THỨC THỨ BẢY – MẠT NA THỨC – THỨC CHẤP NGÃ
Lê Sỹ Minh Tùng
Tâm của con người vô cùng quan trọng, nó là trung tâm của sự
sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật
xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Vì thế,
chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau. Vậy cái
tâm của nó nằm ở đâu? Để trả lời câu hỏi nầy trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật đã
gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm để có cái nhìn rõ ràng về sự
khác nhau giữa vọng tâm sinh diệt thay đổi từng giây từng phút, từng cảnh giới,
chạy theo lục dục thất tình, tham đắm sắc tài danh lợi và bản tâm bất sinh bất
diệt, thường trụ vĩnh hằng lúc nào cũng an vui tự tại và luôn ở trong ta, là
chơn tâm, là Phật tánh, là Tri Kiến Phật. Kinh Pháp Hoa, phẩm Hiện Bảo Tháp có
diễn tả khi bảo tháp còn ở dưới đất ví như con người còn chạy theo vọng tâm
sinh diệt, còn sống trong mê mờ bất giác. Bây giờ bảo tháp vọt khỏi lòng đất và
lơ lửng giữa hư không nghĩa là chúng sinh lìa tâm sinh diệt, quay về với chơn
tâm, Phật tánh thanh tịnh của mình. Hiện tượng “vọt lên” của bảo tháp là chỉ
cho sự dẹp sạch mọi vẫn đục trong tâm thức để tâm thức trở thành không gian cho
bảo tháp hiển lộ. Đó chính là tâm trụ nơi vô trụ nghĩa là bản tâm bây giờ không
còn dính mắc bởi sắc tài danh lợi, bởi lục dục thất tình, bởi thập triền thập sử
nên nó ở lơ lửng không dính mắc mà trở về với bản thể thanh tịnh tức là Bổn Phật
của chính mình. Vì thế kinh Kim Cang có câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm,
Nhược tâm hữu trụ tức vi phi trụ” nghĩa là tâm có chỗ trụ thì không bao giờ
thấy được chân lý. Tóm lại, khi tâm thức của chúng sinh trống rỗng bao la vô
cùng vô tận như hư không thì ngay thời điểm đó bảo
tháp xuất hiện tức là Thủy Phật thể nhập với Bổn Phật nghĩa là chúng ta
đang sống với chơn tâm, Phật tánh của chính mình. Lục Tổ Huệ Năng dạy trong
kinh Pháp Bảo Đàn là chúng sinh muốn có tâm thanh tịnh thì phải áp dụng ba cái
Vô :
1) Vô niệm vi tông : Phàm là con người thì lục căn lúc nào cũng có
thể tiếp xúc với sáu trần, nhưng nếu muốn tâm đừng phát sinh vọng tưởng thì cho
dù mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi hương vị, lưỡi nếm mùi vị, thân cảm
xúc nóng lạnh hay ý có suy nghĩ gì mà tâm không khởi vọng niệm chạy theo. Nói
cách khác thấy thì cái gì cũng thấy mà không thấy cái gì hết, nghe thì nghe tất
cả mà như không nghe gì cả…Cảnh vật, âm thanh…cũng như gió thoảng, mây bay có đến
rồi lại đi, đừng chấp thủ, giữ lại trong lòng. Con người làm chủ tâm mình thì
có an lạc, thanh tịnh Niết bàn, ngược lại nếu tâm làm chủ thì con người làm nô
lệ cho vô minh phiền não, thế thôi.
2) Vô tướng vi thể : Tất cả vạn pháp trong thế gian này là từ nhân
duyên kết hợp nên chúng không có tự thể nghĩa là vô ngã tức là Không. Khi đã thấu
hiểu vạn pháp là giả dối, không thật, nay có mai không thì con người đừng chạy
theo sắc trần một các mù quáng làm tâm bất tịnh. Chỉ khi nào chúng sinh quán tưởng
để thấy biết bằng trí thật tướng của vạn pháp thì cái thấy biết này mới là chân
lý.
