Thiền Sư
HƯƠNG VÂN ĐẠI ĐẦU ĐÀ
Như Hùng
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất nhị tầm thường không quá Xuân.
“Tiếng quyên từng chập vừng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một xuân”.
I. CON NGƯỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
VUA TRẦN NHÂN TÔNG
Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con
thơ, để ra đi tìm phương giải thoát cho chính mình và chúng sanh. Lối 1332 năm
sau Thái Tử Trần Khâm (1258-1308) cũng giã từ cung vàng tìm đến núi Yên Tử để
xin xuất gia, mong trở thành sơn tăng sống cuộc đời thanh thoát. Nhưng vì vua
cha ép buộc nên phải trở về để kế nghiệp trị dân. Ngay từ lúc nhỏ ông dốc lòng
mộ đạo Phật ước muốn được đi tu, năm lên 16 tuổi Trần Khâm đã nhường ngôi vị
Đông Cung Thái Tử cho em, vua cha nài ép mãi ông mới nhận lời. Dù không được đi
xuất gia lúc bấy giờ, nhưng nơi ông đã thể hiện được con người siêu việt khác
thường.
Mặc dù sống trong lâu đài hạnh phúc mà tâm lúc nào cũng muốn
vượt thoát ra khỏi thành. Trong sách Tam Tổ Thực Lục viết ” Một hôm vào
lúc nửa đêm, ngài trèo thành trốn đi định vào núi Yên Tử. Đến chùa tháp ở núi
Đông Cứu thì trời vừa sáng, trong người mệt nhọc, ngài bèn vào nằm nghỉ trong
tháp. Vị sư trù trì ở đấy thấy ngài tướng mạo khác thường liền làm cơm thết
đãi. Vua cha hay tin sai các quan đi tìm thấy. Ngài bất đắc dĩ phải trở về.”
Thái Tử Trần Khâm lên ngôi năm 1728 và trở thành vua Trần
Nhân Tông. Ông là người siêu dị, phi thường, thông minh ít thấy trong lịch sử cổ
kim của nhân loại. Lấy thí dụ ông dám từ bỏ ngai vàng để đi xuất gia chứng tỏ
ông coi thường công danh phú quí. Dầu có được một sự nghiệp to lớn vĩ đại, quyền
uy chấn động cả sơn hà, đâu đó rồi bỗng chốc tiêu tan, chỉ có sự nghiệp tâm
linh thực ngộ mới mong vượt ra khỏi sự chi phối tàn hại của vô thường. Con người
thông minh trọn vẹn như Trần Nhân Tông quả thật ít tìm thấy. Sự thông minh nầy
ông còn áp dụng suốt cả quãng đời, nổi bật nhất là từ bỏ tất cả để thể nghiệm dấn
thân vào một lối đi khác, nhiều chông gai thử thách, kiên trì gấp trăm ngàn lần,
đối nghịch lại với cái hiện trạng trái ngược mà ông đang nắm giữ. Con đường mà
ông sẽ phải chấp nhận đi vào đó là rỗng không, chẳng có một cái gì là của mình,
ngay thân mạng cũng không phải là thực bởi lẽ nó sẽ tàn tạ. Trong khi đó nếu
còn là một vị vua, ông có cả giang sơn gấm vóc theo nghĩa có của quan niệm. Nếu
không là sự thông minh phi thường ông đã không chọn lối rỗng không nầy. Rỗng
không của nghĩa tương phản lại gò bó, nhốt kín con người vào những hư danh giả
tạm phù ảo trong lâu đài thành quách, của những nắm bắt chấp lầm có không, điên
loạn trôi lăn trong được mất. Ông xứng đáng được để ca ngợi là con người phi
thường trong lịch sử, sự thông minh ông có được là nhìn xuyên thủng qua lớp vỏ
thời gian, ở đó ông tìm ra sự thật đang nấp kín đàng sau những sơn phết, và nó
là chủ lực tạo nên những khủng khiếp đe dọa triền miên và gây thống khổ tràn ngập
cho con người. Nhìn để được xuyên qua và để trông thấy trọn vẹn những ẩn kín
không phải là chuyện ai cũng làm được, hoặc nếu có cũng chỉ là hàn gắn thêm
phương thức khác nhằm lừa dối ý thức. Lối nhìn nầy hoàn toàn khác biệt và trái
ngược với những con người thực chứng về hiện tượng.
