TÔI LÀ NGƯỜI DUY NHẤT
CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ ỦNG HỘ RỘNG RÃI
Đức Đạt Lai Lạt Ma | Tuệ Uyển chuyển ngữ
Lúc Mười Sáu Tuổi, Tôi Trở Thành Lãnh Tụ Thế Quyền Của Tây Tạng
THÁNG MƯỜI NĂM 1950, trong chiến dịch của họ ở miền Đông Tây Tạng, Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Cộng đã gây ra những thất bại nặng nề vào quân đội của chúng tôi, vốn rất ít ỏi và vũ khí thô sơ hơn họ rất nhiều. Khi chúng tôi biết rằng thành phố Chamdo đã rơi vào quân Trung Cộng, sự lo âu của chúng tôi gia tăng mãnh liệt. Đối diện với hiểm họa lù lù trước mắt, dân chúng Lhasa được động viên để yêu cầu tôi được lãnh trách nhiệm và được bổ nhiệm vai trò lãnh đạo thế quyền.
Những tuyên bố được dán trên những bức tường của thành phố, chỉ trích chính phủ dữ dội và yêu cầu tôi nắm lấy vận mạng của đất nước trong tay tôi. Tôi nhớ là mình đầy lo lắng khi tin tức đến tai tôi. Tôi chỉ mới mười sáu tuổi, và chưa hoàn tất việc tu học của tôi. Điều gì nữa, tôi không biết gì về những sự thay đổi xảy ra ở Trung Hoa và đã dẫn đến việc xâm lược quê hương tôi. Tôi không được tiếp nhận bất cứ sự huấn luyện nào về chính trị. Cho nên tôi đã chống lại, viện cớ không có kinh nghiệm và tuổi tác của tôi, vì thông thường một Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ giảm bớt trách nhiệm của vị nhiếp chính vào tuổi mười tám chứ không phải mười sáu.
Rõ ràng rằng những thời gian dài của nhiếp chính là một điểm yếu của hiến pháp chúng tôi. Tự tôi đã có vài năm có thể quán sát những căng thẳng giữa những bè phái khác nhau trong chính quyền và hệ quả tai hại của họ đối với việc quản lý đất nước. Hoàn cảnh đã trở thành thảm họa dưới sự đe dọa xâm lược của Trung Cộng. Hơn thế nữa, chúng tôi cần thống nhất, và như một Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi là người duy nhất có thể đạt được sự hổ trợ phổ quát của đất nước.
Nội các của tôi đã quyết định tham khảo ý kiến nhà tiên tri của quốc gia. Vào cuối buổi lễ, một vị tu sĩ Hộ Pháp Kuten, thường tuyên bố những điều trong lúc xuất thần, lảo đảo dưới sức nặng của khôi giáp, đã đi đến tôi là đặt trên đùi tôi một kata, một khăn choàng nghi lễ trắng, mà trên ấy ông đã viết những chữ “thu la bap – thời của ngài đã đến.”
Vị tiên tri đã nói. Tôi phải lãnh trách nhiệm và chuẩn bị không thể chậm trể để lãnh đạo đất nước tôi, vốn đang đi vào chiến tranh.
***
Vào ngày 17 tháng Mười Một năm 1950, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chính thức trở thành vị lãnh tụ thế quyền của Tây Tạng. Vào ngày 1 tháng Mười năm 1949, Mao Trạch Đông với chiến thắng quân Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đã tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ở Bắc Kinh. Bắt đầu ngày 1 tháng Giêng năm 1950, Mao cho biết ý định sẽ “giải phóng” Tây Tạng, mà người Tàu thường gọi một cách truyền thống là “Ngôi Nhà của Những Kho Tàng Phương Tây” hay Tây Tạng. Trong ngôn ngữ tuyên truyền, “sự giải phóng” là một vấn đề chấm dứt “chủ nghĩa đế quốc phương Tây” và “chính phủ phản động” của chế độ thần quyền cuối cùng trên thế giới. Tuy nhiên, vào lúc ấy chỉ có bảy người ngoại quốc ở Tây Tạng.
