TƯƠNG QUAN
GIỮA THIỀN SỨC KHỎE VÀ THIỀN GIÁC NGỘ
Trần Đinh
DẪN
NHẬP
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng:
“Ngôhữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô
nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “
Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu
ta không thân thì đâu có khổ gì ?”[1]
Thật vậy, khi chúng ta mang cái thân này thì làm sao tránh khỏi cái khổ
về thân và tâm. Về thân thì chúng ta mang biết bao nhiêu là bệnh tật, về tâm
thì có biết bao nhiêu ưu tư phiền não. Vậy làm sao để thoát khỏi bệnh tật và
phiền não? Đức Phật đã chỉ dạy rất nhiều phương pháp, nhưng người viết chỉ nói
về phương pháp “Thiền”. Riêng phương pháp này cũng có rất nhiều như: thiền Minh
Sát, thiền Tứ Niệm Xứ, thiền xuất hồn, thiền luân xa, thiền chú…Tên gọi thì nhiều
nhưng mục đích chung là đem lại thân thể mạnh khỏe, an lạc trong hiện tại và giải
thoát trong tương lai. Cho nên ngày nay thiền không những được áp dụng trong chốn
thiền môn với mục đích giác ngộ, mà còn được giới y học dùng để điều trị các bệnh
nan y và đã đạt được những kết quả rất tốt, họ tạm gọi đó là thiền sức khỏe.
Đến đây có nhiều người lầm tưởng thiền sức khỏe là một phương pháp thiền
khác không phải thiền giác ngộ, mà không biết rằng giữa chúng có mối liên hệ mật
thiết với nhau.
THIỀN
LÀ GÌ ?
Một lớp thực tập thiền dành cho trẻ em tại chùa Pháp Hoa Daknong
Trước hết chúng ta cần phải biết “thiền là gì?”.
“Thiền (chữ Hán: chán 禪, tiếng Nhật: zen), gọi đầy đủ là Thiền-na (tiếng Trung Quốc: chánna 禪那, tiếng
Sanskrit: dhyāna, tiếng
Pāli: jhāna, tiếng Nhật: zenna, tiếng Anh: meditation), là thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ dhyāna trong tiếng Phạn. Dhyāna là danh từ phát sinh từ gốc động từ √dhyā
(hoặc √dhyai). Bộ Sanskrit-English Dictionary của
Monier-Williams ghi lại những nghĩa chính như sau: to think of, imagine, contemplate,
meditate on, call to mind, recollect. Tất cả các trào
lưu triết học Ấn Độ đều hiểu dưới gốc động từ này là sự tư duy, tập trung lắng
đọng và vì vậy, ta cũng tìm thấy từ dịch ý Hán-Việt là Tĩnh lự (chữ Hán: 靜慮). Các cách phiên âm Hán-Việt khác là Đà-diễn-na (chữ Hán: 馱衍那), Trì-a-na (持阿那). Đây là một thuật ngữ được nhiều tôn giáo sử dụng để chỉ những
phương pháp tu tập khác nhau, nhưng với một mục đích duy nhất là: đạt kinh nghiệm
“Tỉnh giác”, “Giải thoát”, “Giác ngộ”.
Tiến sĩ khoa tâm lí học kiêm Thiền sư
người Anh, David Fontana viết tóm tắt rất hay về thế nào là Thiền và thế
nào là Phi thiền: “Thiền không có nghĩa là ngủ gục; để tâm chìm lặng vào
cõi hôn mê; trốn tránh, xa lìa thế gian; vị kỉ, chỉ nghĩ tới mình; làm một việc
gì không tự nhiên; để rơi mình vào vọng tưởng; quên mình ở đâu. Thiền là: giữ
tâm tỉnh táo, linh động; chú tâm, tập trung; nhìn thế giới hiện hữu rõ ràng như
nó là; trau dồi tấm lòng nhân đạo; biết mình là ai, ở đâu.”[2]
THIỀN SỨC KHỎE

Một lớp thực tập thiền dành cho các thí sinh thi hoa hậu người sắc tộc tại chùa Bửu Minh Gia Lai
Tất cả chúng ta đều mang tấm thân duyên hợp, cho nên
không ai mà không mang những mầm móng bệnh. Người khỏe hay người bệnh là do sức
khỏe hay sự miễn nhiễm trong cơ thể chúng ta mạnh hay yếu. Mặc dù y học ngày
càng phát triển nhưng nhiều bệnh viện và bác sĩ người Âu cũng đã dùng thiền để
chữa trị bệnh tâm thần, bệnh AIDS (Sida), bệnh ung thư… nên tạm gọi là thiền
sức khỏe.
