VÀI Ý NGHĨ
VỀ BÀI VIẾT CỦA HOẢ THƯỢNG THÔNG LẠC (1)
Nguyễn
Hòa
(Nét
chữ mầu đen là nguyên bản của HT. Thông Lạc.
Nét
chữ mầu xanh đậm là của Nguyễn Hòa)
Đường Về
Xứ Phật Tập 1
Thay Lời Tựa
Đạo
Phật đã có mặt trên trái đất này từ 2540 năm nhưng sự
nghiên cứu kỹ về kinh sách và lịch sử của Đạo Phật
thì Đạo Phật chỉ có tồn tại được một trăm năm, lúc
bấy giờ chúng tỳ kheo tu tập đúng chánh pháp, còn từ đó
về sau này chúng tỳ kheo đều tu sai pháp của Đạo Phật
do bởi Đạo Phật phát triển theo kiểu thế tục hóa mê tín
dân gian và bị các tôn giáo khác đồng hóa. Thời gian một
trăm năm đầu ấy, trong khi Đức Phật còn tại thế, tuy vậy,
trong chúng tỳ kheo vẩn có nhiều người sống không đúng
phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp, nên Đức Phật buộc
lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm. Nhưng từ
khi có giới bổn ra đời chúng tỳ kheo lại càng vi phạm nhiều
hơn.
Điều
trên ghi không đúng theo lịch sử đạo Phật, hoặc là
chỉ do suy đoán riêng của Thông Lac. Phật giáo nguyên thủy,
giữ đúng theo hình thức tu hành thời Phật, vẫn tồn
tại vài trăm năm sau khi Đức Thích Ca nhập diệt, sau đó
mới chia thành nhiều bộ phái mà Thượng Toạ Bộ, Đại Chúng
Bộ sau này tập họp thành Nam Tông, Bắc Tông. Theo lịch
sử, Phật chỉ giảng pháp trong 49 năm, không phải 100
năm (tại thế) như TL viết. Giới luật là điều cần thiết
cho người xuất gia tu hành vì họ có đời sống, sinh
hoạt, công việc tu tập khác với người thế gian. Và không
phải khi có giới luật ra đời thì tỳ kheo càng phạm giới
hạnh , vì làm sao gọi là phạm giới khi không hay chưa
có giớị!
Đến
khi Đức Phật thị tịch, các vị đại đệ tử của Người
không đủ uy đức điều khiển một số chư Tăng quá đông
đảo (1250 vị tỳ kheo). Vì thế sau khi trà tỳ nhục thân
Đức Phật xong, các vị đại đệ tử của Đức Phật, nhất
là ông Ca Diếp đã trực tiếp nghe một số chúng tỳ kheo
vui mừng khi hay tin Đức Phật nhập diệt. Cho nên sau khi đám
tang xong, ông vội vàng mở cuộc họp, thiết lập cuộc kết
tập kinh luật lần đầu tiên, để lấy đó làm giềng mối
cho Đạo Phật ở ngày mai.
Từ
khi Đức Phật nhập diệt, mặc dù kinh luật đã được thiết
lập nhưng ít ai còn giữ và sống đúng giới hạnh, nên lần
lượt chư Tăng chia thành nhiều bộ phái (20 bộ phái) và mỗi
bộ phái tự kiến giải kinh luật riêng của bộ phái mình,
do đó kinh sách phát triển của Đạo Phật càng ngày càng
tăng lên rất nhiều.
Kinh
và luật sau khi Phật nhập diệt càng nhiều hơn trước thì
không thể nói là người theo đạo Phật sống và giữ giới
ít hay kém hơn. Chỉ có thể hiểu là các vị lãnh đạo Phật
giáo sau này đòi hỏi đệ tử giữ giới nhiều
hơn, học tập nhiều hơn để đối phó với tà thuyết ngoại
đạo càng ngày càng chống phá Phật giáọ Những điều giảng
dạy ban đầu của đức Phật khi tại thế không còn
đủ để dùng lý luận, biện bác, đả phá lại những lý
lẽ, luận điệu chống đối Phật pháp của nhiều người
trong và ngoài đạo Phật ở các thời đại sau nàỵ
Chính
những kinh sách này dẫn đến lìa xa Đạo Phật (mất gốc).