Trước hết với những con người nầy là không bao giờ gắn thêm
định nghĩa nào về đối tượng, không bao giờ tạo thêm quan niệm sai biệt nào khi
nhãn quan bắt gặp trần cảnh. Đặt nguyên ở vị trí là nguyên lý cơ bản quan trọng
nhất trong việc truy lùng nguyên thể của chính nó, nếu xê dịch nó sẽ biến dạng
và tạo thêm sự lừa dối khác cho tâm ý. Tìm đến nó với lối nhìn phong tỏa mọi
ngõ ngách mà nó có thể lừa dối thêm một lần nữa, bao phủ và phong kín xong ta mới
nhìn thật sâu xuyên thủng qua lớp vỏ dù cứng đến bao nhiêu nếu không thủng thì
không thể tìm ra được bộ mặt tươi mát hoặc khủng khiếp của nó. Nếu được xuất hiện
với tươi mát hay khủng khiếp chưa hẳn đó là sự khám phá đúng mức mà ta muốn
truy quật. Đó cũng chỉ là lớp vỏ thứ hai. Nếu không khéo ta lại rơi vào những
trá hình khác. Lối xử dụng và đạt đến vẫn tùy vào mỗi chúng ta. Nếu không thể
nhập thực sự vào lớp vỏ thứ hai, thì muôn kiếp vẫn phải chìm lặng trong tử
sinh. Dĩ nhiên nếu không có được bản ý của thực ngộ thì làm sao chúng ta có thể
nhìn xuyên qua chứ chưa nói đến nhìn được lớp vỏ thứ hai, y cứ vào thực ngộ để
đạt được thực chứng, chặng đường nầy mới thật sự là đi vào ngôi nhà của rỗng
không tròn đầy.
Trần Nhân Tông đã tìm ra được lý lẽ nầy “Con người Ngài rất
thông minh hiếu học, đọc hết các sách vở, thông suốt nội điển (kinh) và ngoại
điển (thế học). Những khi nhàn rỗi Ngài mời các Thiền khách bàn giải về Tâm
tông (Thiền) tham học Thiền với Tuệ Trung Thượng Sĩ thâm đắc đến chỗ Thiền Tủy.
Đối với Thượng Sỹ ngài kính lễ làm thầy.”
Ngoài sự nghiệp tâm linh, ta còn thấy được cung cách vĩ đại
của một ông vua trong công nghiệp trị quốc. Khi vừa lên ngôi Trần Nhân Tông đã
phải đối đầu với sự thử thách khủng khiếp mạnh như giông bão. Đó là cuộc xâm
lăng lần thứ hai và thứ ba của Đế quốc Mông Cổ, một đế quốc đã từng chinh phục
40 vương quốc ở khắp cả hai lục địa Á, Âu, đã từng làm run sợ những quốc gia lớn
mạnh. Mông Cổ được kể như đạo quân bách chiến bách thắng lúc bấy giờ. Nhưng đã
thất bại nhục nhã dưới tay Trần Nhân Tông và Dân Việt.
Nhờ kết hợp được tinh thần sắt son qua hội nghị Diên Hồng,
thể hiện tinh thần dân chủ đoàn kết giữa quân dân, và cũng nhờ sự tác động tinh
thần Bi Trí Dũng trong Phật Giáo mới có thể tạo nên những vẻ vang hy hữu đó. Sử
gia Ngô Sỹ Liên viết về con người độc dị ấy như sau: “Vua được tinh anh của
thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí
tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên Đồng Tử (hay Kim Phật) ở vai
bên tả có nốt ruồi đen cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm,
nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử.
Hòa nhã, cố kết lòng dân sự nghiệp phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua
hiền của nhà Trần. Nhân Tông trên thờ Từ Cung tỏ đạo hiếu, dưới dùng người hiền
lập nên võ công, nếu không phải bậc nhân minh anh vũ thì sao được như vậy ?”
Nhân Tông còn là một vị vua nhân từ thương yêu dân vô cùng.
Vào một buổi chiều đông giá rét đi dạo ngoài thành thấy dân co ro trong lạnh lẽo
và bên vệ đường một ông lão đang run rẩy, vua cởi áo ngự bào đắp cho ông lão, rồi
quay lại bảo với tả hữu một câu nói trở thành bất hủ, phát xuất tận đáy lòng “Trong
nhân gian có người còn đói khổ, thì trẫm vẫn không được yên lòng”.
Vua Trần Nhân Tông xuất gia vào năm 1299 ở núi Yên Tử ngài
chuyên tu khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, và là sơ tổ phái Trúc
Lâm.
II. TRÚC LÂM NGƯỜI XÂY DỰNG
NỀN PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT VÀ NHẬP THẾ
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam người có được sự nghiệp lẫy
lừng nhất trong hai phương diện chính trị và đạo pháp, ta phải kể đến vua Trần
Nhân Tông. Khi còn là một vị vua ông đã có được sự nghiệp dựng nước và giữ nước
phi thường, kết hợp tinh thần sinh động thuần nhất và thống hợp phương châm Từ
Bi, Trí Tuệ trong Phật Giáo. Vì thế trên những căn bản tôn trọng quyền thống hợp
đó, ông mở ra hội nghị Diên Hồng lấy quyết định của Dân làm quyết định số phận
đất nước, nhờ vào tinh thần quyết chí đó, ông đã hai lần đánh đuổi quân Nguyên
ra khỏi bờ cõi.