PHƯƠNG PHÁP ỨNG DỤNG
Có rất nhiều phương pháp thiền
được dùng để trị bệnh như :
1.Quán tưởng hay Thiền quán (Visualisation Meditation): Tâm hành giả nghĩ vào một điểm
giữa hai chặn mày, hay mắt hé mở nhìn vào một điểm đen, trắng… treo trên tường,
hay đèn nến, một ảnh tượng treo trên tường, Tượng Phật, hay tượng một lãnh tụ
mà mình hâm mộ. Rồi tập trung tư tưởng (mind) vào đó, đừng nghĩ những vấn đề gì
khác.
2.Thiền chánh niệm
(Mindfulness Meditation): Đi đứng, nằm ngồi…luôn luôn tỉnh thức. Lúc đi biết
mình đang đi, đứng, ăn… biết mình đang đứng hay đang ăn (Be mindfulness, you
know what you doing).
3. Thiền chú (Mantra Meditation): Đọc chú
hay niệm danh hiệu Phật. Hành giả có thể niệm danh hiệu Phật, Bồ tát, hay bài
chú sáu chữ: “Um ma ni bát mê hồng”, lặp đi lặp lại như thế (niệm trong cổ
nhưng vẫn nghe được tiếng. Tập trung tư tưởng nghe tiếng niệm đó, không nghĩ gì
khác hơn.[3]
4. Thiền
thở (quán sổ tức) là một trong những cách dễ nhất để định
tâm mà Đức Phật đã chỉ dạy trong kinh “Quán Niệm Hơi Thở” [Anapanasati sutta]. Bác sĩ Andrew
Weil (Đại học Arizona, Mỹ), một trong những người đã thí nghiệm và cũng đề nghị
sử dụng pháp Thiền Thở để định tâm. Sau
khi tâm được an định, hành giả không cần đếm mà tập trung tâm theo hơi thở vào
hơi thở ra (gọi là tùy tức, (Following the Breath).[4]
(Hình bên: Thiền tập tại câu lạc bộ Nhân Sinh)
LỢI ÍCH
Sau đây là những minh chứng
các bác sĩ phương Tây đã dùng thiền để trị bệnh
và đạt được kết quả :
1.
Bệnh ung thư
“Bác sĩ phân tâm học, Ainslie Meares, công bố những
nghiên cứu liên tục trong các năm 1960 với tựa đề Giảm bệnh không cần thuốc
(Relief Without Drugs). Trong bản công bố ông ghi lại những kỹ thuật thiền đơn
giản (từ Ấn giáo, vì có lẽ ông chưa biết
thiền Phật Giáo, HQ), là các phương cách
hữu hiệu có khả năng chữa trị các bệnh lo âu, sợ hải, giảm căng thẳng và đau
nhức thường trực”, làm cho cơ thể hoạt động bình thường, hệ miễn nhiễm tăng
trưởng giúp bệnh nhân cancer thư giản, thoải mái, bớt bệnh.
