TỊNH HÓA TÂM THỨC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 04/10/2011
chất của tâm là ánh sáng trong suốt (Tịnh Quang) Những
nhiễm ô là bề ngoài
(khách trần phiền não) – DHARMAKIRTI
Có thể loại trừ
những cảm xúc rắc rối một cách hoàn toàn, hay có thể chỉ có đè nén chúng mà
thôi? Theo tuệ giác căn bản của Đạo Phật,
tâm một cách cốt yếu là sáng rở và tri nhận. Do thế, những rắc rối cảm xúc không thể lưu trú trong bản chất của tâm;
những thái độ chướng ngại ẩn tàng là tạm thời và nông cạn, và có thể bị loại trừ.
Nếu
những cảm xúc tai họa như giận dữ vốn ở trong bản chất của tâm, thế thì từ lúc
khởi đầu tâm sẽ luôn luôn giận dữ. Một
cách rõ ràng, điều này không phải như thế. Chỉ dưới những hoàn cảnh nào đó chúng ta mới trở nên giận dữ và khi những
hoàn cảnh đó không hiện hữu, giận dữ cũng không hiện diện.
Những
hoàn cảnh nào phục vụ như căn bản cho việc phát sinh giận dữ hay thù hận? Khi chúng ta giận dữ, đối tượng sự giận dữ của
chúng ta xuất hiện dễ sợ hơn nó thật sự ở đấy. Chúng ta đang giận dữ bởi vì người đã làm tổn hại, đang làm tổn hại, hay
sẽ làm tổn hại chúng ta hay bạn bè chúng ta. Vì vậy “cái tôi” này là gì mà đang bị làm tổn hại?
Trong
sự phô trương của cơn thịnh nộ chúng ta cảm thấy rằng chủ thể, “cái
tôi” và khách thể, kẻ thù, là cụ thể và độc lập. Bởi vì chúng ta chấp nhận những hiện tướng
này như một sự thiết lập cố hữu, nên giận dữ được phát sinh. Tuy thế, nếu tại sự bùng nổ đầu tiên của giận
dữ, chúng ta đã quen với lý trí tự hỏi mình, Tôi là ai? Con người này là ai mà đang bị tổn
thương? Kẻ thù là gì? Có phải kẻ thù là thân thể? Có phải kẻ thù là tâm? kẻ thù hiện hữu một cách cụ thể này,
người trước đây dường như là được tạo nên một cách cố hữu như điều gì đấy để giận
dữ, và “cái tôi” này, kẻ được tạo nên một cách cố hữu bị tổn thương,
dường như biến mất. Và sự giận dữ tan
thành từng mãnh.
Nghĩ
về điều ấy. Chúng ta giận dữ tại những gì làm thất bại những khao khát của
chúng ta. Giận dữ bị xúi bẩy bởi nhận thức
sai lầm khách thể và chính chúng ta được thiết lập trong cách này (như kẻ thù
và nạn nhân) trong tự chúng và của chính chúng. Thù hận không tách rời khỏi nền tảng của tâm. Nó là một thái độ không có nền tảng vững chắc. Tuy nhiên, yêu thương từ ái được tìm thấy một
cách có căn cứ trong chân lý. Khi, trải
qua một thời gian dài, thái độ có nền tảng vững chắc tranh đua với thái độ
không có cơ sở, thì thái độ với nền tảng vững chắc sẽ lấn át thứ kia.
Những
phẩm chất tùy thuộc trên tâm có thể được gia tăng một cách vô giới hạn, và khi
chúng ta tăng cường các thái độ đối kháng với những cảm xúc buồn đau, những bộ
phận tương ứng không thiện chí sẽ giảm thiểu, cuối cùng trở nên bị dập tắt hoàn
toàn. Vì tâm có bản chất tự nhiên rực rở
và tri nhận, nên tất cả chúng ta có khí cụ căn bản cần thiết để đạt đến giác ngộ.