3) Vô trụ vi bổn : Vô trụ là không dính mắc. Vậy không dính mắc
cái gì? Sáu trần là những cục nam châm có sức hút rất mãnh liệt làm cho sáu căn
mê muội khiến tâm phát sinh vọng tưởng sai lầm làm cho con người sống trong
điên đảo khổ đau. Vậy muốn có cuộc sống tự tại an nhàn thì từng giây, từng
phút, từng giờ, từng hơi thở con người nên giữ chánh niệm, sống trong tĩnh thức,
đừng để tâm buông lung chạy theo tham đắm dục tình.
Khi nói về tâm, Duy Thức Luận chia nó
làm hai phần: Tâm Vương và Tâm Sở.
A) Tâm pháp hay còn được gọi là tâm vương là những món tâm rất thù thắng,
tự tại và tự chủ cũng như vị vua. Tâm vương gồm có tám món :
1) Nhãn thức : Cái biết của con mắt. Vì thức này nương theo sự thấy biết của mắt mới khởi ra sự biết của mắt nên gọi là nhãn thức.
2) Nhĩ thức : Cái biết của lỗ tai. Vì thức này
nương theo âm thanh mà tai nghe được mới khởi sự biết của tai nên gọi là nhĩ thức.
3) Tỷ thức : Cái biết của mũi. Vì thức này dựa
theo cái biết của hương vị do mũi tiếp nhận để khởi ra sự biết của mũi.
4)Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Vì thức này tùy
thuộc vào mùi vị do lưỡi nếm được để khởi ra sự biết của lưỡi.
5) Thân thức : Cái biết của thân. Khi thân cảm thấy
nóng lạnh hay tiếp xúc với cứng mềm để
khởi ra sự biết của thân nên gọi là thân thức.
Vì năm thức ở trên là nằm ở bên ngoài và trước nên gọi là “Tiền ngũ thức”.
6) Ý thức : Thức này nương tựa ý căn mới khởi tác dụng với Pháp trần
nên gọi là “Ý thức”. Trong tám thức chỉ có thức thứ sáu này rất lạnh lẹ và khôn
ngoan hơn hết. Bởi vì chúng sinh có suy nghĩ làm việc lành, việc tốt thì thức
này đứng đầu. Còn nếu chúng sinh tính toán tạo tác việc ác thì nó cũng hơn cả.
Vì thế mà trong Duy thức có câu : ”Công vi thủ, tội vi khôi” nghĩa là nói về công thì thức này hơn hết, còn luận về tội thì
nó cũng đứng đầu.
Sáu thức ở trên thì cả Tiểu thừa và Đại thừa cùng chấp nhận, nhưng dựa
theo tư tưởng của Đại thừa thì tâm thức con người còn được thể hiện qua thức thứ
bảy là Mạt na thức và thức thứ tám là A lại da thức.
7) Mạt na thức : Thức này có công
năng truyền các pháp hiện hành vào A lại da thức (Tàng thức) và tổng đưa các
pháp chủng tử khởi ra hiện hành.
Vô Trước là người khởi xướng Duy Thức
Luận (Du Già Luận), nhưng người em là sư Thế Thân đã gom lại và viết thành luận
và được gọi là Thành Duy Thức. Thành Duy Thức cũng gọi là Tịnh Duy Thức bởi vì
bộ luận này giảng giải rất rõ ràng rốt ráo những biến hành của tâm. Trong bài tụng thứ năm, Thế Thân diễn
tả về Mạt na thức như sau :
Dịch là:
Thức năng biến thứ hai Gọi là thức Mạt na Nương kia chuyển duyên kia Tư lương làm tánh tướng.Thức năng biến thứ hai này chính là Mạt na thức có nghĩa là suy nghĩ, cân
nhắc và so đo vì thức nầy có đặc tính là
liên tục suy tư, hằng thẩm và tư lương. Thức này nương theo A lại da thức và lấy
thức thứ tám này làm căn bản mà chuyển hiện. Cho nên có A lại da thức là có Mạt
na thức và A lại da thức sinh về cõi nào thì Mạt na thức chuyển hiện theo cõi ấy.
Mạt na thức theo A lại da thức như bóng theo hình, nhưng Mạt na luôn lấy cảnh sở
duyên nơi A lại da mà suy xét và so đo, khiến cho tâm bị dấy động và ô nhiễm.