Khoa học gia Jon Kabat-Zinn, tại đại học UCLA, Los Angeles, California, cũng sử
dụng thiền chánh niệm trong chương trình Thiền thư giãn MBSR (Mindfulness-Based
Stress Reduction) để trị bệnh ung thư. Một thí nghiệm 90 bệnh nhân được công bố
cho thấy 31% giảm được sự căng thẳng buồn lo và 67% giảm tâm tính bất thường
làm gia tăng sức đề kháng của hệ miễn nhiễm, giúp bệnh ung thư thuyên giảm.”[5]
“Vào tháng 11
năm 1979, trên tạp chí Medicine Journal Australia, bác sĩ Mearses báo cáo về một
trường hợp ung thư ruột kết (colon) của một người đàn ông 64 tuổi, một nhà tâm
lý học. Ông ta
không chịu giải phẫu mà thích hành thiền trung bình 3 giờ mỗi ngày. Chỉ sau 2
tuần lễ đã thấy có sự cải thiện. Sau 6 tuần thì chấm dứt sự trợ lực bơm thụt vào hậu môn – giúp lưu
thông ruột kết. Sau 2 tháng không còn chứng thức giấc giữa đêm. Sau 6 tháng, phân trở lại kích thước bình
thường và sau 1 năm thì dứt hẳn chứng ung thư.”[6]
2.
Bệnh AIDS
“Tháng 7.2008
đại học UCLA có cuộc thí nghiệm của Giáo sư Tiến sĩ Jon Kabat-Zinn về chữa trị
bệnh AIDS, chương trình 8 tuần “Thiền Chánh niệm giảm căng thẳng MBSR
(Mindfulness-Based Stress Reduction). Ông chia bệnh nhân làm hai nhóm. Một nhóm
ngồi thiền, một nhóm uống thuốc không ngồi thiền.
Sau 8 tuần,
chích máu thí nghiệm. Kết quả như sau: Trung bình, mỗi người ngồi thiền có số
lượng bạch huyết cầu (CD4+T) tăng lên 20, còn người chỉ uống thuốc mà không ngồi
thiền, bạch huyết cầu (CD4+T) bị sụt giảm mất 185 trung bình cho mỗi người. Với
kết quả nầy cho thấy Thiền công hiệu hơn thuốc. Bạch huyết cầu CD4+T có khả
năng làm chậm hay chận đứng sự phát triển của bệnh AIDS.”[7]
3. Bệnh tim
Hơn 10 năm trước đây một bài trên Nhật báo Los Angeles Times
cho biết, BS Dean Ornish chữa những bệnh tim hiểm nghèo bằng ba phương
pháp là cho bệnh nhân ăn chay, tập thể dục
và ngồi thiền. Kết quả đạt 85%. Các hãng bảo hiểm sức khỏe (Health
Insurance Companies) lớn như Blue Cross, Blue Shield, Mutual of Omaha tài trợ
cho mỗi người bệnh 3.500 Mỹ kim để chữa bệnh tim theo phương pháp nầy.[8]
THIỀN GIÁC NGỘ
1. Định nghĩa
Thân đã vô thường, nhưng còn tâm niệm có thường không ? Tâm niệm cũng âm
thầm dời đổi, có phần thô lại có phần mau lẹ và vi tế hơn, nếu như chúng ta
không có “sức định” thì khó mà thấy được. “Sức định” càng sâu thì chúng ta càng
nhìn nhận được những thay đổi của tâm, quá trình sanh diệt của tâm. Từ đó chúng
ta nhận biết được bản chất thật của các pháp, thoát khỏi các phiền não khổ đau,
đạt được an lạc, giải thoát. Đây chính là thiền giác ngộ. Nhưng tâm thì gồm có
thô tâm, vi tế tâm.
1.1 Thô tâm
Thô tâm có nghĩa là những tâm mà mắt thường có thể nhìn thấy, chẩn đoán
được vì nó biểu hiện ra bên ngoài như : trầm cảm, căng thẳng, nóng giận…Những
trạng thái tâm này thực chất đã được tích tụ từ rất lâu bây giờ vượt “quá ngưỡng”
nên mới bộc phát ra bên ngoài.
1.2 Vi tế tâm
Vi tế tâm là những tâm mà mắt thường chúng ta không thể thấy được, các
máy móc hiện đại ngày nay cũng không thể nào chẩn đoán được. Những tâm vi tế
này chỉ có thể dùng “công phu miên mật, đạt
được đại định” mới có thể nhìn thấy, ví như tấm gương càng sáng thì càng
nhìn thấy rõ mọi vật hiển hiện trên đó.