Vào ngày 7 tháng Mười năm 1950, năm mươi nghìn quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Cộng đã vượt sông Dương Tử, biên giới phía Đông giữa Tây Tạng và Trung Hoa. Mặc cho sự chống cự mãnh liệt của 8,500 binh sĩ Tây Tạng và những trở ngại thiên nhiên đáng kể, đội quân Trung Cộng đã tiến không ngừng. Nó chỉ dừng lại cách thủ đô Lhasa vài trăm cây số.
Chính quyền Tây Tạng đã được kêu gọi gửi một phái đoàn đến Bắc Kinh để thương thảo với nhà cầm quyền Trung Cộng về những điều kiện của cuộc “giải phóng hòa bình.”
Chúng Tôi Đã Tin Tưởng Một Cách Sai Lầm Rằng
Cô Lập Sẽ Bảo Đảm Cho Sự Hòa Bình Của Chúng Tôi
SỰ ĐE DỌA CHO NỀN tự do của Tây Tạng đã không thoát khỏi sự chú ý của thế giới. Chính quyền Ấn Độ, được sự hổ trợ của Anh Quốc, chống lại quyền lực của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào tháng Mười Một năm 1950, tuyên bố rằng sự xâm lược đất nước chúng tôi đe dọa hòa bình. Nhưng tất cả đều là rỗng tuếch. Chúng tôi sẽ phải trả cho cái giá về sự cô lập của tổ tiên chúng tôi.
Địa lý cắt rời đất nước chúng tôi với thế giới còn lại. Trước đây ở Tây Tạng, nhằm để đến những biên giới của Ấn Độ hay Nepal, người ta phải dự định một hành trình dài đăng đẳng, khó khăn, hàng tháng từ Lhasa xuyên qua những đường đèo cao ngất của Hy Mã Lạp Sơn vốn không thể vượt qua hầu như suốt cả năm.
Cô lập, thế thì, là một biểu hiện đặc trưng của đất nước chúng tôi, và chúng tôi cẩn thận củng cố nó bằng việc chỉ cho phép hiện diện một con số nhỏ những người ngoại quốc. Trong quá khứ, Lhasa thậm chí được gọi là “Tử Cấm Thành”. Thật đúng rằng, theo lịch sử những mối quan hệ của chúng tôi với những dân tộc láng giềng – Mongolia, Mãn Châu, và Trung Hoa – là đối nghịch. Trên tất cả, mặc dù, chúng tôi muốn sống trong hòa bình, trong tâm linh của tôn giáo chúng tôi. Chúng tôi đã nghĩ rằng chúng tôi có thể tiếp tục cách sống hòa bình này bằng việc duy trì nó tách biệt với thế giới. Đây là một sai lầm. Và ngày nay, tôi làm cho nó có bổn phận là để cửa rộng mở với tất cả mọi người.
***
Đức Đạt Lai Lạt Ma hối tiếc một cách đúng đắn rằng, vì thiếu sự quan tâm trong chính trị ngoại giao và thiếu kinh nghiệm trong những mối quan hệ quốc tế, Tây Tạng quên lãng việc làm cho sự độc lập của mình được biết một cách chính thức trong cộng đồng những quốc gia trên thế giới. Sự kiện Tây Tạng độc lập[1] đã được tuyên bố dưới thời Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 trong cuộc cách mạng Trung Hoa lần thứ nhất năm 1911 (Tân Hợi), và trục xuất Trú Trát Đại Thần (đại diện của hoàng đế) cùng với một đội quân trú phòng nhỏ Trung Hoa.