Bắt nguồn từ những căn bản độc đáo riêng biệt đó ông xây dựng
được một dân tộc Việt hưng thịnh, huy hoàng, mà ảnh hưởng tồn tại mãi với núi
sông. Trần Nhân Tông kết hợp và thống nhất được sinh mệnh Quốc Gia và Đạo Pháp.
Guồng máy điều hành chính trị quốc gia là kinh thành Thăng Long nơi mà Trần Anh
Tông trị vì, và núi Yên Tử thủ đô tâm linh, và linh hồn của Dân Việt do Thái
Thượng Hoàng Trần Nhân Tông chủ động. Ngài đã đào tạo ươm hạt giống phát huy
chánh pháp vào người con là vua Anh Tông, sau nầy trở thành vị vua kết hợp
chánh pháp trong việc trị quốc của mình.
Đóng góp to lớn vĩ đại của Trúc Lâm là xây dựng nền Phật
Giáo thống nhất và nhập thế. Trước đó Thiền Tông là một tông phái lớn mạnh, đa
diện trên mọi lãnh vực, hầu hết những Thiền Sư xuất thân từ Thiền Phái: Tỳ Ni
Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường đã đóng góp tích cực trong mọi lãnh vực
Văn Hóa, Nghệ Thuật, Thi Ca v.v… Nhờ sự tác động chỉ đạo của Thiền, tạo nên nội
tâm siêu việt độc đáo, nên những Thiền Sư là người trực tiếp mang ánh sáng tâm
linh và văn hóa trợ giúp quần chúng, điển hình đã có những Thiền Sư làm Quốc Sư
lỗi lạc, cũng như cố vấn chính trị cho những triều đại đời Lý, Trần v.v…
Về khía cạnh Văn Hóa đã được lưu lại, những Thiền Sư trác
việt, thừa khả năng và vượt hẳn trong nhiều lần tiếp xúc thơ văn với những nhà
ngoại giao Trung Quốc khiến họ phải bái phục.
Sau đó những Thiền Phái nầy suy vi, như chính cái đổi thay
của dòng đời, của sự hưng thịnh, mãi về sau Thiền Sư Thường Chiếu là người gạch
nối và tổng hợp cả ba thiền phái, và Trúc Lâm là người độc đáo phát huy sự tổng
hợp nầy, tạo nên những sắc thái riêng biệt cho Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, vì vậy
những đóng góp của Ngài được kể như quan trọng, trong việc thống hợp và tạo dựng
cương lĩnh nhập thế tích cực nầy.
Chủ trương của Thiền Việt Nam là góp phần vào sự nghiệp
phát huy Dân Tộc và Đạo Pháp, có khuynh hướng nhập thế cứu dân giúp đời, gần gũi
với quần chúng, có mặt thiết thực trong sự thăng trầm vinh nhục của Dân Tộc. Sự
hưng thịnh của Dân Tộc cũng chính là sự hưng thịnh của Đạo Pháp, bởi lẽ sự hiện
hữu của Đạo Phật là vì cuộc đời, vì sự thống khổ của chúng sanh, thì làm sao có
thể tách rời con người để hưng khởi? Vì điều đó, sự có mặt của Phật Giáo được kể
như gắn liền trong tất cả những sinh hoạt để từ đó xoa dịu và góp phần trong việc
thay đổi tâm linh hướng về chân thiện mỹ. Những Thiền Sư Việt Nam cực lực, phát
huy và hưng khởi đại nguyện đi vào cuộc đời để đón nhận và chia xẻ những thống
khổ đang bao phủ. Ta có thể tìm thấy những thiền sư nầy như: Pháp Hiền, Huệ
Nghiêm, Thanh Biện, Long Tuyền, Định Không, Thông Thiện, La Quý An, Pháp Thuận,
Thiền Ông, Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Minh Không v.v… của Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu
Chi.
Và thiền phái Vô Ngôn Thông có những Thiền sư tài ba lỗi lạc
trong lãnh vực Văn Hóa và Chính Trị như: Thiền Sư Cẩm Thành, Thiên Hội, Vân
Phong, Khuông Việt, Đạo Bảo, Định Hương, Thiền Lão, Viên Chiếu, Lý Thái Tông,
Thông Biện, Mãn Giác, Ngô Ấn, Đạo Huệ, Thường Chiếu, Thần Nghi, Ẩn Không, Tiêu
Diêu, Nhất Tông v.v…
Cũng như Thiền Phái Thảo Đường có nhiều đệ tử đã lãnh đạo
quốc gia như: vua Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông v.v… ảnh hưởng của
Thiền Phái nầy trong giới vua quan và trí thức, nổi bật về mặt học thuật, tư tưởng,
thi ca.
