VÀI Ý NGHĨ
VỀ BÀI VIẾT CỦA HOẢ THƯỢNG THÔNG LẠC (3)
Nguyễn
Hòa
(Nét
chữ mầu đen là nguyên bản của HT Thông Lạc.
Nét
chữ mầu xanh đậm là của Nguyễn Hòa)
Đường Về
Xứ Phật Tập 3
Lời nói đầu
…
Chúng
tôi là những hành giả của Đạo Phật, lấy giới luật và
giáo pháp của Đức Phật làm hành trang và vũ khí để tiến
bước vào tâm linh của mình. Nói cách khác cho dễ hiểu
hơn là chúng tôi dùng giới luật và giáo pháp của Đức Phật
điều khiển và khai mở thân ngũ uẩn. Khai mở thân ngũ uẩn
tức là khai mở bộ óc của con người; khai mở bộ óc của
con người tức là khám phá thế giới linh hồn của người
chết.
Đạo
Phật do Đức Thích Ca Mâu Ni truyền dạy không nói tới linh
hồn. Đây là sự “nhặp nhằng” hay lẫn lộn của TL do không
hiểu thông suốt giáo lý căn bản nhất của đạo Phật là
ngũ uẩn không phải linh hồn. Kinh nói về ngũ uẩn để dẫn
tới vô ngã, để phá bỏ cái gì đó (ngã hay linh ngã) bị
nhận thức sai lần cho là nương tựa vào ngũ uẩn mà tồn
tại, vậy thì làm sao có linh hồn được.
Rồi
ở đoạn dưới TL lại nói về khác về “siêu hình”.
…..
Khoa
học hiện đại đã phát minh ra bộ máy vi tính tuyệt vời
làm việc đa năng, nhưng sánh với bộ máy thân ngũ uẩn của
con người thì nó còn kém quá xa, vì máy vi tính không có phần
tình cảm thương, yêu, ghét, giận, hờn, phiền não, khổ đau,
v.v… Nếu khoa học không ngừng tiến triển thì chắc chắn
bộ máy vi tính sẽ thay thế não bộ của con người để khám
phá bộ não của con người, thì chừng đó thế giới linh
hồn của người chết mới chứng được sự thật là không
có.
Vì
tin có linh hồn vậy HT Thông Lạc không phải duy vật, nhưng
cũng không thuộc Phật giáọ Và ý tưởng về linh hồn càng
không dính líu gì tới Phật giáo Nam Tông hay nguyên thủy mà
tính cách vô ngã rất được nhấn mạnh.
Khi
Đức Phật tu tập xong và cảm nhận bộ máy thân ngũ uẩn
thật là vi diệu và tuyệt vời, Ngài đã điều khiển nó
bắt gặp các tần số âm thanh, sắc tướng của tất cả
những hành động của những sự việc đã qua của những
người chết còn lưu lại trong không gian. Bất kỳ thời
gian quá khứ nào Ngài cũng bắt gặp lại được dễ dàng,
những danh từ trong thời Ngài được gọi, đó là Túc Mạng
Minh.
Vì
tin có linh hồn vậy HT Thông Lạc không phải duy vật, nhưng
cũng không thuộc Phật giáọ Và ý tưởng về linh hồn càng
không dính líu gì tới Phật giáo Nam Tông hay nguyên thủy mà
tính cách vô ngã rất được nhấn mạnh.
Những
hình ảnh, âm thanh và những hành động đã qua của con người
còn giữ lại trong không gian này bất kỳ nơi đâu, một khi
điều khiển được thân ngũ uẩn, nó đều bắt gặp các
từng số hình ảnh và âm thanh đó một cách dễ dàng. Danh từ dùng trong thời Đức Phật gọi đó là Thiên Nhãn
Minh.
Khi
Đức Phật tu xong, Ngài truy tìm con người từ đâu sanh ra? Với chiếc máy thân ngũ uẩn, Ngài đã điều khiển và tìm
thấy được nguyên nhân sanh ra con người đó là nghiệp lực
nhân quả mà danh từ trong thời Đức Phật gọi là Lậu Tận
Minh.
Thông
Lạc dựa vào giải thích theo kiểu khoa học để cắt nghĩa
về Lục Thông (Thiên nhãn minh…Lậu tận minh), nhưng cũng
không phải là cách nhìn của đạo Phật. Phải đợi đến
khi có thuyết lý về Tàng Thức(Như Lai tạng), chủng tử của
Duy Thức học thì Phật giáo mới giải thích được phần
nào về các vấn đề thuộc nghiệp lực, nhân quả. Mà Duy
Thức hoc. bắt nguồn ở Tiểu Thừa, như thấy trong Câu Xá
luận, Thanh Tịnh đạọ Phải nói là chính trường phái A
Tỳ Đàm (Tiểu Thừa) đã dựng nền tảng cho một khoa tâm
lý tinh vi của Phật giáo, là Duy Thức học, và dùng để giải
thích được nhiều quan điểm đã thu nhập từ trước đạo
Phật ở Ấn Độ, như nhân quả, nghiệp lực, luân hồi và
cả Lục Thông.