Vào đầu thế kỷ 20, trong thực tế Tây Tạng đầy đủ tiêu chuẩn của một quốc gia có chủ quyền. Nó sở hữu một lãnh thổ và những biên giới xác định và một chính quyền thực hiện thẩm quyền trọn vẹn và duy trì những mối liên hệ quốc tế. Năm 1947, trong Hội Nghị Quan Hệ Á Châu ở New Delhi, phái đoàn Tây Tạng đã ngồi cùng với lá cờ của họ, cùng với đại diện của 32 quốc gia. Nhưng chính sách ngoại giao của Tây Tạng đã chỉ giới hạn sự tiếp xúc với những quốc gia có cùng biên giới: Anh quốc, và sau này Ấn Độ độc lập, Nepal, Bhutan, và Trung Hoa. Vị thế độc lập thật sự này không được hợp pháp hóa qua sự nhìn nhận của quốc tế.
Sự độc lập của Tây Tạng trong mối quan hệ với Trung Hoa tự nó mâu thuẩn để giải thích do bởi sự phức tạp và thường bị hiểu sai vì chính trị và tôn giáo vốn bị làm rối rắm trong mỗi nước. Trong quá khứ vốn từng là một quốc gia chiến đấu ở Mông Cổ, Trung Hoa, và những thị quốc trong Đường Tơ Lụa, mà Tây Tạng đã bao gồm, vào lúc quân đội đạt đến tột đỉnh trong thế kỷ thứ 8, những dân tộc Ấn – Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, và Trung Hoa, và ngay cả chiếm cứ kinh đô Tràng An của Trung Hoa. Mặc dù bị chinh phục bởi những người Mông Cổ vào thế kỷ thứ 10, nhưng Tây Tạng chưa bao giờ bị sáp nhập vào trong đế quốc của họ.
Một mối quan hệ thầy – trò bảo hộ tâm linh được thiết lập giữa những Đức Đạt Lai Lạt Ma và những vị vua khả hản của Mongolia, và vào thế kỷ 13, khi người Mông Cổ thành lập triều Đại Nguyên ở Trung Hoa, mối quan hệ như vậy cũng đã được thiết lập giữa Thiên Tử Hoàng Đế và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Hoàng đế Đại Nguyên được các vị Đạt Lai Lạt Ma xem như hóa thân của Mạn Thù Thất Lợi trên trái đất, vị Bồ tát của Tuệ Trí, và quyền lực bảo hộ thế tục được giao cho hoàng đế. Đức Đạt Lai Lạt Ma, dòng truyền thừa hóa thân từ đức Quán Thế Âm, vị Bồ tát của từ bi Giác Ngộ, thi hành thẩm quyền tâm linh được tôn trọng cả ở Trung Hoa và Mongolia.
Trong phạm vi của mối quan hệ đặc biệt như vậy, vào thế kỷ 18 quân đội Đại Thanh Trung Hoa đã can thiệp để tái lập vị trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 7, khi Tây Tạng bị phân chia bởi một cuộc nội chiến. Hai vị Trú trát đại thần ở lại Lhasa, nhưng họ được yêu cầu phải báo cáo với chính quyền của Đức Đạt Lai Lạt Ma, và họ chưa bao giờ thi hành bất cứ đặc quyền nào nhân danh Đại Thanh Trung Hoa.
Sau này, trong thế kỷ 20, Tây Tạng trở thành một chiếc cọc của Trung Á khi nó bị căng thẳng bởi sự tham lam của cả Nga và Anh. Trước tiên Anh Quốc cố gắng ký kết những thỏa thuận thương mại với Trung Hoa về Tây Tạng và để vẽ lại một cách đơn phương những biên giới của vương quốc Hy Mã Lạp Sơn. Nhưng người Tây Tạng chống lại hiệu lực của những hiệp ước này.
Năm 1904, một đội quân thám hiểm của Anh cố gắng để áp đặt quyền ưu tiên của Anh Quốc bằng vũ lực, và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 phải rời khỏi thủ đô bị chiếm đóng. Anh Quốc và vị nhiếp chính ký Hiệp Định Lhasa, bồi thường chiến tranh và cho Anh Quốc đặc quyền thương mại. Hiệp định này thiết lập một sự thừa nhận thực tế về chủ quyền của Tây Tạng trong mối quan hệ với quốc gia Trung Hoa. Nó được củng cố vào năm 1906 bằng một văn kiện mà Anh Quốc ký với Trung Hoa, vốn chấp nhận rõ ràng hiệp định Anh – Tạng.