Người tu sĩ Đạo Phật sống không còn đúng phạm hạnh,
tâm không ly dục ly ác pháp được nên tu hành thiền định
chẳng có kết quả, nhập định chẳng được, phần đông
rơi vào tà định. Vì thế thời nay ít ai tu đúng “Chánh niệm”
và nhập đúng “Chánh định”.
Những
kinh sách đó là sự phát triển tự nhiên của tư tưởng Phật
giáo theo thời gian và không gian khi đạo Phật mở rộng để đi vào nhiều vùng điạ lý, nhân văn có nhiều nền
văn minh, văn hoá khác nhaụ Chính ra , đạo Phật thời nguyên
thủy mang nhiều tính cách của Bà La Môn là nguồn phát
xuất của đạo Phật, ít ra là về hình thức (như khất thực,
khổ hạnh, chưa có tự viện) . Người trong đạo Phật, nhất
là Đại Thừa, chấp nhận tính cách khế lý và khế cơ trong
sự phát triển đạo Phật, tức mở rộng giáo pháp nhưng
phải vừa hợp với giáo lý căn bản của đạo Phật ban đầu
vừa hợp với căn cơ của con người sống trong nhiều thời
đại và nền văn hoá khác biệt nhaụ Như vậy đạo Phật
mới có thể tồn tại và phát triển khi trải qua hơn 2500
năm lịch sử.
Còn
về cái “Chánh Định” mà Thông Lạc đề cao ở đây, thì theo
bài viết chỉ là thứ Định của Tứ Thiền Bát Định, khởi
đầu là của Bà La Môn, hay ngoại đạo, được Phật giáo
tiếp nhận từ thời Phật, và tuy ngày nay vẫn còn nhiều
người theo tập, như bên Nam Tông, nhưng đã được thay thế
dần bằng những thứ Định khác, có vai trò quan trọng hơn
trong việc phát triển tuệ giác, thể nhập tự tánh phù hợp
với chủ đích của đạo Phật hơn.
Đọc
lại những quyển kinh luận của các nhà học giả, sư, thầy
viết ra, lý chánh pháp mù mờ không rõ, đời – đạo viên
dung lố bịch, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, mượn
râu ông nọ cắm cằm bà kia, giống như chiếc áo chắp vá
chỗ này, chắp vá chỗ khác, hành pháp thì không thông, nên
tưởng tượng ra các hành dựa theo khoa học, võ học, dưỡng
sinh, khí công, các pháp hành của Yoga, v.v.., tu tập ức chế
thân tâm một cách quá đáng, tạo ra biết bao nhiêu bịnh tật
cho những hành giả dại khờ tự đem mình vào chỗ chết,
chỗ khổ mà không biết.
Chuyện
kể trên không thấy có trong các pháp Thiền Định chân
chính của đạo Phật, dù thuộc Nam Tông, Đại Thừa, Thiền
Tông hay Mật Tông.
Kinh
sách phát triển của Đạo Phật quá nhiều nhưng chẳng biết
tìm đâu ra một cuốn kinh nào để tu đến nơi đến chốn,
đọc vào chỉ toàn là luận lý thuyết suông, thực hành thì
vay mượn những pháp môn của ngoại đạo. Chính những người
đã viết ra những bộ kinh đang bày bán, họ cũng chẳng tu
đến đâu vì họ đang sống chạy theo dục lạc thế gian như
những người khác, vì thế biết rõ họ chưa giải thoát.
Kinh
Phật nói chung gồm có hai loại, hoặc giảng về giáo lý đạo
Phật, hoặc chỉ rõ phương pháp tu hành, thực tập Thiền
Định. Cũng có kinh bao gồm cả hai phần nàỵ Vì đạo Phật
thâm diệu vô cùng nên đọc hiểu kinh Phật là chuyện không
phải dễ dàng. Do đó phải kiên tâm trì chí tìm hiểu kinh
điển với sự hướng dẫn của các bậc đại đức thạc
học thì mới mong hiểu thấu những ý nghĩa sâu xa tàng ẩn.