Trúc Lâm đã khéo léo dung hòa, tổng hợp những thiền phái nầy
để trở nên một thể duy nhất trong việc nhập thế và giải thoát tâm linh. Ảnh hưởng
mà Ngài đã xây dựng, tác động mạnh mẽ trên những lãnh vực: Văn Hóa, Xã hội, Học
thuật v.v… lấy tinh thần tổng hợp của Thiền Việt Nam làm yếu tố tiên quyết
trong việc chỉ đạo những lãnh vực trên. Đồng thời trên căn bản tâm linh, lấy sự
siêu thoát giải phóng của mình song song với việc hưng phục xã hội và tâm linh
của con người.
III. QUAN NIỆM VỀ THIỀN CỦA
HƯƠNG VÂN ĐẦU ĐÀ
Trần Nhân Tông đạt được tinh yếu của Thiền với Tuệ Trung
Thượng Sỹ khi còn làm vua. Sau khi đi tu, ngài chuyên cần tu tập theo hạnh đầu
đà (khổ hạnh) và lập chùa tiếp độ tăng chúng.
Một hôm ngài đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn, truyền bá
Thiền Tông, ngài nói “Thích Ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi
đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi, mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì
các ngươi lên ngồi tòa nầy biết nói chuyện gì đây ?”
Ngồi giây lâu ngài ngâm:
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân.
Dịch:
Tiếng quyên từng chập vừng trăng sáng
Đâu phải tầm thường qua một Xuân.
Ngài vỗ bàn một cái nói:
Không có gì sao? Ra đây !Ra đây!
Đức Phật đã minh định trong
kinh Kim Cang suốt 49 năm thuyết pháp ngài không nói một lời. Tinh thần vô chấp
của kinh Kim Cang đã hất tung tất cả những ràng buộc trở ngại trong việc đạt được
thực chứng. Trúc Lâm mở đầu tuyên ngôn nầy
là cũng hé mở chân trời buông bỏ mọi nắm bắt tương quan trong việc khơi dậy chặng
đường bùng lên giác ngộ trong mỗi tâm linh .
Có lần Pháp Loa hỏi :
“Nói huyền nói diệu, luận cổ
bàn kim, đều thuộc thứ nói đùa, một câu
không kẹt trong ngôn ngữ làm sao nói được?
Ngài đáp:
–
Gió đông dìu dịu ngàn hoa nở
Lách cách vành xe một tiếng vang.
Pháp
Loa toan mở miệng nói Ngài liền bảo:
–
Chim hót máu tuôn vẫn vô dụng
Non tây như trước phủ mây chiều.
Cổ nhân rất ít khi sử dụng đến ngôn từ và
nếu có dùng đến cũng chỉ là diệu dụng
tùy nghi. Trong Thiền lối khai quật nội tâm đều chú trọng vào những thuật dụng
như la, hét, đánh…Vì vậy, những câu nói nếu được nói ra thì trở nên lửng lơ,
như chính câu nói bất hủ của Thiền Sư Chân Nguyên “Nói ra là bị kẹt”chỉ có im
lìm nhìn trạng huống trôi qua, cảm nhận không thể nào dệt nên ngôn từ sợ nó bay
mất, hoặc chính nó bất lực trước những diễn tả về nội tâm thâm sâu. Nhưng
“không nói cũng chẳng xong”nếu không nói mà kẻ đối diện có thể lãnh hội trọn vẹn
những gì mà mình mong muốn thì tuyệt hay biết mấy, nhưng khổ một nỗi đàng nào cũng
thấy vương vướng một chút gì ngằn ngặn ở trong. Đây không phải là không tìm được
ngữ ngôn để trao gởi, nhưng sợ lời nói tạo nên những chấp trước cho kẻ khác.
Thôi đành phải mặc nhiên trong tất cả những diệu dụng ấy. Có bao giờ nói mà
không nói lại bị kẹt đâu?
Có một
vị hỏi :Thế nào là gia phong Phật quá khứ?
Ngài
đáp: Vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc
Lý trắng đào hồng hoa tự
nhiên.
Thế
nào là gia phong Phật hiện tại?
Đáp:
Gia phong sóng bạc mê yến sớm
Tiên uyển đào hồng say gió xuân.
-Thế
nào là gia phong Phật vị lại?
Đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt
Xóm chài nghe sáo khách nhớ nhà.
–
Gia phong Hòa Thượng thế nào?
Ngài
đáp: Áo rách che mây sáng ăn cháo
Bình xưa rưới nguyệt tối uống trà.