Tuy thế, năm 1907, để củng cố quyền lợi của họ, Anh Quốc thương thảo lại với người Trung Hoa và đã kết thúc bằng hiệp định Bắc Kinh, mà trong ấy họ đồng ý không thương thảo với Tây Tạng ngoại trừ qua sự trung gian của Trung Hoa. Trong sự mâu thuẩn trắng trợn với những thỏa ước trước, hiệp định mới rõ ràng nhìn nhận “quyền bá chủ” của Trung Hoa đối với Tây Tạng. Vì vậy, một sự thật tương phản được hợp thức hóa, hình thành một căn bản để sau này người Trung Hoa cho rằng Tây Tạng là một phần của Trung Hoa.
Đức Đạt Lai Lạt Ma lấy làm tiếc về những mâu thuẩn trong Hiệp Định Bắc Kinh, mà những hậu quả của nó thành ra rất nghiêm trọng cho đất nước của ngài: “quyền bá chủ là một thuật ngữ mơ hồ và cũ kỷ. Có lẻ nó là thuật ngữ gần nhất của chính trị phương Tây để diễn tả những mối quan hệ giữa Tây Tạng và Trung Hoa từ 1720 đến 1890, tuy thế, nó rất là không chính xác, và việc sử dụng nó đã làm lạc hướng toàn bộ những thế hệ các chính khách phương Tây. Nó đã không quan tâm đến mối quan hệ tâm linh qua lại, hay việc nhìn nhận rằng mối quan hệ ấy là một vấn đề cá nhân của các Đức Đạt Lai Lạt Ma và những hoàng đế Mãn Châu. Có nhiều mối quan hệ Đông phương cổ xưa như vậy mà vốn không thể diễn tả được trong những thuật ngữ chính trị có sẳn ở phương Tây. Những cuộc phản kháng của người Tây Tạng sau đó ở trước Liên Hiệp Quốc đã không thành công trong việc gạt bỏ thẩm quyền của Trung Hoa và việc thừa nhận chủ quyền của người Tây Tạng.
Tôi Xác Nhận Sự Kêu Gọi Của Nội Các Tây Tạng Với Liên Hiệp Quốc
NGÀY 7 THÁNG MƯỜI MỘT NĂM 1950, nội các và chính quyền Tây Tạng đã kêu gọi Liên Hiệp Quốc, yêu cầu họ can thiệp cho chúng tôi. Tôi đã chấp nhận những thuật ngữ của lá thư:
Chú ý của thế giới đã được đoàn kết lại nơi mà sự gây hấn đang bị chống lại bởi lực lượng quốc tế. Tương tự thế những gì đang xảy ra ở một vùng xa xôi Tây Tạng lại đang trôi qua mà không được đề cập đến. Chính là trong niềm tin tưởng rằng sự xâm lược sẽ không tiếp diễn mà không được kiểm soát và sự tự do không được bảo vệ ở bất cứ nơi nào trên thế giới mà chúng tôi có trách nhiệm báo cáo đến Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, qua quý vị, những gì mới xảy ra gần đây trong vùng biên giới của Tây Tạng.
Như quý vị đã biết, vấn nạn Tây Tạng có tầm vóc trong thời gian gần đây. Vấn nạn này không phải của do chính Tây Tạng tạo ra nhưng chính phần lớn là sự hậu quả tham vọng không bị cản trở của Trung Hoa nhằm đưa những quốc gia yếu kém vùng ngoại biên ở dưới sự thống trị tàn bạo của nó.