Còn khi “tự đọc”, tự tìm hiểu mà không hiểu nổi nghĩa
kinh thì không thể đổ lỗi cho kinh kệ chỉ có lý thuyết
suông hay không chỉ rõ ràng pháp môn tu tập. Chuyện này thuộc
về khả năng đọc hiểu của người đọc kinh.
Sau
mười năm trong thất, sống giữ gìn giới luật đúng phạm
hạnh và tu tập Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, tôi đã thấy
được kết quả của những pháp môn này làm chủ sự sống
chết và chấm dứt sự tái sanh luân hồi.
Đây
là pháp môn của Phật giáo thời nguyên thủy mà Nam Tông và
Bắc Tông đều thừa hưởng cái di sản chung đó đến từ
lời giảng dạy của đức Phật. Nhưng về sau, hơn hai ngàn
năm sau, nhiều pháp môn tu tập khác được lần lượt ra đời,
để phát triển hay thay thế phương pháp tu tập lúc ban
đầụ
Ra
thất tôi thành lập tu viện Chơn Như tại ấp Gia Lâm, xã
Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh, quyết tâm chấn
hưng lại Phật Pháp. Nhưng hai chục năm trôi qua, biết bao
nhiêu người theo tu, chỉ tu có ba hạnh: ăn, ngủ, độc cư,
mà không ai tu nổi, nên họ không thể nào tu định vô lậu,
ly dục ly ác pháp; không ly dục ly ác pháp thì làm sao nhập
được Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Định.
Như
vậy “pháp môn” của “thầy Thông L.ạc” có thể không khế
lý , và không khế cơ, không phù hợp với đạo Phật đang
có hàng triệu người theo tu học.
Hiện
Tại An Lạc Trú Tứ Thánh Định không nhập được thì không
bao giờ làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Tu
viện của chúng tôi chỉ còn lại một vài nguời sống đúng
phạm hạnh, ly dục ly ác pháp, hiện giờ họ đang thực hiện
khá sâu vào bốn thiền (Tứ Thánh Định) họ sẽ là người
thắp sáng lại Đạo Phật sau này, nếu chúng sanh có đủ
duyên, nếu không đủ duyên tức là thiếu phước thì những
tu sĩ này sẽ không đủ nghị lực và bền chí chiến đấu
lại những nghiệp lực cuối cùng của đời mình.
” Chỉ
còn lại vài người” , con số nói lên pháp môn này “hiệu
quả” như thế nào đối với người tu theo ?
Con
đường tu hành theo Đạo Phật rất thực tế và cụ thể
cho tất cả mọi người; ai cũng có thể giải thoát khỏi
cảnh khổ của thế gian bằng một cuộc sống “Đạo” ly dục
ly ác pháp.
Sống
có ly dục ly ác pháp thì sự tu hành theo Đạo Phật mới có
kết quả, bằng ngược lại tu hành vô ích, không lợi mình
lợi người còn mang nợ đàn na thí chủ.
Vì
sống đạo thì phải ly dục ly ác pháp nên ít có người theo
sống được, hầu hết đều bỏ cuộc tu hoặc tu có hình
thức hoặc biến thái Đạo Phật qua một hình thức khác (Bồ
tát hạnh) để dễ bề hành dục lạc.
Bồ
tát hạnh , Bồ Tát Thừa là chỉ Đại Thừạ Còn pháp môn
Thông Lạc cho biết ở trên có vẻ thuộc “Tiểu Thừa” nên
từ góc nhìn đó với ý tưởng hẹp hòi, TL chê bai Bồ Tát
đạo thì dễ hiểu được là tại saọ
Suy
đi nghĩ lại, tôi đắn đo nhiều lần không quyết định có
nên triển khai giáo án đường lối tu tập của Đạo Phật
cho hậu thế không? Nếu đường lối tu hành của Đạo Phật
không được phổ biến ở đời này, nhất là đạo đức
giải thoát không làm khổ mình, khổ người thì loài người
sẽ đi về đâu? Và sẽ khổ đau biết nhường nào?