2. Phương
pháp ứng dụng
Có rất nhiều phương pháp thiền để đưa đến giác ngộ như:
Phật giáo Nguyên thủy thì có :
– Thiền Tứ Niệm Xứ gồm có: niệm thân, niệm thọ, niệm
tâm, niệm pháp.
– Thiền Minh Sát Tuệ, nghĩa là dùng trí tuệ để quán sát
các pháp.
Phật giáo Phát triển có:
– Tịnh độ tông dùng phương pháp niệm Phật, nghĩa là
nương vào câu niệm Phật để định tâm.
– Mật tông: nương vào câu thần chú để định tâm.
– Thiền tông gồm có: Lục diệu pháp môn, Như Lai thiền, Tổ
Sư thiền…
LỢI
ÍCH
Tất cả chúng ta đang bị trói buộc bởi ngũ dục
(tài, sắc, danh, thực, thụy), tham ái chi phối cho nên lúc nào cũng cam tâm
tình nguyện làm nô lệ cho chúng. Giờ đây, nương vào những phương pháp thiền
giác ngộ chúng ta được làm chủ bản thân mình, có cơ hội nhìn nhận bản chất thực
của các pháp, chọc thủng bức màn vô minh để nếm trải hương vị an lạc trong hiện
tại và giải thoát trong tương lai.
Đức Phật, chư Tổ từ Ấn Độ, Trung Hoa đến Việt
Nam là những vị đã đạt được những hương vị quý giá đó.
LIÊN HỆ GIỮA THIỀN
GIÁC NGỘ VÀ THIỀN SỨC KHỎE
Tuy hai tên gọi hoàn toàn khác nhau vì do mục
đích hành thiền của mỗi hành giả khác nhau, nhưng giữa thiền giác ngộ và thiền
sức khỏe có sự liên hệ mật thiết với nhau, hỗ tương lẫn nhau hay nói cách khác
tuy hai nhưng là một.
1. Từ thiền sức khỏe đến thiền giác ngộ
“Bị lao phổi, sau 7 lần mổ, bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện chỉ còn một góc phổi, mất 8 xương sườn. Thế nhưng ông đã sống đến tuổi 85
chỉ nhờ một bài thở. Ông sinh năm 1913 tại Hà Tĩnh, học Đại học Y khoa Hà Nội
rồi sang Pháp tiếp tục học, tốt nghiệp bác sĩ Nhi khoa năm 1941. Năm 1942, ông
bị lao phổi nặng, điều trị ở Bệnh viện Saint Hilaire du Touvet,
Grenoble. Thời đó, bệnh lao chưa có thuốc chữa. Từ năm 1943 đến 1948, ông
phải chịu mổ bảy lần, cắt bỏ tám xương sườn, cắt bỏ toàn bộ lá phổi bên phải và
một phần ba lá phổi bên trái. Các bác sĩ Pháp bảo ông chỉ có thể sống được hai
năm nữa. Trong thời gian nằm chờ chết, ông đã tìm ra phương pháp thở để tự
chữa bệnh cho mình. Và kết quả là ông đã sống đến tuổi 85 mới mất (1997), nghĩa
là sống thêm được 50 năm nữa. Ông là bác sĩ, đồng thời là một nhà văn, nhà
báo, nhà hoạt động xã hội rất nhiệt tâm. Ông là cố vấn của bộ môn tâm lý – xã
hội học, tại Trung tâm Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố Hồ Chí Minh
(nay là Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch). Trong lúc nhiều người giảng bài,
nói chuyện, hội họp, làm việc… thấy uể oải, hụt hơi, thì một người chỉ còn hai
phần ba lá phổi, chỉ còn gần một nửa “dung tích sống” như ông lại vẫn ung dung,
thư thái không bị stress, không bị mệt.” [9]
Qua đây chúng ta thấy: Trong cơn “thập tử nhất sinh” bác sĩ Nguyễn Khắc
Viện đã thực hành thiền thở với mục đích ban đầu là chữa trị bệnh cho mình. Nhưng
ông không ngờ rằng: không những ông sống thêm được 50 năm mà ông còn thực chứng
được sự vô thường ngay trên bản thân mình.