Thí dụ A lại da thức là mảnh đất thì Mạt na thức là rễ cây luôn bám chặt vào đất
A lại da. Còn ý thức và tiền ngũ thức là thân cây và những nhánh cây vươn lên từ
mảnh đất A lại da. Một thí dụ khác là A lại da thức nếu ví như là nước trong những
con sông thì Mạt na thức chính là gốc rễ của những cây lục bình trôi nổi trên mặt
nước và ý thức và tiền ngũ thức bây giờ cũng như là thân và cánh là lục bình.
Mạt na thức sinh ra từ A lại da thức, nhưng nó lại lấy A lại da thức làm
đối tượng sở duyên. Vì thế các chủng tử và hiện hành của A lại da thức luôn bị
Mạt na thức lấy cảnh sở duyên mà duyên tức là các chủng tử nầy cứ bị soi chiếu,
suy xét và đo lường. Chưa hết các cảnh sở duyên lại bị Mạt na thức duyên thêm một
lần nữa nên bị biến đổi và sự biến đổi này lại được đưa vào A lại da làm tăng
trưởng hay làm suy yếu thêm các chủng tử có sẳn nơi A lại da thức. Nếu sự tác động
làm tăng trưởng các chủng tử có sẳn trong A lại da thức thì gọi là Thuận Tăng
Thượng Duyên và nếu sự tác động làm suy yếu hay hủy diệt các chủng tử có sẵn
trong A lại da thì gọi là Nghịch Tăng Thượng Duyên.
Thêm nữa bản chất của Mạt na là suy xét và đo lường cho nên Mạt na thức
không bao giờ là không suy tính và so đo. Chính vì sự tư lương này mà tánh chất
nhận thức nơi Mạt na thức không được khách quan trung thực, luôn bị bóp méo mà
biến đổi khác đi mà Duy thức gọi là phi lượng. Vì thế Mạt na thức là chấp
Ngã và Ngã Sở.
Bây giờ hãy nghiệm bài tụng thứ sáu :
Tứ phiền não thường câu Vị : ngã si, ngã kiến Tinh ngã mạn ngã ái Cập dữ Xúc đẳng câu.Dịch là:
Tương ưng bốn phiền não Là ngã si, ngã kiến Cùng ngã mạn, ngã ái Và tâm sở Xúc thấy. Mạt na thức là hằng thẩm tư lương nên
luôn chấp đó là mình, là của mình mà sinh ra tham đắm si mê. Vì còn phân biệt đối
đải nên thấy có ta có người và dĩ nhiên là thấy cái ta và cái của ta là đúng,
là đẹp, là hơn. Đây là những căn bản của phiền não khổ đau cũng bởi do chấp ngã
mà ra. Vì thế mới gọi là Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn và Ngã Ái.
Ngã Si là vô minh, là mê muội vọng chấp
mà tin rằng tất cả các pháp là ngã trong khi chính nó không có tự tánh thì làm
sao có tự ngã được.
Ngã Kiến là luôn cho rằng những điều
mình thấy, mình nghĩ, mình quan niệm, mình tin tưởng là đúng. Những gì khác với
quan niệm của mình là sai cho dù đó là lời chân thật. Đây là cố chấp, ngoan cố
không phục thiện.
Ngã Mạn là luôn coi mình là nhất, không
coi ai ra gì, lấn lướt và khinh thường người khác.
Ngã Ái là luôn luôn chấp ngã và sinh tâm
mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến mình và những gì thuộc về mình.
Bốn thứ ngã này làm che đậy và làm vẫn đục
nội thức tức là làm nhơ bẩn A lại da thức và phát sinh tiền lục thức khiến cho
con người mãi trôi nổi trong sinh tử luân hồi.
Sau cùng hãy nghiệm bài tụng thứ bảy :
Hữu phú vô ký nhiếp Tùysở sanh sở hệ A
La Hán, Diệt định Xuất
thế đạo vô hữu
Dịch là:
Tánh hữu phú vô ký Sanhtheo A lại da Chứng
A La hán, Diệt định Xuất
thế đạo, không còn.