NHẬN DIỆN TÂM
Khoảng
hai mươi năm trước đây, khi tôi ở Ladakh, Ấn Độ, tiến hành một loạt thiền quán,
tôi có một bức tượng Đức Phật Thích Ca phía trước tôi, như vẫn là thói quen của
tôi. Lớp vàng ở trái tim bức tượng đã
bong mất rồi, và vì thế ở nơi ấy lộ một màu nâu. Khi tôi nhìn vào vùng trái tim của bức tượng,
bây giờ không có màu sắc hấp dẫn nữa, nhìn vào tâm tư tôi, cuối cùng tư duy dừng
lại, và trong một lúc ngắn ngủi, tôi cảm thấy tự nhiên rực rở và tri nhận của tâm. Rồi sau đó, khi tôi hồi tưởng lại điều này, kinh
nghiệm sẽ trở lại.
Thật
rất hữu ích trong sự thực tập hàng ngày để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm và
tập trung trên ấy. Tuy nhiên, thật khó để
nắm bắt tâm bởi vì nó ẩn tàng bên dưới những tư tưởng giàn trải của chính chúng
ta. Như một kỷ năng để nhận diện bản chất
tự nhiên của tâm, đầu tiên dừng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, rồi
thì dừng suy nghĩ về những gì có thể xảy ra trong tương lai, hãy để tâm tuôn chảy
phù hợp với chính nó mà không có sự phủ lên của tư duy. Hãy để tâm ngừng lại trong thể trạng tự nhiên
của nó và quán xét nó trong một lúc.
Khi,
thí dụ, quý vị nghĩ một tiếng động, giữa lúc nghe nó và nhận thức nguồn gốc của
nó, chúng ta có thể cảm nhận thể trạng của tâm trống rỗng tư tưởng nhưng không
phải ngủ, trong điều mà đối tượng là một sự phản chiếu của sự rực rở và tri nhận
của tâm. Tự nhiên căn bản của tâm có thể
được nắm bắt tại một điểm như vậy. Vào
lúc bắt đầu, khi chúng ta không quen với sự thực tập này, thì thật là khó khăn,
nhưng đúng lúc tâm sẽ xuất hiện như nước trong vắt. Hãy cố gắng để trụ với thể trạng này của tâm
mà không bị xao lãng bởi những tư tưởng nhận thức và tập cho quen thuộc với nó.
Thiền
tập đề mục này vào buổi sáng sớm, khi tâm chúng ta đã tỉnh giấc và trong sáng,
nhưng những giác quan của chúng ta chưa
hoạt dộng hoàn toàn. Cũng lợi ích nếu
không ăn quá nhiều tối đêm qua, cũng không ngủ quá nhiều: giấc ngủ của chúng ta
sẽ nhẹ nhàng hơn và điều này làm cho tâm thư thái hơn cũng như sắc bén hơn vào
sáng hôm sau. Nếu ăn quá nhiều, giấc ngũ
sẽ dày và nặng, gần giống như thây ma. Trong việc tu tập hằng ngày, tôi ăn no nê vào lúc điềm tâm và buổi trưa
nhưng chỉ ăn chút ít vào buổi tối – ít hơn nửa chén hạt dẻ hay bánh quy dòn; rồi
tôi lên giường sớm và thức dậy lúc năm giờ ba mươi vào buổi sáng để bắt đầu thiền
tập.
Thấy
đấy nếu chú ý đến bản chất của tâm vào buổi sáng sớm tâm chúng ta sẽ tỉnh giác
hơn suốt ngày. Tư tưởng chúng ta chắc chắn
sẽ tĩnh lặng hơn. Trí nhớ của chúng ta sẽ
cải thiện nếu chúng ta có thể thực tập một ít thiền quán mỗi ngày, rút lui khỏi
tâm phân tán. Tâm nhận thức quanh quẩn
trong việc suy nghĩ những chuyện tốt, những chuyện xấu, v.v… sẽ được ngơi
nghĩ. Một chút không phân biệt có thể
cung ứng một sự ngơi nghĩ cần thiết rất nhiều.