Vì
thế Đức Phật nói sáu cõi luân hồi tức là nói sáu đẳng
cấp sống của muôn loài vạn vật trên hành tinh này trong
đó có con người, vì con người được xem như một loài động
vật.
Nói
đến cõi Trời tức là nói đến hành động thiện của con
người, chứ không phải nói đến thế giới siêu hình, vì
thế Đức Phật nói: Ta đến cõi Phạm Thiên như duỗi cánh
tay. Lời nói này chúng ta phải hiểu đó là một trạng
thái, một từ trường thiện hay ác, dục hay vô dục.
Đạo
Phật giải thích Lục đạo luân hồi vừa là cảnh giới vừa
là trạng thái tồn tại trong mỗi con người (chúng sinh). Có
câu nói “Nhất Niệm Tam Thiên” , có nghĩa khi một ý niệm khởi
lên có thể đưa ta đến ba ngàn thế giới, cảnh giới hay
trạng thái tâm khác nhaụ
Thông
Lạc như không hiểu đầy đủ như trên, và phần nào không
hiểu được hiểu nổi thì chê bai.
Niết
Bàn là một trạng thái tâm diệt dục, chứ không có cõi giới
Niết Bàn như các nhà Đại Thừa tưởng, vẽ ra và dựng lên
nhiều cõi như: Nhị chủng Niết Bàn, Tứ Chủng Niết Bàn,
Ngũ chủng Niết Bàn, v.v…
Nhị
Chủng Niết Bàn gồm có:
1. Hữu dư niết bàn
2. Vô dư niết bàn
Đây
là quan niệm Niết bàn của Tiểu Thừạ mà lẽ ra Thông Lạc
phải chấp nhận. Hữu dư là Niết Bàn trước khi (A La Hán)
nhập diệt, và Vô Dư là Niết Bàn của A-La -Hán sau khi chết,
không còn tái sinh.
Niết
Bàn trong Phật giáo được bàn cãi rất nhiều là cõi hay trạng
thái như thế nào đó, nhưng chính đức Phật từ chối không
mô tả về Niết Bàn. Trong Phật giáo nguyên thủy , Niết Bàn
được coi là giải thoát phiền não, chấm dứt luân hồi và
đi vào một thể tồn tại khác (với ý nghĩa xa cách thế
gian). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện
là Tham, Sân, Si, đồng thời cũng không còn bị tác động
của Nghiệp lực , của Nhân Duyên, và đặc tính của nó là
thiếu vắng sự sinh, thành, hoại, diệt. Với Đại Thừa,
thì Niết Bàn là thể nhập vào bản tánh tuyệt đối,
thanh tịnh, thường hằng, gọi là Phật Tánh, Chân Như, Chân
Tâm, v.v…, và ở đó tìm thấy được an lạc lớn : Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh.
Làm
sao bốn trạng thái của Bốn Thiền là bốn niết bàn được,
trong khi kinh sách Phật đã xác định rõ ràng: Bốn trạng
thái Tứ Thánh Định là bốn trạng thái cõi Trời như:
1. Sơ Thiền Thiên
2. Nhị Thiền Thiên
3. Tam Thiền Thiên
4. Tứ Thiền Thiên
Thật
sự các nhà học giả Đại Thừa có nhiều ý thâm độc ác
để đánh lừa Phật tử bằng nhiều cảnh giới niết bàn
để biến dần trạng thái niết bàn thành cõi giới siêu hình
niết bàn.
Phật
giáo (từ Tiểu Thừa hay nguyên thủy ) nói đến ba cõi (tam
giới), là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giớị Trong đó
Sắc giới bao gồm các cõi trời (Thiên) của Tứ Thiền. Vì
còn là Sắc giới, cho nên Phật giáo không coi các cõi Thiên
này là Niết Bàn, vì vẫn bị đoạ lạc.
TL
đã phạm lỗi rất nặng do thiếu hiểu biết giáo lý Phật,
hay cố ý gán ghép ra điều sai lạc và đổ cho đó là do Phật
giáo hay Đại Thừa dạỵ Các ý niệm về Tứ Thiền Thiên
là do Phật giáo nguyên thủy tiếp nhận từ Bà La Môn – Nguyễn Hòa
Kính
ghi,
Thích
Thông Lạc
(Tu
Viện Chơn Như)
(Ngày
20 tháng 3 năm 2001)
From: “Hoa Nguyen”
Date: Fri Jun 20, 2003 7:10 pm
Subject: U,Re: [hoasen-1] Re: Thỉnh Ý..