Với những phiền não chấp ngã và suy tưlo nghĩ, Mạt na thức luôn bám lấy A lại da thức mà chấp ngã, chấp là mình, là của
mình tức là ngã và ngã sở. Tất cả những hành tướng này tạo nên Nghiệp Nhân và
những nghiệp này cứ trùng trùng duyên khởi, tương tục tăng trưởng, sinh sinh diệt
diệt cho đến khi đầy đủ nhân duyên thì thọ sanh vào một trong lục đạo và những
quốc độ tương xứng với nghiệp quả của mình. Do đó nếu nghiệp báo A lại da thức
chuyển biến khởi sanh vào cõi nào thì Mạt na thức sanh vào cõi đó. Vì thế khi
nhân duyên đã đầy đủ chín mùi thì A lại da thức có thể chuyển biến và hiện hành
thành một loài trong lục đạo, hay một loài trong những cõi trời Sắc giới hay Vô
Sắc giới.
Khi các vị A la hán của hàng Thanh văn,
các vị Bích chi Phật của hàng Duyên giác hay các bậc Bồ-tát Đệ Bát Địa của Đại
thừa tu chứng để diệt các thọ và tưởng tức là nhập vào Diệt tận định thì các chấp
ngã sẽ không còn sanh khởi trong Mạt na thức nghĩa là các vị đã đạt đến trạng
thái vô ngã. Không còn sinh khởi không có nghĩa là Mạt na thức bị biến mất,
không còn nữa. Nói tóm lại, khi chưa chuyển y thì Mạt na thức luôn luôn chấp
ngã và chỉ duyên nơi A lại da thức. Đến khi đắc thành thánh quả, chuyển chấp
ngã thành vô ngã thì Mạt na thức chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí tức là thức thứ
bảy bây giờ chỉ còn duyên chân như cùng tất cả các pháp khác, thấy được mọi căn
cơ và sai biệt nơi mỗi loài chúng sinh, tùy duyên hóa thân ứng hiện thuyết pháp
độ sanh và A lại da thức chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí.
8)A lại da thức tức là tàng thức. Tàng thức thì bao trùm khắp cả
mười phương thế giới vô cùng vô tận, như khi nó tác động vào con người ví cũng
như hư không vào trong cái ly, cái chum, cái ché vậy. Tuy hư không trong cái
ly, cái chum rất nhỏ bé so với vũ trụ, nhưng tánh hư không thì không khác. Vì
thế mà con người và vũ trụ tuy hình tướng, kích thước có khác nhau, nhưng thật
tánh thì không khác nên cổ đức có câu : ”Nhân thân tiểu vũ trụ” nghĩa là thân
này là một bầu vũ trụ thu nhỏ lại cho nên nếu bên ngoài thời tiết thay đổi mà
thân mình chưa thay đổi theo thì thân mới sinh ra đau ốm là vậy. Thời tiết có bốn
mùa : hè nóng nên thân muốn dùng vật lạnh, đông lạnh thì thân muốn tiêu thụ vật
nóng… cho nên vũ trụ thế gian biến đổi thì thân cũng biến đổi theo. Nói tóm lại,
sắc uẩn là cho mọi vật thể trên thế gian kể cả sắc thân tứ đại của con người.
B)Tâm sở có 51 món và được chia làm 6 loại :
– Biến hành (Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng,
Tư).
– Biệt Cảnh (Dục, Thắng giải, Niệm, Định,
Huệ).
– Thiện (Tín, Tàm, Quí, Vô tham, Vô sân,
Vô si, Tinh tấn, Khinh an, Bất phóng dật, Hành xả, Bất hại).
– Căn bản phiền não (Tham, Sân, Si, Mạn,
Nghi, Ác Kiến).
– Tùy phiền não (Phẩn, Hận, Phú, Não, Tật,
Xan, Cuồng, Siểm, Hại, Kiêu, Vô tàm, Vô quý, Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải
đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri).
– Bất định ( Hối, Miên, Tâm, Tư).
Nhìn chung trong 51 món tâm sở chỉ có 11 phần thuộc về thiện còn lại 40
phần thuộc về bất thiện cho nên khi đối diện với cuộc sống con người có nhiều
khuynh hướng chạy theo tham đắm si mê là như vậy.