Thiền
Quán
những gì đã xảy ra trong quá khứ hay những gì có thể xảy ra trong tương lai. 2- Hãy để tâm tuôn chảy thích hợp với nó mà
không suy nghĩ. 3- Quán chiếu bản
chất rực rở trong sáng của tâm. 4- Trụ với kinh
nghiệm này trong một lúc.
Chúng
ta có thể thực tập những đề mục này trong khi nằm trên giường vào buổi sáng,
tâm chúng ta tỉnh thức nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàn
toàn.
ĐỐI KHÁNG NHỮNG
RẮC RỐI
Bây
giờ chúng ta hãy nhìn vào những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng chẳng hạn như thèm
khát, thù hận, và ganh tỵ. Tất cả bọn
chúng tùy thuộc trên sự tin tưởng sai lầm ban đầu rằng những đối tượng tồn tại
như những thực thể độc lập, trái lại trong thực tế chúng không như thế. Qua năng lực của si mê như vậy, tất cả những
cảm xúc buồn khổ này sinh khởi. Nhưng
như chúng ta đã thấy, khi chúng ta phân tích thì có phải nổi si mê này và những
rắc rối tháp tùng của nó là bản chất bên trong của chính bản tâm không, chúng
ta thấy, như đại luận sư Ấn Độ Dharmakirti đã nói, “Bản chất của tâm là
ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Những nhiễm ô là bề ngoài (khách trần phiền
não).” Bản chất của thức vi tế sâu
xa nhất là tinh khiết. Giận dữ, dính mắc,
v.v… thuộc ngoại biên và không tồn tại trong căn bản của tâm. Chúng ta gọi điều
này, nền tảng bẩm sinh của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh
quang. Bởi vì nó làm cho giác ngộ hiện
thực, nó cũng được gọi là Phật tính. Nó
hiện hữu tại gốc rể của tất cả thức. Cũng
thế, tất cả chúng ta có một trình độ nào của bi mẫn, mặc cho những sự khác biệt
trong sự phát triển và kiến thức, và tất cả chúng ta có một sự thông tuệ phân
biệt giữa tốt và xấu. Đây là tất cả những
điều kiện cho giác ngộ.
Một
khi chúng ta biết rằng những nhiễm ô không “cư trú” trong bản chất của
tâm, có thể loại trừ chúng qua việc phát sinh những đối trị với chúng, những
thái độ, như thuốc men, có thể chống lại chúng. Nhưng nếu những nhiễm ô không tách rời khỏi
căn bản tâm, thế thì ngay khi mà tâm thể hiện chức năng, những tư tưởng tệ hại – giận tức, v.v… – sẽ phải hiện hữu,
nhưng điều này không phải như vậy. Ngay
chính lúc này, tâm chúng ta đang đọc và suy nghĩ: giận tức chắc chắn không hiện
diện. Những thái độ như giận tức và dính
mắc có thể được tách rời khỏi tâm chính yếu.
Vào
những lúc trong đời sống chúng ta, tâm chúng ta bám chặc với giận tức và dính mắc,
và vào những lúc khác là buông xả, toại nguyện, từ ái, và bi mẫn. Chúng ta không thể cảm thấy tham dục và thù hận
chính xác cùng lúc đối với cùng một đối tượng. Chúng ta chắc chắn có thể có những cảm nhận này tại những thời điểm
khác nhau, nhưng không cùng trong một thời
điểm, điều này cho thấy rằng hai thái độ này thể hiện chức năng trong sự mâu
thuẩn với nhau. Khi một trong chúng, thứ
này gia tăng sức mạnh thì thứ kia giảm xuống.