<<..Chỉ
sau vài tháng theo Kinh Nikkaya của Nguyên Thủy, HT đã tự cảm
thâý rằng mình đã chứng đạo, giác ngô.,… và cũng đã
được HT Thanh Từ ấn chứng (dù là ấn chứng <
Theo
lời kể của HT Thông Lạc , và theo câu viết trên, sau khi
thử tu tập theo nhiều pháp môn khác không thành trong đó có
pháp “Tri Vọng” của HT Thanh Từ, HT THông Lạc đổi qua tu Tứ
Niệm Xứ , nhất là Tứ Thiền Định theo kinh Nikaya (Bộ kinh)
. Và chỉ trong vài tháng TL chứng đạọ Tôi dùng chữ “chứng
đạo” với nghĩa chung chung , không dùng chữ “chứng ngộ” của
Thiền Tông.
Chuyên
“chứng đạo” này có đáng tin không, nhất là chỉ trong vài
tháng tu theo lời dạy của Nikayạ Bây giờ với trí tuệ của
A-La-Hán Thông Lạc giảng dạy như vậy thì có bao nhiều người
tin TL đã đắc quả A-La Hán. Chắvc phải có người, nhưng
theo bài viết của chính TL thì chẳng mấy người tin
để vững tâm tu học theo thầy TL..
Còn
chuyện “ấn chứng” thì sao ? HT Thanh Từ tu theo Thiền Tông,
và dịch sách, giảng dạy về Thiền Tông là điều ai cũng
công nhận. Thì chữ hay việc làm “ấn chứng” này phải mang
ý nghĩa của Thjiền Tông. Thuật ngữ “ấn chứng” dùng chỉ
sự xác nhận của thiền sư đối với môn đệ đã làm đủ
việc tu tập dưới sự hướng dẫn của mình, và đã đắc
pháp, ngộ đạọ Cái đắc pháp này phải nằm trong tiêu chuẩn
tu tập của Thiền Tông, không thể của Nam tông, Tịnh độ
hay Mật tông. HT Thanh Từ là thiền sư và theo sách HT đã viết
thì HT đánh giá những thứ như Tam Minh, Lục Thông rất nhẹ
Vậy TL đã đưa ra những gì để được HT TT ấn chứng ?
Những
thứ thộc về Tứ Thiền Định thì không phải HT Thanh Từ
không biết tới, nhưng cũng đánh giá rất nhẹ , vì trong một
quyển sách HT TT đã viết về Diệt Tận Định (tầng
cuối của Tứ Thiền Bát Định) cũng chưa phải rốt ráọ
Còn cái “vô tâm”, vô niệm, thấy được tự tánh, hay “bản
lai diện mục” mà Thiền Tông đề cao th`i Thông Lạc có
thể nói ra gì không, biểu hiện được gì không với Tứ
Thiền Định. Chắc chắn là không, vậy tại sao được ấn
chứng ? Chuyện cũng giống như người học Judo đòi thầy
dạy Karate-do cho thắt dây lưng đen. Rất vô nghĩa lý.
Xin
nói thêm về Ấn khả Chứng Minh của Thiền Tông. Với những
thiền sư sử dụng công án trong chương trình giảng dạy thì
việc ấn khả có nghĩa là thiền sinh giải được (tất cả)
công án do thầy đề ra, và vị thầy hài lòng với kết quả
đạt được.
Công
án này có thể là những lời đáp đối qua lại với nhiều
ẩn ý như đã xảy ra trong cuộc “đấu pháp” giữa Huyền Giác
và Lục Tổ Huệ Năng. Còn nếu thầy không sử dụng công
án (như trường hợp HT TT ở đây) th`i ấn khả là bày tỏ
sự hài lòng c?a ông thầy về mức độ thông đạt chân lý
của đệ tử. Ở đây, bài viết khác có nhắc là Thông Lạc
từng là đệ tử của HT TT vào năm 1970, nhưng theo tôi chuyện
này cũng không có nghĩa TL đã tu học và tu tập theo đúng
giáo pháp của thầy, và thực tế là không phải như vậỵ
Có
thể nghĩ Thông Lạc giống như trường hợp của Chơn Quang,
theo học HT TT nhưng sau tu khác và tự làm ra “giáo pháp”
riêng. Do đó HT TT rất khó ấn khả cho TL hay CQ. Và chuyện
“ấn chứng” này có thực sự xảy ra hay không thì phải HT
Thanh Từ lên tiếng cho biết, chúng ta mới tin theo được.
Hòa
Discussion about this post