Tìm
hiểu về gia phong là muốn tìm đến cái cung cách xử dụng, nhưng ở đây là sự nghiệp
tâm linh. Có thể đây là cách lối còn rơi vào quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng
nếu quá khứ, hiện tại và vị lai bất khả thuyết thì gia phong có ích gì? Nếu
không tự mình đạt được chiều sâu tâm linh ngay trong hiện tại thì quá khứ bỗng
trở thành ngăn lối, đàng trước mờ mịt, đàng sau chập chùng muôn vạn nẽo.
Lối trả lời của ngài cho chúng ta thấy được
cách bỏ công chỉ biết mong đi tìm những lý lẽ không thực tiễn. Nếu từ những
truy cứu đó bổ sung vào tâm thức để có cơ may bùng lên giác ngộ, thì đó là
phương tiện nhưng nếu truy tìm với nghĩa của truy tìm mặc yên thì không giúp được
gì, đúng như ngài đã nói “vườn rừng vắng vẻ ai xem sóc” hay “Bãi biển chờ triều
trời đợi nguyệt”
Quan niệm của Hương Vân là không để kẻ đối
diện kẹt vào ngữ ngôn dù đó là những lời Thiền ngữ. Ngài đã hé mở quan niệm này
ngay lúc đăng bảo tọa mà đoạn trước
chúng ta đã có dịp đọc qua. Việc Ngài phải hé mở ngữ ngôn là việc chẳng đặng đừng
“không nói cũng chẳng xong” Nhưng dùng đến xảo dụng chấm phá lửng lơ thì may ra
con người mới không rơi vào thế kẹt đó.
Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ thẩm
định tâm tư của cá nhân ấy, có những lúc ở những thế kẹt để rồi vẫy vùng trong
đó may ra thoát đươc, nhưng không có nghĩa thoát ra, quá trình nầy chắc hẳn
không còn bị kẹt trong khi dụng công. Chỉ có thể bị kẹt ở lúc đầu nhưng khi hạ
thủ công phu thì buông rơi tất cả. Và nếu kẹt ở lúc đầu thì làm sao tìm ra được
nguyên tố cơ bản để hạ thủ? Cũng có thể kẹt nhưng mà không, xử dụng không khéo
trở nên nghịch lý và mâu thuẫn lại chính ta. Hễ con thấy kẹt thì phải thấy có
cái không kẹt nhưng chính cái không kẹt có thể là kẹt thì sao?
Truy lùng cái thế kẹt và không thì suốt cả
cuộc đời chúng ta cũng không tìm ra được lý lẽ này. Đàng nào giá trị chỉ được
xuất hiện một khi ý thức không còn nằm trong hạn cuộc ngay khi trực diện với mọi
tương quan, may ra ta mới vỡ tung ra khỏi những thế bí này. Cần nhất sống với
những gì mà ta đã một lần tuyệt diệu bắt gặp trong ngõ ngách của tâm linh, sống
với nhưng không có nghĩa lầm chấp đó là cứu cánh, phải thong dong trên lối về tắm
mát dòng sông giải thoát, không cưu mang tất cả để không vướng bận đôi vai trần
trụi.
Điều mà Hương Vân mong mỏi là chặng đường
tìm đến phải thanh thản như chính cái “Bình xưa rưới nguyệt tối uống trà”.
IV. SỨ
GIẢ CỦA TÌNH THƯƠNG VÀ HÒA BÌNH
Ngoài phong thái và tâm linh thực ngộ của
một Thiền Sư, Hương Vân Đại Đầu Đà còn là sứ giả của tình yêu thương, gieo rắt
lòng từ đến tận muôn phương. Một thân mình chống gậy để khuyên dân hướng đến nẻo
thiện, quả thật Ngài xứng đáng là kẻ đem khả năng tâm linh châm ngòi cho quần
chúng.
Đặc biệt nhất, những Thiền Sư Việt Nam
không những lo giải thoát cho riêng mình mà còn đi vào cuộc đời để chuyển hóa
những khắc khỏi trầm luân mà con người đang đối nhận. Khác hẳn với Thiền Sư
Trung Hoa, chỉ tách khỏi cuộc đời lặng mình trong thực ngộ. Thể nhập vào cuộc đời
của Thiền Việt Nam đã tạo nên những ảnh hưởng sâu đậm trong mọi tầng lớp quần
chúng mà Hương Vân Thiền Sư đã tổng hợp và tạo dựng tông phái một cách rõ rệt.
Cuộc đời của Hương Vân Đầu Đà được kể như
hoạt động tích cực trong công cuộc nhập thế và xuất thế. Sự giác ngộ được khai
quật từ trong cuộc đời, trong những tương quan của mọi trạng huống, từ đó cho
ta những ý lực kinh nghiệm thẩm định những gì trôi qua trước mắt. Bởi lẽ tử
sinh phiền não không phải là thực thể có từ bên ngoài hay yếu tố phi ngoại.
