Đừng làm các việc ác, siêng làm các hạnh
lành, giữ tâm ý thanh tịnh, là lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183).
Bối cảnh: Phật giáo và Kinh Pháp Cú
Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư bất đồng về vấn đề
cơ bản này. Lần đầu
tiên tôi bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì
hai nhà hàng yêu
thích của tôi (Buddha’s
Vegetarian Food và Lotus
Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật
tử, và rất cẩn thận chỉ để phục vụ thức ăn chay không có trứng. Trong
một nhà hàng mà tôi cho rằng việc này là
cần thiết vì các tu sĩ Phật giáo và các
nữ tu ăn ở đây. Điều này
giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có
lời nguyền đối với súc vật thực sự rất rất nghiêm túc. Mặt khác, vị hôn phu của tôi và tôi có một vài người bạn là Phật tử, nhưng vẫn tiếp
tục ăn thịt và cảm thấy điều này
là phù hợp
với Phật giáo.
Phật tử, hoặc ít nhất là Tăng Ni Phật giáo
có ăn chay không? Phật giáo nói gì về việc chúng ta đối xử với loài vật? Điều này rất cần thiết để giải quyết tranh cãi này, tôi cảm thấy quay trở
về kinh điển Phật giáo để tìm thấy những gì mà con người phải nói đến vấn đề
này.
Cho đến nay, tôi thật thất
vọng trong
sự cố gắng để mua bản sao về
kinh điển Pali cho mình – có lẽ bởi vì nó dài gấp mười
một lần Kinh Thánh. Các cửa
hàng sách tôi mua đã bao gồm tất cả các cổ phần lớn của những sách về Phật giáo,
nhưng không phải là kinh điển chính! Các nguồn trích dẫn phụ (hoặc
tệ hơn!) về Phật giáo có làm sáng tỏ chỉ một chút đối với những gì về
lời dạy của Đức Phật đối với động vật. Tuy nhiên, tôi đã có được một bản sao của một phần quan trọng của kinh điển Pali, Kinh Pháp Cú. Giáo
Pháp (Dharma trong
tiếng Sanskrit), có
nghĩa là “luật,
đạo luật, đạo đức chính trực, luật vĩnh cửu
của vũ trụ, chân Lý”, và pada có nghĩa là “chân” hoặc “bước chân”. Vì
vậy, Kinh Pháp Cú là
những bước mà
chúng ta phải có để sống
theo đạo luật và tâm luật (Phật giáo). Theo học giả Juan Mascaró,
tinh thần của Kinh
Pháp Cú là tinh thần của Đức
Phật, được ứng dụng cho cả hai,
những người xuất gia và các
học giả”. Vì
vậy, nó có
vẻ hợp lý rằng chúng ta có thể
tìm thấy được tối
thiểu sự tương ứng
đầu tiên về phương pháp tiếp cận của Phật giáo đối với câu hỏi về súc quyền từ nền tảng
đạo đức cơ bản được đặt ra
bởi Đức Phật Gotama trong Kinh Pháp
Cú.
Không sát sanh và không làm tổn hại
Trong Phật giáo, có năm giới, mà
có thể được coi là đóng một vai trò tương tự như Mười Điều Răn cho
người Do Thái và Kitô hữu. Những giới
luật này cung cấp sự hướng dẫn đạo đức cho các Phật tử cư sĩ cũng như Tăng Ni. Chúng nó được tóm tắt như sau:
He who destroys life, who utters lies, who
takes what is not given to him, who goes to the wife of another, who gets
drunk with strong drinks — he digs up the very roots of his life.(Dhammapada,
246-247).
Ai ở đời sát sinh/ nói láo không chân thật/ lấy của
không được cho/qua lại với vợ người /nghiện ngập với rượu mạnh/tự đào bới gốc
mình.
Giới cấm sát sinh được biết như là giới
đầu tiên. Ngoài ra, Đức Phật cũng khuyên chúng ta không
“làm
tổn thương” những người khác, ví dụ:
He who for the sake of happiness
hurts others who also want happiness, shall not hereafter find happiness. (Dhammapada,
131.)
Ai cũng cần hạnh phúc/cầu hạnh phúc cho mình/hại hạnh phúc của người/ đời sau không hạnh phúc
Có lẽ bởi
vì không sát sinh và không làm tổn thương kẻ khác là rất quan trọng, Đức Phật nhiều lần yêu
cầu chúng ta không nên có hành động đó ở nhiều đoạn văn trong
Kinh Pháp Cú (xem phần tiếp theo để biết thêm chi tiết). Thực tế rằng ở
giới thứ nhất và các giáo lý
khác cấm sát sinh và
làm tổn thương không gây tranh cãi giữa các
Phật tử với nhau. Trường hợp có
tranh cãi đến là
câu hỏi của người Phật tử bị cấm không được giết chết hoặc làm tổn thương.
Giới đầu tiên và sự ngăn cấm làm tổn hại để bảo vê ai?
Giới thứ nhất và các lời dạy khác chống làm tổn
thương và bảo vệ súc vật? Có lẽ giống như
điều răn của Do Thái-Kitô giáo
“Ngươi chớ giết” nhằm áp dụng đối với loài người. Khả năng
này có thể được loại trừ gần như
ngay lập tức, trong Kinh Pháp
Cú, có rất nhiều huấn thị
rõ ràng chống
lại việc sát hại hoặc làm tổn thương chúng sinh, chứ không phải chỉ dành cho “con người “:
But although a man may wear fine
clothing, if he lives peacefully; and is good, self-possessed, has faith and
is pure; and if he does not hurt any living being, he is a holy
Brahmin, a hermit of seclusion, a monk called a Bhikkhu. (Dhammapada,
142. Emphasis added.)
Người có trang sức tốt/nếu sống tâm tịnh thiện/có kiên định phạm
hạnh/không tổn hại chúng sinh/vị ấy là phạm chí/ là ẩn sĩ sa môn.