***
Chiến lược của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là nhằm làm cho phương Tây tin rằng họ cam kết chân thành giải quyết hòa bình vấn đề Tây Tạng. Những quốc gia hàng đầu vốn đang bận tâm với hiểm họa chiến tranh hạt nhân; với Đại Hàn đang ở trọng điểm sự quan tâm của họ, và Liên Xô đã tuyên bố ủng hộ Trung Hoa Mao-ít. Quốc gia thành viên duy nhất đã ra lời kêu gọi chống lại sự xâm lược của lực lượng ngoại nhập vào Tây Tạng là El Salvador, tháng Mười Một năm 1950. Thủ Tướng Jawaharlal Nehru của Ấn Độ, người vốn quan tâm đến việc duy trì quan hệ hữu nghị của ông với người láng giềng khổng lồ ở phía Bắc, đã từ chối can thiệp, Anh Quốc cho thấy sự dửng dưng của họ, và Hoa Kỳ chọn sự thận trọng vì sợ làm suy sụp những mối quan hệ của họ với Xô Viết.
Tuy nhiên, trên đất nước Tây Tạng, quân đội Trung Cộng đang gây ra những hành vi bạo động ở miền Đông Tây Tạng. Chính phủ Tây Tạng đã gởi một phái đoàn đến Bắc Kinh để đàm phán. Nhưng những sự thảo luận đã đi đến dừng lại đột ngột, và bị đe dọa với một cuộc diễn hành quân sự ở Lhasa, vào ngày 23 tháng Ba năm 1951, những phái viên Tây Tạng đã ký một Thỏa Ước cho sự Giải Phóng Tây Tạng một cách Hòa Bình, cũng được gọi là Thỏa Ước Mười Bảy Điểm, vốn được sắp xếp sự sáp nhập xứ sở của họ bởi Trung Hoa.
Theo những Hội Đồng Luật Gia Quốc Tế, văn kiện này là vô giá trị dưới luật lệ quốc tế bởi vì nó được ký kết dưới sự đe dọa của vũ khí.
Đất Mẹ Một Sự Dối Trá Hổ Thẹn
TÔI THƯỜNG NGHE TIN TỨC từ đài phát thanh Bắc Kinh bằng Tạng ngữ. Một đêm nọ chỉ có mình tôi, đột nhiên nghe một giọng chát chúa tuyên bố rằng Thỏa Ước Mười Bảy Điểm cho sự Giải Phóng Tây Tạng Hòa Bình mới vừa được ký kết giữa những đại diện của chính quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và cái gọi là chính quyền khu vực Tây Tạng.
Tôi đã không thể tin tưởng tai tôi. Tôi muốn nhảy lên và gọi mọi người, nhưng tôi như bị dán chặc vào chỗ ngồi của tôi. Người tuyên bố giải thích rằng “trong thế kỷ vừa qua, những lực lượng gây hấn của đế quốc đã xâm lược Tây Tạng gây ra đủ loại ngược đãi và kích động ở đó. Kết quả của việc này,” ông ta nói là “dân tộc Tây Tạng bị ngập sâu vào những khổ đau nô lệ tràn trề.” Thân thể tôi như bị bệnh khi tôi nghe những dối trá không thể có và những sáo ngữ tuyên truyền kỳ quái.
Nhưng những điều tồi tệ nhất chưa đến. Đài phát thanh tuyên bố rằng, theo điều đầu tiên của Thỏa Ước, dân tộc Tây Tạng sẽ trở về “đất của mẹ họ”. Rằng Tây Tạng có thể trở về đất mẹ là một sự dối trá xấu hổ! Tây Tạng chưa bao giờ là một phần của Trung Hoa. Trái lại, nó có thể đòi hỏi những phần lãnh thổ rộng lớn của Trung Hoa. Những dân tộc của chúng tôi là khác biệt chủng tộc, và hoàn toàn triệt để như vậy. Chúng tôi không nói cùng một ngôn ngữ, và chữ viết của chúng tôi không có gì chung với chữ viết Trung Hoa.
Điều đáng báo động nhất là phái đoàn Tây Tạng không có quyền ký kết nhân danh tôi. Nhiệm vụ duy nhất của họ là đàm phán; tôi đã giữ ấn triện quốc gia với tôi.