Không có sự phát động ở nội tại thì điều đó không có cơ hội bùng lên. Và nếu
đây là điều hẳn nhiên thì cuộc đời chính là môi năng tạo nên những hưng khởi mạnh
nhất.
Từ căn bản đó, nếu tách ra khỏi cuộc đời
thì sự giác ngộ không có giá trị thực tiễn, trong việc đem lại hạnh phúc cho
muôn loài và không có sự giác ngộ nào có thể tách rời cuộc đời mà đạt được. Cuộc
đời ở đây được hiểu theo nghĩa những tương quan từ nội và ngoại tại. Yếu tố
trong và ngoài đó tạo nên tương hợp với ta và tha nhân. Và giác ngộ lại càng
không có nghĩa truy tầm với chính ta mà đạt được nếu không có những tương duyên
về đối tượng và con người. Vì vậy muốn đạt được thực chứng phải đi vào cuộc đời,
sống với cuộc đời để từ đó quật tung những nguyên lý tìm ẩn. Hẳn nhiên điều
tiên quyết nhất để đạt được là phải chuyển hoán tâm thức để không bị ô nhiễm.
Nương vào nhưng không có nghĩa bị lệ thuộc và sai sử bởi những dòng ý thức tạp
nhiễm, nếu trong ta không liên tục duy trì trí tuệ toàn triệt
Hành trang đi vào phải được bao bọc bằng
chính ý lực vượt thoát trong mỗi ý niệm hưng dậy, trực diện với những trạng huống
phải như gió thoảng mây bay, như một cánh chim thoáng qua trên mặt nước, bóng
chim nước chẳng bao giờ muốn lưu giữ. Tất cả chỉ mênh mang thấp thoáng như
chính cái luân lưu đi qua của dòng sông, đâu đó sóng nước chập chùng xô đẩy
thân phận chiếc thuyền đi về nơi mà chỉ có nước và thuyền mới biết sẽ về đâu.
Chưa một ai có thể mô tả phỏng đoán được bộ
mặt muôn đời của nó, nếu không thể nghiệm nó từ trong cuộc đời, chứng nghiệm nó
từ trong tâm linh của chính mình. Điều này nếu được có thể giản dị như sáng mai
thức dậy nhìn chiếc lá vàng rơi trong chơ vơ. Ngược lại có thể khủng khiếp như
thân phận muôn đời của con rùa tìm bộng cây trôi giữa đại dương.
Tất cả không phải là điều lo sợ nếu có được
một tâm linh vững chải trước những giông tố của dòng đời. Trúc Lâm Hương Vân Đại
Đầu Đà đã khơi dậy và chứng minh tâm linh thực ngộ ấy trong cả quảng đời đi vào
trần gian để chuyển hóa mà ta có thể tìm thấy qua cung cách của một Thiền Sư
mang trọng trách là sứ giả của tình thương và hòa bình. Tình thương và hòa bình
ở đây còn có một nghĩa nữa. Thương như thương chính thân phận của mình và chúng
sanh trước những khổ đau chồng chất và hòa bình ở đây là không tạo sự đối địch ở
trong nội và ngoại tại
Điều mà Trúc Lâm thực hiện được thể hiện
qua cung cách mà ông đã truyền trao. Trong sách Tam Tổ Thực Lục ghi rằng ”
Điều ngự (Trúc Lâm) đi khắp mọi nẻo thôn quê khuyên dân phá bỏ các dâm từ(miếu
thờ không chánh đáng) thực hành giáo lý Thập Thiện. “
Trước hết truy tìm về hành động này ta thấy
Trúc Lâm đã sống gần gũi với mọi người để tạo sự cảm thông giữa một vị vua trước
đó với một người dân bình thường, giữa một Thiền Sư đạt được đời sống tâm
linh,với những con người còn vướng bụi
trần. Hành động nầy cho ta khái niệm vững chải là ngoài lòng từ và trách nhiệm của một vị thiền sư, Trúc Lâm còn là môi giới
giữa hai tâm linh khác nhau. Ngài muốn tạo lại căn bản cho tâm linh mà không có
sự ngự trị sai sử của những tác động không chính đáng do sự phong tỏa của vô minh. Phải thắp sáng giáo lý Thập
Thiện là nền tảng toàn hảo trong nền luân lý của Phật Giáo, nhằm hoán chuyển
nhân tố để đi vào ngôi nhà giải thoát. Trúc Lâm đã thành công trong việc tạo dựng
một nền chính trị theo chánh pháp. Và thành công tạo nên xã hội từ bi, giải thoát trong Phật giáo.