Nhận
thức vững chắc hổ trợ từ ái và bi mẫn. Sự
trình bày của chúng không cần sự giúp đở từ si mê ám chướng là thứ đã nhận định
sai lầm các đối tượng như tồn tại cố hữu (có tự tính), hay trong chính chúng và
tự chính chúng mà thôi. Những thái độ
phi đạo đức như thù hận và kiêu mạn – cho dù chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa –
chỉ được sản xuất với sự hổ trợ và giúp đở của vô minh si ám. Do vậy, không có nhận thức sai lầm này trong
bản chất của con người và sự vật, thì không có cách nào tham dục và thù hận có
thể triển khai. May mắn thay, những thức
đối lập với tham dục và thù hận có thể hoạt động ngay cả khi không có nhận thức
sai lầm về sự tồn tại cố hữu.
Si
mê và tuệ trí cả hai quán chiếu cùng những hiện tượng vạn pháp,
nhưng những cung cách mà chúng nhận thức vạn pháp là hoàn toàn đối nghịch. Tuệ trí có nền tảng vững chắc, trái lại si mê
ám tối không có nền tảng có căn cứ và sai lầm với những gì nó nhận thức. Gia tăng sức mạnh của tuệ trí làm yếu si
mê. Tuệ trí làm giảm thiểu việc lãnh hội
sai lầm về bản chất con người và sự vật cho đến khi si mê biến mất.
VẤN
NẠN Ở PHÍA BÊN TRONG
Những
hoàn cảnh ngoại tại không phải là những gì đưa đẩy chúng ta vào khổ đau. Khổ đau được tạo nên và cho phép bởi một cái
tâm chưa thuần hóa. Tâm bản nhiên
trong sáng bị che phủ bởi những cảm xúc và nhận thức phiền toái này. Năng lực lừa đảo của chúng đẩy chúng ta vào
những hành vi sai lầm, những điều đưa đến khổ đau không tránh khỏi. Chúng ta cần, với sự tỉnh thức và quan tâm lớn,
để phân biệt những thái độ rắc rối, thì phương cách tập hợp mây mù sẽ tan biến
trở lại trong không gian của bầu trời. Khi những thái độ, các cảm xúc, và những nhận thức tự thất bại ngừng lại,
những hành vi tổn hại sinh khởi từ chúng cũng chấm dứt. Như đại hành giả du già Tây Tạng cuối thế kỷ
11 đầu thế kỷ 12 Milarepa đã nói, “Khi sinh khởi, sinh khởi tự trong không
gian của chúng, khi tan biến, tan biến trở lại không gian”. Chúng ta cần trở
nên quen thuộc với thể trạng của tâm tư chính chúng ta để thấu hiểu những ý tưởng
và những thôi thúc vô căn cứ trở lại không gian sâu thẩm của thực tại như thế
nào. Bầu trời vẫn ở đấy trước khi mây mù
che phủ, và nó vẫn thế sau khi mây ám tan đi. Nó cũng hiện diện khi mây đen dường như che kín từng phân vuông của bầu
trời mà chúng ta có thể thấy.
Bản
chất của nước không bị ô nhiễm bởi rác rưởi, bất chấp dơ bẩn như thế nào. Cùng cách như thế, bản chất ngay cả một tâm
thức rối rắm là không bị nhiễm ô bởi cấu uế. Tâm Tịnh Quang của bất cứ chúng sinh nào cũng không bị nhiễm ô bởi những
cảm xúc phiền não như thù hận. Lần kế tiếp
chúng ta cảm thấy thù hận, hãy thấy chúng ta có thể tách ra khỏi dòng chảy
chính của tâm chúng ta như một người quán sát sự thù hận. Trái lại chúng ta thường nghĩ, “tôi
ghét..” giống như cảm giác của chúng ta về tự ngã và thù hận là hoàn toàn
kết chặc với nhau, ở đây chúng ta đang nhìn sự thù hận từ một khoảng cách mong
manh,thấy sự sai lầm của nó, là điều chính nó tạo nên thể trạng hấp dẫn này để
tĩnh lặng một cách tự nhiên.