***
Đức Đạt Lai Lạt Ma bị đối diện với một tình trạng khó xử. Anh trai của ngài, Takster Rinpoche, đã rời tu viện Kumbum và tiếp xúc với nhà ngoại giao ở Calcutta. Ông tin chắc rằng người Mỹ sẽ không dung thứ sự bành trướng của chủ nghĩa Trung Cộng và họ sẽ chiến đấu cho Tây Tạng. Biết rằng quân đội Hoa Kỳ đang tham dự ở Đại Hàn, Đức Đạt Lai Lạt Ma nghi ngờ người Mỹ sẽ mở chiến trận thứ hai ở Tây Tạng. Điều gì hơn thế nữa, nhận biết rằng Trung Hoa là một đất nước nhiều dân số, ngài sợ rằng một cuộc xung đột quân sự, ngay cả được hổ trợ bởi sức mạnh bên ngoài, sẽ cực kỳ lâu dài và đẫm máu. Để tránh sự tắm máu với một kết quả không lường được, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi quyết định gặp gở những lãnh tụ Trung Cộng. Nghĩ rằng họ cũng là những con người, ngài hy vọng có thể thảo luận mọi việc với họ và đạt đến một thỏa thuận.
Cá Tính Của Mao Gây ấn Tượng Với Tôi
MẶC DÙ PHẠM VI của những mối quan hệ khó khăn với Trung Hoa, nhưng năm 1954, và 1955 tôi đã đi đến quốc gia ấy. Đó là một cơ hội tốt để khám phá một thế giới khác biệt. Điều gì hơn nữa, trong cuộc du hành này tôi đã gặp nhiều người Tây Tạng trong các tỉnh Kham và Amdo, thế nên tôi đã thu thập nhiều kinh nghiệm và hiểu biết mới. Tôi cũng đã gặp nhiều lãnh tụ, đáng chú ý là Mao Trạch Đông. Lần đầu tiên tôi gặp ông trong một cuộc biểu tình công cộng. Khi tôi đi vào phòng của ông, tôi chú ý trước nhất là ánh đèn pin, Mao đang ngồi giữa ánh sáng ấy, rất tĩnh lặng và thư thái. Ông không giống như một người đàn ông thông thái đặc thù. Khi tôi bắt tay ông, mặc dù, tôi cảm thấy giống như tôi đang ở trong một năng lực điện từ mạnh. Thái độ của ông rất thân thiện, cung cách tự nhiên, mặc dù nghi thức.
Tất cả, tôi có ít nhất hơn chục lần gặp gở với ông, hầu hết là trong những buổi hội họp đông đảo, nhưng một vài lần cá nhân. Trong những hoàn cảnh như vậy, cho dù là yến tiệc hay hội nghị, ông luôn luôn để tôi ngồi bên cạnh ông, và ngay cả một lần sớt thức ăn cho tôi.
Tôi thấy ông ta thật ấn tượng. Về thể chất mà nói, ông rất khác thường. Ông có nước da thẩm màu, nhưng làn da dường như lấp lánh, giống như ông có thoa kem.
Bàn tay ông rất đẹp và có cùng ánh sáng lạ ấy, với những ngón tay hoàn hảo và những ngón tay cái to sắc xảo. Tôi chú ý rằng ông dường như hơi khó thở, và thường khò khè. Có lẻ điều ấy tác động đến cung cách nói năng của ông, là luôn luôn chậm chạp và chính xác. Ông dường như từng phần từng câu ngắn, chắc chắn là vì cùng lý do ấy. Chuyển động và tư thái của ông cũng rất chậm chạp. Phải cần vài giây để chuyển đầu ông từ trái sang phải, tạo cho ông không khí trang nghiêm và tự tin.