Năm 1301 ,Trúc Lâm đã vân du đến quốc
gia láng giềng đó là Chiêm Thành để xây dựng quan hệ thân hữu và nền Hòa Bình giữa hai Dân Tộc.
Công chúa Huyền Trân được Trúc Lâm hứa gả cho vua Chiêm là yếu tố quan trọng thắt chặt được quan hệ giá trị thiết yếu nầy.
Trúc Lâm ý thức mãnh liệt sự tương
quan thân tình giữa hai Dân Tộc, như vậy sẽ bớt đi những xung đột và
không tạo cảnh chinh chiến khổ đau cho nhau. Trúc Lâm đã hy sinh người con
gái yêu thương của mình, để tạo nên sự
yêu thương rộng lớn cho hai Dân Tộc, việc làm nầy là những con người độc
đáo phi thường .
Cái thế “môi hở răng lạnh” cái thế “bà
con xa không bằng láng giềng” chưa đủ để
Trúc Lâm phải gả con gái của mình. Nếu
muốn tấn công tiêu diệt Chiêm Thành, lúc
nầy quá dễ với Dân Việt, vì quân Mông Cổ lẫy lừng còn phải bị bại huống gì nước
Chiêm nhỏ bé, nhưng Trúc Lâm đã không chủ trương điều nầy. Bảo vệ và duy trì
tình yêu thương, chung sống trong Hòa Bình là lý tưởng tuyệt hảo mà ngài đã chọn lựa. Điều đó thể hiện được
tinh thần Từ Bi trong Phật giáo mà ngài là người thực hiện rõ nét .
Điều đáng ca ngợi nhất là Trúc Lâm đã xây
dựng nền Phật giáo nhập thế, ảnh hưởng mãnh liệt trên những bình diện: Văn hóa, Chính trị, Xã hội, Nghệ thuât v.v….Ở đó ta thấy sự
có mặt của những quân vương Bồ Tát cai trị nhân dân trên căn bản
Từ Bi, Trí Tuệ. Xây dựng được một xã hội
thuần túy, lấy ý nguyện của dân làm ý
nguyện của mình, và lấy tinh thần trác việt của Thiền, làm tông chỉ trong việc xử thế. Và lấy tinh yếu giải phóng con người ra
khỏi khổ đau của Phật giáo, làm nền tảng để tạo sự quân bình trong quốc gia .
Trúc Lâm được kể như một sứ giả thành công
trên hai bình diện ở trên. Và đã lưu lại hình ảnh cao quí cho những vị vua sau
đó .
V. NHỮNG SÁNG TÁC CỦA TRÚC LÂM .
Cuộc đời và hình ảnh của Hương Vân Đại Đầu Đà đã là một tác phẩm vĩ đại, dù không được dệt nên bằng ngôn từ nhưng giá trị vô cùng
thiết yếu trong việc hoán chuyển nội tâm kẻ khác bằng biểu hành . Ngoài những
biểu tượng cao quí đó Ngài còn sáng tác
những tác phẩm như sau:
– Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục.
– Đại
Hương Hải Ấn Thi Tập
– Tăng Già Toái Sự
– Thạch Thất Mỵ Ngữ, do Pháp Loa soạn lại
lời của Ngài.
Chúng ta thử thưởng thức một vài sáng tác,
như bài Đăng Bảo Đài Sơn của Trúc Lâm.
Thời lai thu vị thâm .
Vân sơn tương viễn cận
Hoa kình báo tình thâm
Vạn sự thủy lưu thủy
Bách niên tâm ngữ tâm
Ỷ lan hoành ngọc địch
Minh nguyệt mãn hung khâm.
Dịch:
Đất vắng đài
thêm cổ
Ngày qua xuân chưa nồng
Gần xa mây núi ngất
Nắng rợp ngõ hoa thông
Muôn việc nước trôi nước
Trăm năm lòng như
lòng
Tựa lan nâng ống
sáo
Đầy ngực ánh trăng
lồng.
(Ngô Tất Tố)
Đất vắng không lưu lại chân người nếu không
có lầy lội từ những cơn mưa, đài đã phủ rêu phong trơ gan cùng trời đất, đâu đó
xuân như vẫn hững hờ đến đi thoáng chốc, chỉ còn rêu phong trơ trụi không điểm
tô cho đài đã uổng công chờ đợi.