Có
chắc là “pháp tu” của Thông Lạc giống các pháp môn chính
đức Thích Ca dạy không ? Ai dám bảo đảm là gần giống
nhaụ Còn nếu không giống, thì pháp tu do TL đặt ra có
phải là rời xa pháp Phật không. Còn chuyện xa cách pháp
Phật bao nhiêu thì khó thể biết.
Sự
mê mờ vô minh của con người từ ngàn xưa đến nay đã lầm
chấp và cho các pháp thế gian là thật có, chúng sẽ đem lại
hạnh phúc cho họ, khi họ được đầy đủ. Vì sự lầm chấp
này, họ ôm giữ khư khư các pháp thế gian, không chịu buông
bỏ, do thế, ác pháp càng tăng trưởng, thiện pháp càng suy
giảm, con người khổ đau lại càng khổ đau hơn.
Lý
lẽ trên chỉ là lời nói chung chung , chứ làm sao biết chắc
pháp của thầy Thông L.ac không phải là “pháp thế gian”, không
phải
là ` “thiện pháp”.
Lòng
thương xót bao người đã theo Đạo Phật từ xa xưa, hiện
giờ và mai sau, bao thế hệ này nối tiếp bao thế hệ kia,
tu hành giải thoát đâu không thấy chỉ thấy toàn ưu bi sầu
khổ, bịnh chết, lại càng khổ đau hơn. Tu mãi chỉ có an
ủi tinh thần một cách trừu tượng, mơ hồ chẳng có thực
tế chút nào cả, chẳng có lối thoát ra, loanh quanh lẩn quẩn
trong mê hồn trận của Đại Thừa và Tối Thượng Thừa.
Những
gương Thầy Tổ của chúng ta trước khi chết phải chịu khổ
đau quá ư cay đắng, khiến cho chúng ta bâng khuâng và lo nghĩ
rất nhiều về số phận của chính chúng ta và các đệ tử
của chúng ta sau này. Đạo Phật nói riêng và các tôn giáo
khác nói chung có giải quyết được sự khổ đau của con
người hay chăng? Hay chỉ là một điều an ủi tinh thần
suông của thế hệ này đến thế hệ khác.
Chuyện
đau đớn trên thân thể khi đang sống cũng như lúc lâm chung
là chuyện thường, xảy đến cho bất cứ a i khi còn trong
thân phận con người trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử.
Điều này nằm trong cái Khổ Đế của đạo Phật, không
phải là kết quả của chuyện tu nhiều hay ít, tu đúng hay
saị
Chứng
nghiệm sự giải thoát của Đạo Phật cụ thể và rõ ràng,
tôi không đành lòng nhìn nhân loại dần dần đi xuống hố
thẳm khổ đau mà cứ tưởng mình vượt ra đau khổ bằng
khối óc, đôi tay, kỹ thuật, khoa học, công nghệ hiện đại,
v.v.. làm ra vật chất đầy dẫy thì loài người sẽ đầy
đủ hạnh phúc an vui, không còn khổ đau nữa.
Sự
nghĩ tưởng như vậy là lầm, nếu con người không có đạo
đức thì đừng mong lấy vật chất mà giải quyết sự khổ
đau của con người được. Vật chất càng nhiều sự khổ
đau của con người càng lớn, do lòng ham muốn tạo ra nhiều
ác pháp và thế gian này sẽ là địa ngục, nếu không có
đạo đức, con người sẽ vì vật chất mà trở thành ác
thú và quỷ dữ, v.v… Biết mình tu hành chưa đủ uy đức
như Phật, cũng chưa đủ tài trí làm công việc lớn này,
nhưng không thể làm ngơ trước sự đau khổ của muôn người,
trước sự tồn vong của Đạo Phật, một tôn giáo có hàng
triệu người theo tu hành lại bị hướng dẩn tu không đúng
chánh pháp. Vì thế chúng tôi buộc lòng phải nói lên sự
thật để mong xây dựng lại đường lối tu tập của Đạo
Phật cho đúng đắn, ngõ hầu làm sáng tỏ lại giáo pháp
của Đức Phật và để cứu giúp biết bao nhiêu người đang
và sẽ lầm đường lạc lối trong những pháp tu sai cách thức
(tu ức chế tâm).