Để
làm điều này, trước nhất chúng ta cần phát triển một khả năng để nhìn vào tư tưởng
của chúng ta, vì cho đến khi mà ý thức của chúng ta còn bị đắm trong nhận thức
hóa, thật khó khăn cho tư tưởng quán sát tư tưởng. Nhưng nếu, khi các tư tưởng sinh khởi, chúng
ta có thể tách ra một chức năng quán sát để nhìn chúng, rồi thì dần dần, chúng
ta sẽ phát triển một khả năng dể phát triển một năng lực của ý thức quán sát ý
thức, và ngay cả tại những thời điểm của thù hận, một nhân tố từ trong tâm ấy sẽ
có thể bước ra ngoài sự giận tức. Bằng
việc quen thuộc với ý thức như cả người biết và đối tượng được biết, chúng ta
có thể đi đến để nhận ra những gì được gọi là “tâm bình thường”,
không bị ảnh hưởng bởi sự thích hay không thích, muốn hay không muốn. Khi tâm không bị phân hóa thành nhiều chức
năng khác nhau, thể trạng tự nhiên sáng rở và tri nhận có thể được nhận ra, và
nếu chún ta trụ với điều này, kinh nghiệm của sự rực sáng và tri nhận sẽ gia
tăng. Vì bản chất nội tại ngay cả của
thù hận là rực sáng và tri nhận, thù hận sẽ dần dần tan chảy vào trong bản chất
của ý thức.
Chúng
ta không phải dừng một cách cố ý những tư tưởng và cảm giác đa dạng bắt đầu ló
dạng trong tâm; đúng hơn, không nên tiêm nhiễm trong chúng, đừng để tâm chúng
ta bị đẩy vào trong chúng. Tâm rồi thì sẽ
đảm nhiệm hình thức tự nhiên của nó, và
Tịnh Quang của nó có thể được xác định. Sau đó sự thanh tịnh căn bản của nó có thể được biết.
Khi
chúng ta thấu hiểu rằng Tịnh Quang là bản chất tự nhiên của nội tâm chúng ta,
những phẩm chất ngày càng lớn hơn và lớn hơn như sự biểu lộ từ ái hay lòng yêu
thương vô chấp. Đây là tại sao sự chuyển hóa tinh thần không thể
là kết quả của việc thực hiện những thay đổi môi trường bên ngoài của chúng
ta. Việc đạt được nhiều thứ hơn một khi
chúng ta có những gì cần thiết không đưa đến sự toại nguyện.
Sự
giải thoát đạt được bằng việc biết rằng bản chất tối hậu của chính tự tâm: nó
không được ban tặng cho chúng ta bởi một người nào đấy hay điều gì khác. Hạnh phúc đến qua việc thuần hóa tâm; không
có sự thuần hóa tâm thì không có cách nào để hạnh phúc. Bất chấp bản chất của thế gian chúng ta sẽ
không khổ sở vif phiền não hay gây ra
đau khổ khi chúng ta tin cậy trong bản chất nền tảng rực sáng của tâm, Tịnh Quang
của nó.
TÂM KIM CƯƠNG
Căn
bản tự nhiên và sáng rở của Tịnh Quang là cội nguồn của tất cả những tâm thức –
là vĩnh viễn không thể phá hủy được, không thể biến đổi được như kim
cương. Trong Đạo Phật, khía cạnh này của
tâm được xem như thường trụ trong ý nghĩa sự tương tục của nó là liên tục – nó
luôn luôn tồn tại và sẽ tiếp tục mãi mãi và vì thế không là điều gì đấy được bắt
đầu một cách mới mẻ bởi nhân duyên (nguyên nhân và điều kiện).
Tâm
căn bản của chúng ta thanh tịnh một cách chính yếu, tự nhiên trỗng rỗng rắc rối
ngay từ bắt đầu. Trong nó, tất cẩ mọi hiện
tượng thanh tịnh và nhiễm ô xuất hiện như những sự biểu hiện tự nhiên thanh
thoát của nó. Hào quang chói lọi rực rở vô
chướng ngại của tâm ngay cả được gọi là bi mẫn, bởi vì tác động của nó là những
hành vi thương yêu vô chấp, phát sinh từ thực thể thanh tịnh căn bản và tự
nhiên thanh thoát.