Vì Thọ, Tưởng thuộc về Biến hành nên trong vũ trụ đã có sẵn những chủng tử
hay những hạt nhân nghĩa là trong bản thể Như Lai Tàng đã có sẵn hạt giống Thọ,
Tưởng rồi. Khi con người được sinh ra thì Thọ, Tưởng tác động vào thành Tâm sở của người ấy. Hành Uẩn và Thức
Uẩn cũng thế, chúng đã có sẵn những chủng tử trong bản thể Như Lai Tàng (A lại
da thức) trong hư không vô cùng vô tận để tác tạo thành Tâm vương.
Dựa theo Nguyên thủy, hành giả chứng Sơ thiền không có nghĩa là hành giả
đã đắc sơ quả Tu Đà Hoàn. Và cứ như thế chứng nhị thiền cũng chưa phải là chứng quả Tư
Đà Hàm, tam thiền chưa phải là chứng quả A na hàm và sau cùng chứng tứ thiền
cũng chưa phải là chứng thánh quả A la hán được. Muốn đạt thánh quả A la hán,
hành giả phải vào Diệt Tận Định thì lúc đó thân tâm mới hoàn toàn giải thoát,
khinh an tự tại Niết bàn.
Trong Kinh Kāmabhū cư sĩ Citta đã tham vấn Tôn giả Kāmabhū tại rừng Ambātaka về vấn đề nhập
và xuất Diệt Tận Định như sau:
-Bạch Thượng
Tọa, có bao nhiêu hành tất cả?
-Này Gia
chủ có ba hành: thân hành, khẩu hành và ý hành.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa.
Gia chủ
Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn Giả Kāmabhū nói, rồi hỏi thêm Tôn Giả Kāmabhū một
câu nữa:
-Bạch Thượng
Tọa, thế nào là thân hành? Thế nào là khẩu hành? Thế nào là ý hành?
-Hơi thở
vô, hơi thở ra, này Gia chủ, là thân hành. Tầm và tứ là khẩu hành. Tưởng và thọ
là ý hành.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa.
Gia chủ
Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Kāmabhū nói… hỏi thêm câu hỏi nữa:
-Vì sao, bạch
Thượng Tọa, thở vô thở ra là thân hành? Vì sao tầm và tứ là khẩu hành? Vì sao
tưởng và thọ là ý hành?
-Thở vô thở
ra, này Giả chủ, thuộc về thân. Các pháp này liên hệ đến thân; do vậy, thở vô
thở ra là thân hành. Trước phải tầm cầu, tư sát, này Gia chủ, sau mới phát lời
nói; do vậy, tầm và tứ là khẩu hành. Tưởng và thọ thuộc về ý. Những pháp này
liên hệ đến tâm; do vậy, tưởng và thọ là ý hành.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa.
-Như thế
nào, bạch Thượng Tọa, là chứng Diệt thọ tưởng định?
-Này Gia
chủ, Tỳ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định không có nghĩ rằng: “Tôi sẽ chứng
đạt Diệt thọ tưởng định”, hay: “Tôi đang chứng đạt Diệt thọ tưởng định”,
hay: “Tôi đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định”. Do tâm vị ấy trước đã được
tu tập như vậy, nên đưa đến thành tựu như thật như vậy.
-Lành
thay…
-Tỳ-kheo
chứng đạt Diệt thọ tưởng định, bạch Thượng Tọa, những pháp nào được đoạn diệt
trước, thân hành, hay khẩu hành, hay ý hành?
-Tỳ-kheo
chứng đạt Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, khẩu hành được diệt trước, thứ đến
thân hành, rồi đến ý hành.
-Lành
thay…
-Bạch Thượng
Tọa, người đã chết, đã mệnh chung, và Tỳ-kheo chứng đạt Diệt thọ tưởng định, giữa
những người này có những sai khác gì?