Cuộc phỏng vấn cuối cùng của chúng tôi xảy ra vào mùa xuân năm 1955, trong phòng của ông, một ngày trước khi tôi khởi hành. Tôi đã đi thăm vài tỉnh của Trung Hoa vào lúc ấy và tôi đã sẳn sàng để nói với ông trong tất cả sự chân thành rằng tôi bị hấp dẫn một cách mạnh mẽ trong những chương trình phát triển khác nhau cho Tây Tạng. Nhưng ông ta đến gần tôi và thì thầm, “Thái độ của ông là đúng đắn vì ông đang học hỏi. Nhưng hãy tin tôi, tôn giáo là thuốc độc vốn có hai khuyết điểm nghiêm trọng: nó làm giảm thiểu dân số, vì tăng và ni thệ nguyện độc thân, và nó làm ngăn trở tiến trình. Nó đã sinh ra hai nạn nhân, Tây Tạng và Mông Cổ.”
Với những lời này, tôi bị ngập tràn với một cảm giác cháy bỏng trên mặt tôi và một sự sợ hãi mãnh liệt.
***
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã rời Trung Hoa mà không có bất cứ ảo tưởng nào. Nhưng ngài quán chiếu một cách thẳng thắn rằng những người đang gặp khó khăn luôn luôn có xu hướng bám víu với sự hy vọng mong manh nhất, thế nên ngài lại cố gắng để tìm một nền tảng chung với kẻ chiếm đóng, mà sự hiện diện của họ đã được củng cố với sự vắng mặt của ngài.
Sau khi ký Thỏa Ước Mười Bảy Điểm, Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Cộng đã tiếp tục mở rộng sự chiếm đóng của họ, chiếm cứ Lhasa và trung tâm Tây Tạng. Đảng Trung Cộng tiếp tục phá hoại những tỉnh phía Đông Tây Tạng, vốn được chuyển giao dưới thẩm quyền của những địa phương khác nhau của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, vì trong năm 1955 Mao đã quyết định bao gồm những tỉnh này trong “dòng thác xã hội chủ nghĩa hóa vĩ đại.”
Giữa những năm 1950 và 1959, phí tổn bồi dưỡng cho quân chiếm đóng và những vùng đất tập thể hóa đầu tiên gây ra nạn đói, trong khi lao động bị buộc phải xây dựng những đường xá chiến lược. Khi, bắt đầu “Đại Nhảy Vọt” của năm 1958, cải cách dân chủ kéo theo việc buộc tố cáo những lãnh tụ Tây Tạng và những lạt ma tôn kính, đưa đến những cuộc nổi dậy lan tỏa phổ biến. Nhà đương cục Trung Cộng củng cố quân đội chiếm đóng với những đội quân tăng cường khi lực lượng kháng chiến vũ trang chống lại kẻ chiếm đóng trở nên cực đoan hơn ở miền Đông Tây Tạng của các tỉnh Kham và Amdo.
10 Tháng Ba 1959, Ngày Đồng Khởi ở Lhasa
SAU BUỔI CẦU NGUYỆN và điểm tâm [ngày 10 tháng Ba năm 1959], tôi ra ngoài đi vào ánh sáng của một buổi sáng tĩnh lặng và cất bước dạo quanh khu vườn. Bầu trời trong như pha lê, và những tia nắng sáng ngời trên những ngọn núi trông xuống tu viện Drepung từ xa xa. Chẳng bao lâu chúng rọi xuống cung điện và tỏa chiếu trên điện mùa hè Norbulingka, Công Viên Trân Bảo, nơi tôi đang tản bộ. Đó là một mùa xuân tươi mát, vui vẻ, với từng cụm cỏ mới và những chồi non đơm đầy trên cây dương và cây liễu. Những lá sen đang vươn lên trên mặt hồ nước và mở ra dưới ánh nắng. Đột nhiên tôi nhảy lên khi tôi nghe những tiếng la từ xa.
Tôi cho vài người lính canh ra xem lý do tại sao có những tiếng kêu gào này. Khi trở lại, họ giải thích với tôi rằng rất nhiều dân chúng đang tràn ra đường hướng đến Norbulingka để bảo vệ tôi khỏi quân Trung Cộng. Họ tiếp tục tràn ra đường suốt buổi sáng. Một số tụ họp thành nhóm với nhau tại những cổng ra vào khác nhau của công viên, trong khi những người khác đang bắt đầu đi tuần tra chung quanh. Đến giữa trưa khoảng ba chục nghìn người đã tập họp ở đấy. Tình cảnh phải được xoa dịu.