Tinh
khiết từ lúc khởi đầu và được ban cho với sự thanh thoát tự nhiên, tâm kim
cương này là căn bản của mọi phát triển tâm linh. Ngay cả trong sự phát sinh vô số nhận thức tốt
và xấu, chẳng hạn như tham dục, thù hận, và hoang mang, tâm kim cương tự nó tự
do khỏi sự quấy nhiễu của những nhiễm ô này, như bầu trời trong suốt những đám
mây. Nước có thể cực kỳ dơ bẩn, tuy thế
bản chất của nó vẫn trong sạch. Tương tự
như thế, bất chấp những cảm xúc phiền não nào được sinh ra như sự tạo tác thiện
xảo của tâm kim cương này, và bất chấp chúng mạnh mẽ như thế nào đi nữa, căn bản
của tâm tự nó duy trì không bị nhiễm ô bởi cấu uế; nó là toàn hảo mà không có bắt
đầu hay kết thúc.
Những
phẩm chất tâm linh kỳ diệu, chẳng hạn như từ ái và bi mẫn không bị ràng buộc, tất
cả là sự hiện diện trong hình thức căn bản trong tâm kim cương này; sự biểu hiện
của từ ái và bi mẫn chỉ bị ngăn ngừa bởi những điều kiện tạm thời mà thôi. Trong một ý nghĩa nào đấy, chúng ta được giác
ngộ ngay từ đầu, được phú cho một tâm căn bản hoàn toàn tốt đẹp.
ĐÁNH GIÁ HOÀN CẢNH
HIỆN TẠI
Bằng
việc được sinh ra như một con người, chúng đã tiếp nhận một hệ thống hổ trợ vật
chất mà qua nó chúng ta có thể dễ dàng đạt được cả những mục tiêu nhất thời lẫn
các mục tiêu sâu rộng hơn. Bây giờ chúng
ta đã đạt được hình thể đời sống thuận lợi này rất đặc biệt trong vô số hình thể
sinh ra trong thế giới này, nên thật quan trọng là [để nhớ rằng] chúng ta đừng
lãng phí nó. Nếu trong hoàn cảnh này
chúng ta chỉ đơn thuần thực tập để đạt được một đời sống tốt đẹp trong những đời
sống tái sinh sau này cho chính chúng ta, thì chúng ta sẽ sử dụng khả năng
chúng ta một cách trọn vẹn. Hay, nếu
chúng ta chỉ đơn thuần hướng đến giải thoát cho chính bản thân từ những trạng
thái rối rắm của khổ đau, thì điều này cũng làm thui chột khả năng vốn có của
chúng ta. Với thân người, chúng ta phải
nên làm bất cứ điều gì đấy mà chúng ta có thể đạt đến một sự phát triển tâm
linh toàn hảo và trọn vẹn.
THIỀN
QUÁN
trên khả năng của tình trạng hiện tại của hành giả cho một sự tăng trưởng tâm
linh: chúng ta có một thân người; những giáo huấn tâm linh thuận lợi trong môi
trường; chúng ta có khả năng tinh thần để tiếp thu những giáo huấn tâm linh –
chúng ta có tâm kim cương thanh tịnh thuần khiết. 2- Đánh giá những
cơ hội hiện tại cho sự thực tập tâm linh. 3- Thiết lập động
cơ của chúng ta, một nguyện ước để hổ trợ không chỉ chính chúng ta mà tất cả
chúng sinh. 4- Hướng đến
giúp đở người khác.
Nguyên
tác: Basic Purity of the Mind trích
từ quyển How to Expand Love
Ẩn
Tâm Lộ ngày 10/10/2011
Bài liên hệ:
Discussion about this post