tộc, bao gồm cả mặt văn học, nghệ
thuật, kiến trúc, hội họa …ngay cả mặt đấu tranh chống
ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Không những chỉ có thế, ngay
cả mặt giáo dục đạo đức, cách suy nghĩ trong đời sống
sinh hoạt thường ngày của người dân cũng đã chịu ảnh
hưởng từ văn hóa Phật giáo. Có thể nói tình cảm đó,
sự đóng góp đó, nếu là một người dân Việt Nam, yêu văn
hóa dân tộc, thì không ai lại chấp nhận thay thế Phật giáo
bằng bất cứ một tôn giáo nào khác, vì văn hóa Phật giáo
và văn hóa dân tộc quyện chặt với nhau. Loại Phật giáo
ra khỏi dân tộc Việt Nam, điều đó có nghĩa là phủ nhận
văn hóa truyền thống của dân tộc. Nói đến văn hóa truyền
thống của dân tộc, chúng ta không thể thay thế chùa Một
Cột bằng nhà thờ Đức Bà, chúng ta cũng không thể thay thế
nhà thơ Nguyễn Du bằng một nhà thơ nào đó…Chùa Một Cột
tuy nhỏ hơn nhà thờ Đức Bà nhưng đó là kiến trúc đặc
thù đại diện cho kiến trúc cổ Việt Nam…
Sự
kiện đạo Thiên Chúa đến Việt Nam, không chỉ là việc đơn
thuần đem đạo Thiên Chúa truyền đến Việt Nam, trong đó
còn mang cả ý đồ chính trị muốn thôn tính Việt Nam, phá
hoại nền văn hóa truyền thống dân tộc, tiêu diệt Phật
giáo. Đây là điều không một người dân yêu nước yêu dân
tộc nào chấp nhận và tha thứ.
Sự
kiện HT. Quảng Đức tự thiêu chỉ là một giọt nước tràn
của ly nước, mang tính đại diện không chỉ có Phật giáo
mà cả dân tộc, nhằm mục đích đánh tiếng chuông báo động,
thức tỉnh giòng họ Ngô, chấm dứt hành vi tàn bạo vong bản,
đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời
là tiếng chuông hiệu triệu toàn dân cùng nắm tay nhau bảo
vệ văn hóa truyền thống của dân tộc, lời kêu gọi tất
cả những người con Phật đồng lòng bảo vệ chánh pháp,
bảo vệ một tôn giáo lớn của dân tộc.
Thật
ra, người dân Việt Nam không phải là hạng người bảo thủ
và cố chấp, ngược lại rất hiền hòa và giàu lòng bao dung,
sẵn sàng đón nhận những văn hóa khác, tôn giáo khác, nhưng
điều đó không đồng nghĩa, dân tộc Việt Nam cũng sẽ chấp
nhận sự kỳ thị chà đạp lên nền văn hóa của dân tộc.
Ngô đình Điệm hay nói đúng hơn đạo Thiên Chúa đến Việt
Nam đã vấp phải sự sai lầm này. Cứ tưởng rằng, với
sức mạnh của quyền lực và vũ lực có thể làm tất cả
những gì mình muốn. Thế nhưng từ thực tế cho thấy, Phật
giáo không một tấc sắc, dân tộc Việt Nam rất hiền, nhưng
sức mạnh của chính nghĩa và lòng đoàn kết của toàn dân
đã làm sụp đổ chế độc độc tài Ngô đình Diệm. Không
chỉ có sự kiện năm 1963 mà cả quá trình đấu tranh chống
ngoại xâm của dân tộc, đều có chung một đáp số này.
Đây là một bài học đáng quí mà các nhà lãnh đạo cần
nên rút kinh nghiệm.
7. Sự tự thiêu
của Bồ tát Quảng Đức
không mâu thuẫn
với giới không sát sanh
Mục
đích đức Phật chế định giới điều ‘không sát sanh’
trong đó bao hàm ý nghĩa ‘không được tự sát’, nhằm mục
đích phát triển lòng từ bi đến với mọi loài chúng sanh,
bảo vệ và tôn trọng sự sống của các loài động vật,
nhưng riêng về vấn đề tự sát, được đức Phật ngăn
cấm là những hành vi tiêu cực, như cuộc sống quá khổ đau,
không đủ sức giải quyết vấn đề, nên giải quyết bằng
cách tự sát. Nhưng việc ‘tự sát’ hay nói đúng hơn là
sự ‘hy sinh’ mang ý nghĩa cao đẹp, trong thánh điển Phật
giáo vẫn được đề cao. Như trong “Bổn sanh’ đã tường
thuật một cách tỉ mỉ những câu chuyện tiền thân của
đức Phật, đây là một chứng minh cụ thể, vì chính hành
vi hy sinh này, đều mang ý nghĩa giác ngộ chân lý, thấy rõ
được tính duyên khởi, vô thường, vô ngã, và hẳn nhiên
vị ấy không còn chấp trước đối với thân ngũ uẩn, có
nghĩa là một vị Bồ tát ở trong trạng thái giác ngộ, do
đó việc hy sinh tánh mạng không có ảnh hưởng gì đến sự
giác ngộ. Sự hiện hữu (sống) hay tan rã (chết) của thân
ngũ uẩn là một qui luật tự nhiên, bất cứ ai cũng không
tránh khỏi, cho dù đó là Phật, điều mà đức Phật giáo
dục con người là không nên chấp trước, vì chấp trước
là nguồn gốc của khổ đau. Ý nghĩa của chấp trước là
không chấp nhận qui luật chuyển biến của vạn vật, do vậy
sanh ra khổ.