-Đối với
người đã chết, đã mệnh chung, này Gia chủ, thân hành người ấy được đoạn diệt,
được khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, được khinh an; ý hành được đoạn diệt,
được khinh an, thọ mạng được đoạn tận; sức nóng được tịnh chỉ; các căn bị hủy
hoại. Còn Tỳ-kheo đã chứng đạt Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, thân hành được
đoạn diệt, khinh an; khẩu hành được đoạn diệt, khinh an; ý hành được đoạn diệt,
khinh an; thọ mạng không bị đoạn tận; sức nóng không bị tịnh chỉ; các căn được
trong sáng. Này Gia chủ, người đã chết, đã mệnh chung và Tỳ-kheo chứng đạt Diệt
thọ tưởng định, giữa những người này có những sai khác như vậy.
-Lành
thay…
-Như thế
nào, bạch Thượng Tọa, là ra khỏi Diệt thọ tưởng định?
-Này Gia
chủ, Tỳ-kheo ra khỏi Diệt thọ tưởng định không có suy nghĩ: “Tôi sẽ ra khỏi
Diệt thọ tưởng định”, hay: “Tôi đang ra khỏi Diệt thọ tưởng định”,
hay: “Tôi đã ra khỏi Diệt thọ tưởng định”. Do tâm vị ấy trước đã được
tu tập như vậy, nên đưa đến thành tựu như thật như vậy.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa…
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định, bạch Thượng Tọa, pháp nào khởi lên trước, thân
hành, khẩu hành, hay ý hành?
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, ý hành khởi lên trước, rồi đến thân
hành, rồi đến khẩu hành.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa…
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định, bạch Thượng Tọa, cảm giác được bao nhiêu xúc?
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định cảm thọ được ba xúc: không xúc, vô tướng xúc, vô
nguyện xúc.
-Lành
thay, bạch Thượng tọa.
Gia chủ
Citta hoan hỷ, tín thọ… và hỏi thêm câu hỏi nữa:
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định, bạch Thượng Tọa, tâm thiên về đâu, hướng về đâu,
nghiêng về đâu?
-Tỳ-kheo
ra khỏi Diệt thọ tưởng định, này Gia chủ, tâm vị ấy thiên về viễn ly, hướng về
viễn ly, nghiêng về viễn ly.
-Lành
thay, bạch Thượng Tọa.
Gia chủ
Citta hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Kāmabhū nói rồi hỏi thêm câu hỏi nữa:
-Bạch Thượng
tọa, có bao nhiêu pháp giúp đỡ nhiều cho sự chứng đắc Diệt thọ tưởng định?
-Thật sự,
này Gia chủ, điều Gia chủ cần phải hỏi trước, Gia chủ lại hỏi sau. Tuy vậy, ta
sẽ trả lời cho Gia chủ. Này Gia chủ, có hai pháp giúp đỡ rất nhiều cho Diệt thọ
tưởng định được chứng đắc. Đó là Chỉ và Quán.
Khi hành giả dùng Chỉ (xam-ma-tha) (định) và Quán (trí tuệ) để chứng được
tứ thiền thì họ có thể đi thẳng vào Diệt Tận Định (Diệt Thọ Tưởng Định) mà chứng
được thanh tịnh Niết bàn và trở thành bậc A la hán. Ở trong Diệt Tận Định, hành
giả bắt đầu tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý và sau cùng là tịnh hơi thở. Người vào
trong định này thì hơi thở không còn, nhưng sức nóng trong người vẫn còn và dĩ
nhiên tất cả các căn vẫn trong sáng. Khi xuất Diệt Tận Định thì ý hành phát khởi
trước nhất, rồi đến thân hành và sau cùng khẩu hành mới tác động. Cái khác nhau
giữa người đi vào Diệt Tận Định và người chết là người đi vào định này cũng chấm
dứt hơi thở, thân thể bất động, miệng không còn nói, nhưng hơi ấm vẫn còn nên
không chết.
Phương
pháp tu của Tôn giả Kāmabhū chính là con
đường mà ngày xưa chính đức Phật đã thực hành để chứng ngộ Chân lý, có giải
thoát giác ngộ viên mãn và hàng ngàn vị A la hán khác cũng thành tựu như Ngài. Đây là lối thực hành của Phật
giáo Nguyên thủy.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT Lê Sỹ Minh Tùng
븀
Discussion about this post