2. Từ thiền
giác ngộ đến thiền sức khỏe
Tháng 04 năm 1966, Hòa
thượng Thích Thanh Từ dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu. Tháng 07 năm
1968, Hòa thượng liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát Nhã. Từ con mắt
Bát Nhã trông qua tạng Kinh, lời Phật, ý Tổ hoác toang thông thống. Giáo lý Đại
thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng khám phá từ công phu thiền định của
Người. Ngày 08 tháng 12 năm ấy, Hòa thượng tuyên bố ra thất
giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử. Nước cam lồ từ đây rưới khắp, suối
từ bi từ đây tuôn chảy, mở ra trang Thiền sử Việt Nam
rực rỡ huy hoàng vào cuối thế kỷ 20.[10]
Hiện nay, tuy Ngài đã 90 tuổi, tấm
thân giả tạm luôn phải gánh chịu những biến đổi về vật lý như: tim mạch, đau nhức…
nhưng thần thái của Hòa thượng luôn an lạc, tự tại.
Điều này chứng tỏ rằng, với những vị đã giác ngộ thì tuy thân mang trọng
bệnh nhưng đối với các Ngài không có gì là to tát. Ngược lại, các Ngài càng nhìn
nhận rõ hơn về sự duyên hợp của thân, làm chủ được thân, tinh thần của các Ngài
rất định tĩnh nhờ đó mà không bị bệnh tình chi phối nhiều mà ngày càng thuyên
giảm.
Bác sĩ Herbert Benson cho rằng có từ 60% đến 90% bệnh tật là do căng thẳng
gây ra.
KẾT LUẬN
Thiền giác ngộ và thiền sức khỏe thực ra chỉ là một. Khi chúng ta thực
hành thiền sức khỏe thì chúng ta đã thực hành thiền giác ngộ và ngược lại. Cả
hai hòa quyện vào nhau và hỗ trợ cho nhau. Nếu chúng ta thực hành thiền sức khỏe
mà tâm trí không tập trung thì không có lợi cho sức khỏe Vì thế, tập trung tâm
vào một chỗ là điều kiện hàng đầu của phương pháp thiền sức khỏe.
Cũng vậy nếu như chúng ta thực hành thiền giác ngộ mà tâm tán loạn thì
thân thể chúng ta cũng sẽ gánh chịu những hậu quả nặng nề như tẩu hỏa nhập ma,
bệnh tim mạch…Do đó, yêu cầu của thiền giác ngộ là “chế tâm nhất xứ, vạn sự
vô cữu”, nghĩa là nếu để tâm ở một chỗ thì muôn việc không có lỗi.
Tóm lại, hai phương pháp thiền đều có chung một điều kiện. Cho nên trong
khi thực hành thiền sức khỏe là đang thực hành thiền giác ngộ và thực hành thiền
giác ngộ là đang thực hành thiền sức khỏe.
Có thể hiểu gọn hơn là, giảm tham sân si bệnh lìa khỏi xác. Tam nghiệp
chưa trừ giác ngộ được sao?
[1] HT.Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông,
quyển 1, thành phố Hồ Chí Minh: Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh ấn
hành, 1992, trang 248.
[2] Thiền, http://vi.wikipedia.org
[3] Hồng Quang, xuân 2013, sđd, trang 31
[4] Hồng Quang, xuân 2013, sđd, trang 74
[5] Hồng Quang, xuân 2013, Thiền và những
lợi ích thiết thực, trang 24
[6] Minh Phúc, Thiền định và trị liệu,
http://daophatngaynay.com/vn/phat-phap/giao-phap/np-thp/3071-Thien-Dinh-va-Tri-Lieu.html
[7] Hồng Quang, xuân 2013,sđd, trang 18
[8] Hồng Quang, xuân 2013, sđd, trang 9
[9] Thạc sĩ Nguyễn Văn San, Phương
pháp hít thở của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, http://dienchan.vn/phuong-phap-hit-tho-cua-bac-si-nguyen-khac-vien/
[10] Tiểu sử Hòa thượng Thích Thanh
Từ, http://www.chualinhson.com/phapam/ht-thanhtu.html
Discussion about this post