Nhận
đức Phật là bậc trí tuệ siêu việt như vậy mà giáo lý
của Phật theo Thông Lạc đã sai lạc đi chỉ sau một trăm
năm, thì “thiện pháp” của Thông Lạc trong bao lâu nữa sẽ
thành ác pháp ? Thật khó đoán
Xin
những bậc chân tu của Phật Giáo hãy vì tiền đồ Phật
Giáo, vì tất cả chúng sanh, vì nhân loại, vui lòng góp sức
chỉ vạch những chỗ sai, để cùng chúng tôi kịp thời chấn
chỉnh cho đúng đường lối tu hành và đạo đức của Đạo
Phật. Xin chân thành tri ân quý vị.
Kính
ghi
Thích
Thông Lạc
Tu
Viện Chơn Như
(Ngày
06 – 10 1997)
Không
biết HT Thanh Từ đã nghĩ thế nào về câu viết có vẻ “chân
thành” như trên. Chắc HT chỉ cườị
From:
vuong van
Date: Sat Jun 21, 2003 12:11 am
Subject: Re: HT. Thông Lạc
Chào
D/H Hoà
Chuyện
này có ý nghiã và giá trị gì thì D/H đã biết rồị – A La Hán TL sau bao nhiêu năm theo học với thầy TT vẫn tự thấy mình còn TSS – tuyệt vọng muốn tự tử Nhưng nhờ kinh Nikaya mà giải thoát, đạt qủa A La Hán – Cũng
có thể lắm – Tại sao không? Có thể tất cả kinh điển phương
pháp của thầy TT không hợp cơ, A la hán TL lại có duyên
với Nikaya do đó tu tập thành công. điều đó không có chi
lạ.
Cái
lạ lùng là A la hán TL sau khi thông ngộ lại nhờ người dạy
pháp môn mà TL cho là “sai lạc – lừa đảo v.v.” (chính pháp
môn đó TL xém tự tử) để ấn chứng cho thì hoàn toàn không
hợp lý. Chuyện này giống như A la hán TL tới trường
dạy “lưà đảo” xin cấp bằng A la hán- thì ra cái thể thống
chi – A la hán gì lạ thế. Nếu A la hán TL trở lại gặp thầy
TT , có lẽ để “ấn chứng” cho thầy TT thì thuận tai hơn.
Đại
đa số dân VN đang khổ một cách tàn bạo – trời xui đất
khiến có 1 vị A la hán ra đời, âm thầm cứu người có hay
hơn không – Đạt được A La hán là nỗi vui sướng qúa lớn sau vô số kiếp trầm luân – còn có chi vướng bận trong hồn
mà chê bai qúa cỡ vậy – Dùng trí tuệ giác ngộ vạch ra từng
điểm sai sót của kinh điển Đại Thưà công đức vô lượng
có hơn không. Phật TC sau khi ngộ,ngài đi tìm thầy của
mình là Uđaka để độ cho ( rất tiếc thâỳ của người
đã chết) người lại đi tìm 5 anh em Kiều trần Như để
chỉ dạy – A la hán ngày nay sao chẳng giống chút
chi của người xưa cả .