Nắng đã đi rồi, ngõ hoa
từ ẩn mình trong đêm cô quạnh, nhưng ánh trăng chênh vênh trên từng phiếm lá,
sóng sõi trên ngọn liễu, mang hương dịu huyền nhè nhẹ chiếu sáng quả tim ấp ủ
ánh trăng lồng lộng. Chỉ có quả tim vĩ đại mới mang cả sơn hà đại địa trong sự
bé nhỏ của mình, nếu ánh trăng không đem lại thanh khí tuyệt vời, thì làm sao
tìm được giá trị của những đêm trăng với núi đồi? Phải để ánh trăng chiếu sáng
quả tim, vốn ngàn năm tạo những nhịp đập không hài hòa tương quan với đất trời,
nhưng nếu quả tim, được thấm nhuần dòng máu giải thoát, thì ánh trăng là ánh
sáng của tâm linh.
Tương quan của đất trời,
của lòng người với ánh trăng, nếu trong tâm thức tìm được điểm tựa vững vàng,
thì nó thơ mộng như chính cái thơ mộng của con người vô tư, tựa lan can nâng ống
sáo khi hoàng hôn trở về. Ngày lại ngày qua, năm lại năm đến, thầm nhủ với lòng
thôi nhé ta giã từ tử sinh, để lại một lần thôi không rong chơi, để một lần tạm
biệt và rồi sau đó cũng để một lần vì đại nguyện đi vào trần gian tìm lại ánh
trăng huyền nhiệm năm xưa chiếu rọi với đất trời.
Và đây là một bài thơ nữa của Trúc Lâm.
Xuân Văn
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản đồ đoàn khan trụy hồng.
Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa Xuân nay bị ta khám phá
Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.
( Thượng Toạ Thích
Thanh Từ)
Lúc còn là một Đông
cung Thái Tử chưa thấm nhuần đạo lý, ngài đã diễn tả nội tâm của mình qua hai
câu thơ trên, mỗi độ xuân về nơi vườn Thượng Uyển, trăm ngàn đoá hoa thi nhau
phơi sắc giữa ánh nắng hồng của mùa Xuân, cảnh vật tưng bừng, tâm ngài theo đó
mà vui. Nhưng để rồi mai kia gió xuân thôi không còn mang theo hương lạ nữa,
trăm hoa từ từ rơi rụng, còn nỗi buồn nào hơn. Sắc đến rồi không cũng đến, thay
nhau tạo nên những triền miên sầu đau buồn nhớ, cảnh bây giờ tiêu hoang lòng
người không còn nở rộn khi xuân đi qua tự bao giờ.
Nhưng không, kể từ
khi thấm nhuần được dòng suối vi diệu tâm linh mà Tuệ Trung Thượng Sỹ đã truyền
trao, Hương Vân vén mở bộ mặt nghìn đời của Chúa Xuân sắc không bỗng chốc tiêu
tan, còn lại một thể duy nhất vượt ra ngoài thời gian. Bộ mặt đó như vậy, không
còn duyên theo sự vật để khởi lên nội tâm lệ thuộc cảnh, biến tâm thức trở nên
tinh luyện bình thản trước những đổi thay biến hiện; đó là cái giá tất hữu của
những gì không bị chi phối bởi thời gian, một khi dòng tâm tách ra khỏi thế đứng
đổ vỡ, thì thời gian không đành phải chào thua hay sao?
Ở đó còn lại sự
thanh thoát, bình tĩnh, ung dung tự tại, đem chiếu ra trải dưới cành hoa hồng
đang tỏa hương, ngắm trăng đang len lõi qua cành trúc và đôi tay từ nâng nhẹ ly
trà thắm đượm trên đôi môi. Cảnh đó và thời gian ấy tuyệt diệu vô cùng, những
gì đã từng làm run sợ, bây giờ trở nên bạn hữu như đóa hồng của đêm trăng ngồi
uống trà, không một bâng khuâng tư lự.
Rồi sau đó giờ Tý của
tháng mười một, đêm nay trời trong sao sáng, mọi vật đang yên lặng không dám
khuấy động giấc ngủ thể nhập trong vô cùng, ngài nhắm mắt giã từ trần gian, sau
khi đệ tử Bảo Sát hỏi “Tôn Đức đi đến chỗ nào? ” Ngài nói kệ đáp:
Nhất thiết pháp bất
sanh
Nhất thiết pháp bất
diệt
Nhược năng như thị
giải
Chư Phật thường hiện
tiền
Hà khứ lai chi hữu
giả.
Dịch:
Tất cả pháp chẳng
sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện
tiền
Nào có đến đi ấy vậy.
(
Thượng Tọa Thích Thanh Từ )
Sau khi ngài qua đời
thọ 51 tuổi, vua Trần Anh Tông dâng tôn hiệu là: “Đại Thánh Thần Triều Trúc Lâm
Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật”.
Tất cả các pháp
không sanh không diệt, như chính cái không sanh và không diệt mà cuộc đời của
Hương Vân Đại Đầu Đà đã đến đi.
Như Hùng
(Từ sách Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ, xuất bản 1987)
Discussion about this post