Cũng
vậy, hành vi tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức không phải
là hành vi trốn chạy cuộc sống, không vì lòng tham lam, sân
hận và ngu si mà ngược lại cử chỉ đó thể hiện lòng
từ bi và trí tuệ. Lòng từ bi của Ngài chính là không dùng
bạo lực giải quyết vấn đề, vì dù muốn dù không cũng
sẽ giết hại bao nhiêu sinh mạng, chỉ lấy thân mình làm
ngọn đuốc để thức tỉnh cho kẻ mê mờ của giòng họ
Ngô. Trí tuệ của Ngài chính là người thấy được chân
lý duyên khởi, không còn chấp trước tự ngã, hành vi của
Ngài thể hiện tinh thần vô ngã và lòng vị tha của Phật
giáo Đại thừa. ‘Vô ngã’ là xem nhẹ sự sống chết của
tự thân; ‘vị tha’ là hành vi không bị tư lợi, vì người
khác phục vụ, Ngài tự thiêu là hy sinh sự sống của mình
để bảo tồn Phật pháp nói riêng và văn hóa dân tộc nói
chung. Trong tinh thần hy sinh như vậy, dựa vào kinh điển của
Phật giáo, chúng ta thấy giữa giới ‘không được sát sanh’
và sự kiện ‘tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức’ không
mâu thuẫn, ngược lại rất hợp lý.
8. Kết luận
Việt
Nam là một nước tự chủ độc lập, có nền văn hóa và
tín ngưỡng riêng. Văn hóa đó qua nhiều thế hệ của dân
tộc tạo nên, là đứa con đẻ của dân tộc Việt Nam, không
ai có quyền hủy hoại nó.
Phật
giáo là tôn giáo xuất phát từ Ấn độ, nhưng trải qua 2000
năm lịch sử Phật giáo đã trở thành một tôn giáo của
dân tộc. Sự tồn tại đó không phải tự nhiên mà có, mà
xuất phát từ những yếu tố tích cực từ hai phía. Dân tộc
Việt Nam sẵn có tấm lòng nhân hậu và bao dung, còn Phật
giáo có một triết lý xây dựng cuộc sống, không có tư tưởng
phân biệt chủng tộc, phá hoại văn hóa khác, với tinh thần
Bồ tát làm lợi mình và lợi người. Bắt nguồn từ những
yếu tố này dân tộc Việt Nam chấp nhận và xem Phật giáo
như là tôn giáo của mình, Phật giáo cũng lấy mảnh đất
này như là quê hương xứ sở của chính mình, cả hai phía
cùng nhau vun bồi cho nên mới có Phật giáo trong lòng quê hương
trong lòng dân tộc Việt Nam như ngày nay. Văn hóa Phật giáo
và văn hóa dân tộc quyện với nhau như nước với sữa, không
thể tách rời. Điều đó có nghĩa rằng, ai kỳ thị Phật
giáo Việt Nam có nghĩa là kỳ thị văn hóa truyền thống dân
tộc. Ai không tôn trọng chủ quyền độc lập và thống nhất
của Việt Nam, Phật giáo Việt Nam có bổn phận và trách nhiệm
ngăn chận.
Sự
kiện tự thiêu của Hòa thượng Thích Quảng Đức vào năm
1963 nói lên ý nghĩa này. Người Việt Nam có lòng bao dung,
bất cứ một tôn giáo nào có chính nghĩa cũng có thể đến
Việt Nam truyền đạo, nhưng không vì lợi ích cho tôn giáo
mình chà đạp phá hoại nền văn hóa dân tộc, nhất là bằng
con đường truyền giáo mang theo những yếu tố chính trị,
phá hoại sự thống nhất và nền độc lập của dân tộc.
Dẫu rằng Phật giáo Việt Nam hoan nghênh những tôn giáo khác
đến mảnh đất Việt Nam hoạt động, nhưng điều đó không
đồng nghĩa Phật giáo Việt Nam chấp nhận thái độ hèn mọn
nương cập quyền lực hà hiếp Phật giáo, dùng sức mạnh
kinh tế để dụ dỗ nhân dân. Đạo Thiên Chúa đến Việt
Nam đã vi phạm hai yếu tố cơ bản đó, hình thành cuộc đấu
tranh của toàn Phật giáo toàn nhân dân Việt Nam chống chế
độ độc tài kỳ thị tôn giáo của Ngô đình Diệm, cao trào
là sự kiện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức.