VVV
From: “Hoa Nguyen”
Date: Sat Jun 21, 2003 3:30 am
Subject: Re: HT. Thông Lạc
Chào
d/h Vuong Van,
Rất
vui khi “gặp” lại đạo hữụ
Chuyện
HT Thông Lạc đổi pháp tu, từ “tri Vọng” của HT Thanh Từ
qua Tứ Thiền Định của Nam Tông thì không có gì là
lạ. Đúng như d/h viết mỗi người có một sở thích,
khả năng riêng khi học tập hay theo đuổi bất cứ chuyện
gì. Trong đạo Phật gọi đó là căn cợ. Như vậy, HT
TL có căn cơ để tu tập Thiền Nam Tông, nhưng không phải
là Minh Sát hay Tuệ Sát của các danh sư Thái Lan và Miến Điện
cũng bị TL chê bai, giống như chê Thiền Tông hay Đại Thừạ.
Nhân
đây, tôi thấy các tên gọi Đại Thừa và Tiểu Thừa
đã thành hình qua lịch sử lâu dài của đạo Phật, và quả
là khi dùng tên Tiểu Thừa để gọi một bộ phái Phật giáo
thời xưa (thoát thân từ Thượng Toạ Bộ và Đồng Diệp
bộ) th`i có ý coi thường. Nhưng ngày nay các sách tiếng Anh
vẫn thường dùng Mahayana, và Hinayana mà chắc không bị ai
phản đốị. Cho nrên để chỉ Phật giáo Nam tông thời
xưa tôi dùng từ Tiểu Thừa, và để chỉ Phật giáo Bắc
Tông mà không thuộc Thiền Tông hay Mật tông tôi gọi là Đại
Thừạ Hai danh từ này tôi sẽ dùng tự nhiên, không có ý
coi thường hay mặc cảm gì.
Nếu
theo đúng giáo lý Tiểu Thừa , thì vào tới Tứ Thiền, thuộc
sắc giới, như HT TL cũng chưa đắc được A La Hán.
Ngay cả khi vào được Thức Vô biên xứ, như TL nói làm
được, thì cũng còn trong vô sắc giới chưa thể là
A La Hán, là quả vị ở ngoài tam giới (Dục, Sắc và
Vô sắc giới). Nếu đạo hữu có đọc huynh HL thì thấy huynh
HL còn đi xa hơn như tới Diệt thọ tưởng định (DTTD).
.Nhưng nhiều sách chú giải cho là vào được DTTD cũng chưa
được giải thoát theo ý nghĩa của Phật giáọ
Viết
tóm lại, thì tôi muốn nói cứ theo bài viết của HT
TL và dựa vào kinh điển Tiểu Thừa (xưa) hay Nam Tông
(nay) thì HT TL chưa thể là A La Hán, dù có ai tin ông là
A La Hán đi nữạ
Điểm
thứ hai là xét đến trí tuệ của HT TL thì đó có thể là
trí tuệ của một bậc ALH hay không. Tôi ngờ là không và
đang chứng minh dần bằng cách “phát nguyện” đọc hết tài
liệu về HT TL do Ban Biên Tập Hoa Sen gởi lên đây . Để coi
có được ông TL với cái trí tuệ đó khai sáng được
gì không. Vì thế tôi vẫn còn ráng tiếp tục viết về chuyện
nàỵ
Có
một điều đạo hữu viết rất chí lý. Sau khi ngộ đạo
rồi tại sao HT Thông Lạc không trở lại độ thầy, hay bạn
đồng tu. Có phải dễ dàng hơn đi tìm những người khác
không, bằng cách dùng ngay thân chứng cho họ thấy lối tu
của họ, như “Tri Vọng “, không đưa đến chứng ngộ
Tôi
cũng thấy có điều đáng suy nghĩ. HT Thanh Từ có hai đệ
tử kiệt xuất như Chơn Quang và Thông Lạc thì cũng là
nhiềụ. Nhưng vị thầy đáng kính như HT có hàng trăm,
hàng ngàn đệ tử nên không đổ lỗi cho thầy khi trò
có điều chi không tốt lắm. Ngoài ra, Thông Lạc chê kinh Lăng
Nghiêm dữ quá, mà Lăng Nghiêm thì nói rõ nhất về trường
hợp những người tu chứng nửa vời, tự mình và nhiều người
khác tưởng là đắc đạo nhưng thực ra không phảị
Hòa
Discussion about this post