Tôi e ngại rằng, trong sự bùng nổ của cơn giận dữ, đám đông có thể đánh nhau với quân trú phòng Trung Cộng. Đồng thời những lãnh đạo dân cử kêu gọi Trung Cộng hãy trả Tây Tạng lại cho người Tây Tạng. Mọi người đòi hỏi sự chấm dứt chiếm đóng và tái thiết lập quyền hành của Đạt Lai Lạt Ma. Nghe những tiếng la ó của họ, tôi nhận ra sự phẩn nộ của những người biểu tình, và tôi biết rằng tình hình hiện tại đã trở thành không thể kiềm chế.
Tôi cảm thấy như bị kẹt giữa hai ngọn núi lửa. Một phía là đồng bào tôi đang tự động nổi dậy chống lại nhà đương cục Trung Cộng. Về phía kia, một lực lượng chiếm đóng hùng hậu và hung bạo đang đứng đấy, sẳn sàng ra tay. Nếu chiến sự xảy ra, hàng nghìn cư dân Lhasa sẽ bị tàn sát và toàn bộ đất nước sẽ bị ở dưới chế độ thiết quân luật không thể nguôi ngoai với đàn áp và tội phạm không thể tránh khỏi.
***
Ngày 10 tháng Ba năm 1959, khi quân Trung Cộng đóng chốt chung quanh Lhasa, hướng đại bác vào cung điện mùa hè của Đức Đạt Lai Lạt Ma, hàng nghìn người Tây Tạng tự động tự động tập họp hình thành một bức tường với thân thể của họ. Đám đông không giải tán trong những ngày tiếp theo, và vào ngày 17 tháng Ba khi quân Trung Cộng tấn công, đàn ông, đàn bà, người già và trẻ con đã dâng hiến thân mạng của họ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Trong những mặt trận đường phố, hai mươi nghìn người Tây Tạng chống lại bốn mươi nghìn quân Trung Cộng, cuộc Lhasa đồng khởi 1959 tiếp tục trong ba ngày và ba đêm trước khi bị trấn áp. Ở Lhasa, bị tàn phá bởi súng cối và tiểu liên, những người sống sót nói rằng thi thể của người, chó, và ngựa chất đầy những đường nhỏ hẹp máu chảy tuôn tràn. Vào buổi sáng ngày 18 tháng Ba năm 1959, bình minh vươn dậy trên tiếng kêu của sự chết chóc, tiếng rên xiết của những người bị thương và mùi tanh của máu chảy lan tràn.
Có khoảng mười nghìn người bị chết, và bốn nghìn người biểu tình bị bắt. Những vụ bắt bớ và những vụ xử tử nhanh chóng tiếp tục trong một thời gian dài sau sự kiện này.
Trước ngày xảy ra vụ tàn sát, giả dạng như một người lính, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đào thoát. Dưới sự bảo vệ của Những Chiến Binh Tự Do – những kháng chiến quân đến từ Kham – ngài đã lên đường đi tị nạn tại Ấn Độ, với hy vọng rằng sự ra đi của ngài có thể tránh được sự tàn sát những người trung thành với ngài. Nhưng mong ước của ngài đã không thành.
Ẩn Tâm Lộ, Thursday, February 11, 2016
[1] Sau Cách mạng Tân Hợi (1911–1912) lật đổ triều Thanh và các binh sĩ Thanh cuối cùng bị áp giải ra khỏi Tây Tạng, Trung Hoa Dân Quốc xin lỗi về các hành động của triều Thanh và quyết định khôi phục tước hiệu cho Đạt-lai Lạt-ma.[43] Đạt-lai Lạt-ma từ chối bất kỳ tước hiệu nào của Trung Quốc, và ông tuyên bố cai trị một Tây Tạng độc lập.[44]Năm 1913, Tây Tạng và Mông Cổ ký hiệp định công nhận lẫn nhau.[45]
Discussion about this post