Sự
kiện tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức không trái với
tinh thần giới luật của Phật giáo Đại thừa, có nghĩa
là không vi phạm giới ‘không sát sinh’. Vì tinh thần giới
‘không sát sinh’ bao hàm cả việc tự sát của Phật giáo
nhằm bảo vệ sinh mạng và nuôi dưỡng lòng từ bi của chính
mình. Thật ra hành vi sát sinh hay tự sát, nếu đứng về mặt
hình thức thì đó là hành vi bất thiện, nhưng nếu xét về
mặt động cơ của việc sát hại, thì hành vi đó chưa chắc
gì là bất thiện. Ví dụ một con cọp say đang sát hại dân
làng, người Phật tử giết con cọp đó để cứu dân làng,
hành vi sát đó trên hình thức vi phạm giới sát, nhưng căn
cứ vào tâm thì không vi phạm, vì người đó giết cọp vì
lòng thương dân làng. Cũng vậy, nếu chúng ta căn cứ ý nghĩa
việc tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức thì chúng ta thấy
rằng, tâm của Ngài rất trong sáng, vì lợi ích của Phật
giáo, vì quốc gia vì dân tộc không phải vì danh lợi của
cá nhân. Hành vi vì lợi lạc cho người khác là hành vi thiện,
với tâm quên mình vì người khác phục vụ là tâm của Bồ
tát, là người đã giác ngộ giải thoát, không phải tâm của
người phàm phu. Sự tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức
không phải là hành vi trốn chạy sự sống, như người tự
sát vì tình. Ngược lại sự tự thiêu của Ngài nói lên chính
nghĩa, biểu thị thái độ ôn hòa nhưng rất cương quyết,
buộc đối phương phải trả lại quyền tự do tín ngưỡng,
quyền bảo vệ văn hóa dân tộc.
Sự
kiện Bồ tát Quảng Đức tự thiêu năm 1963 là một sự kiện
lịch sử của dân tộc, nó mang hai ý nghĩa. Thứ nhất, với
tư cách là người dân Việt Nam, đại diện cho nhân dân Việt
Nam, lấy thân mình làm ánh đuốc kêu gọi kẻ cầm quyền
phi dân tộc chấm dứt chính sách phá hoại truyền thống văn
hóa của dân tộc. Thứ hai là với tư cách là một vị tu
sĩ Phật giáo, lấy nhục thân làm ngọn đuốc kêu gọi nhà
cầm quyền giòng họ Ngô thực thi chính sách bình đẳng tôn
giáo. Đó là ý nghĩa mà Bồ tát Quảng Đức tự thiêu.
Tinh
thần tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức là tinh thần
‘vô ngã vị tha’ của Bồ tát đạo. Nó xuất phát từ ánh
sáng trí tuệ và lòng từ bi, không phải là lòng tị hiềm
nhỏ nhoi thường tình. Sự an nhiên trong ngọn lửa biểu hiện
sự thoát tục của Ngài, không phải ai cũng làm được.
Sự
xả thân tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức mang một ý
nghĩa rất vĩ đại, nó không chỉ là tấm gương sáng cho giới
Phật giáo, mà còn là một biểu tượng trong sáng cao cả cho
dân tộc Việt Nam, trong sự nghiệp bảo vệ truyền thống
văn hóa của dân tộc.
Thạnh
Lộc mùa xuân năm 2003
[1]
Bồ tát Thích Quảng Đức thế danh Lâm Văn Tuất sinh năm 1897
(Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn
Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ ông Lâm Hũu Ứng và
bà Nguyễn Thị Nương. Lên 7 tuổi, Ngài được song thân cho
xuất gia học Phật. Ngài thụ giáo với Hòa thượng Thích
Hoằng Thâm là cậu ruột và được Hòa thượng nhận làm
con đổi tên là Nguyễn Văn Khiết.
[2]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” Tập I, trang 234.
Viện NCPHVN ấn hành.
[3]
HT. Trí Tịch dịch, “Kinh Diệu Pháp Liên Hoa”.
[4]
Trí Hải dịch, “Thanh Tịnh Đạo Luận” tập I, trang 140,
NXB Tôn giáo, 2001.
[5]
Phật Đà Bạt đà la và Pháp Hiển dịch, “Ma ha Tăng Kỳ
Luật”, Quyển 1, trang 228 (Đ C 28).
[6]
Ấn Thuận, “Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi khởi nguyên
dữ tập thành” trang 175-176, NXB Chánh Văn.
[7]
Cần tra cứu nguồn gốc câu kệ này.
[8]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập I, trang 83-84 (Trường
CCPHVN ấn hành, 1986).
[9]
Xin tham khảo “Kinh Bổn sanh” và “Kinh Hiền Ngu”.
[10]
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập II, trang 403 (TCCPHVN
ấn hành, năm, 1986).
[11]
Tham khảo, Ấn Thuận, “Sơ kỳ Đại thừa Phật giáo chi khởi
nguyên dữ khai triển” trang 125-168, (NXB Chánh Văn).
[12]
“Kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật đa” Quyển 18 (ĐT 08, trang 353c).
[13]
“Kinh Đại bát Niết bàn” Quyển 30 (ĐT 12, trang 804b).
Discussion about this post