The
wise who hurt no living being, and who keep their body under
self-control, they go to the immortal NIRVANA, where once gone they sorrow no
more. (Dhammapada, 225 Emphasis added.)
Người trí không sát
sinh/thường chế ngự bản thân/Đạt niết bàn bất tử/cảnh giới không ưu buồn.
A
man is not a great man because he is a warrior and kills other men; but
because he hurts not any living being he in truth is called a great
man. (Dhammapada, 405. Emphasis added.)
Một con người vĩ đại/vì y là chiến sĩ/giết chết nhiều người
khác/nhưng người không sát sại/bất kỳ mọi chúng sinh/xứng danh: người vĩ đại.
Rõ ràng
rằng Đức Phật
đã cố gắng làm
cho điều này rõ
ràng, rằng huấn thị chống lại việc sát sanh hoặc làm tổn thương
không chỉ giới hạn đối với con người,
nhưng mở rộng ra đối với tất cả “chúng sinh.”
Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi, “chúng
sinh” là gì hoặc những ai? Một số người
lập luận rằng
sự bảo vệ của “chúng sinh” bao gồm thực vật cũng như các loài
động vật, vì chúng nó cũng có sự sống. Nếu đây là trường hợp,
thì điều này có
thể tuyên bố rằng đối với một Phật tử, ăn một con thỏ là không
tồi tệ hơn ăn một củ cà rốt.
Ở đây tôi đang
ở thế bất lợi, khi tôi chưa học tiếng Pali, cũng như tôi không có những bản kinh nguyên gốc bằng tiếng Pali. Tuy nhiên, một đoạn huấn thị tuyệt vời diễn tả rằng chúng sanh là ám chỉ đến những loài có tri
giác (hữu tình).
All
beings fear before danger, life is dear to all. When a man considers this, he
does not kill or cause to kill. (Dhammapada, 129-130.)
Chúng sinh sợ nguy hiểm/chúng sinh sợ tử thần/Biết cân nhắc điều
này/không giết không bảo giết.
Ở đây, Đức Phật giải
thích rằng chúng ta không nên sát hại
thay vì quan tâm đối với nỗi sợ hãi
và yêu thương sự sống mà mọi loài cần có. Hơn nữa, Ngài nói rằng tất cả chúng sinh
đều có chung những thuộc
tính này, cho thấy rằng từ mà Mascaró đã dịch như “beings” thực sự
có nghĩa là “chúng hữu tình” (sentient beings). Một số
người hoài nghi có thể cho rằng loài động vật phi nhân
không phải là chúng sinh
có tri giác (hữu tình). Tuy nhiên, trong
đoạn văn khác, Đức Phật đề cập
đến tri
giác của con cá trong một phép ẩn dụ mô tả một tâm trí loạn động:
Like a fish which is thrown on dry
land, taken from his home in the waters, the mind strives and struggles to
get free from the power of Death. (Dhammapada, 34.)
Như cá ném đất khô/vứt ra khỏi
nguồn nước/tâm tranh đấu vẫy vùng/để thoát khỏi thần chết.
Đoạn này cho
thấy rằng, từ “chúng sinh” được
diễn tả trong Kinh Pháp Cú 130 (xem ở trên), cuộc sống của con cá rất đáng quí đối với nó – nếu không thì tại sao nó “tranh đấu vùng vẫy dể thoát khỏi thần
chết” khi bị đưa ra khỏi dòng nước của nó? Nếu
Đức Phật cho rằng loài cá là loài chúng sinh có tri giác, điều này cho thấy rằng ngài đã đề cập đến nhiều loài động vật khác thông thường bị
giết hại bởi con người. trong số các loài động vật khác thường thiệt mạng và bị thương của con người (ví dụ như động vật có vú và chim) cũng là hữu tình chúng sinh. Vì vậy, ít nhất là cá, chim và động vật có vú không thể bị giết hoặc bị làm tổn thương theo giới đầu tiên và các giáo lý khác
nhằm bảo vệ chúng sinh . Nó có thể là hoàn
toàn ở giới đầu tiên bao gồm các động vật khác vậy.
Vậy tại sao Đức Phật không nói thẳng rằng không nên làm hại “động vật”, thay vì là “chúng sinh”? Có
lẽ nó là bởi vì thời
điểm và quốc
độ trong thời Phật, những
tín đồ của các tôn giáo nổi tiếng khác chẳng hạn
như đạo Jainism đã bảo vệ động vật và như vậy
điều này rất rõ ràng đối với đệ tử của
Đức Phật trong việc bất sát không giết chết “chúng sinh”, có nghĩa
là không giết chết động
vật . Có lẽ không có từ trong tiếng
Pali bao gồm cả những
loài động vật nhân và phi nhân, vì thế thuật ngữ được dịch là “chúng sinh (living beings)” là đề cập chung. Hoặc có lẽ là Đức Phật muốn chúng ta phải quan tâm hơn đến các động vật có tri giác (hữu tình), chứ
không phải sự sống
của loài thực vật vô tình.
Sự gợi ý về
việc đối xử của chúng ta đối với động vật
Từ thời Đức Phật,
đã có những thay
đổi đáng kể trong mối quan
hệ giữa động vật và con người. Các thao tác như thuật giải phẩu sinh thể và
nhà máy sản xuất nông nghiệp sẽ không được biết trong thời Đức
Phật, và do
đó, tất nhiên chúng không
được đề
cập đến một
cách chi tiết ở trong Kinh Pháp Cú.
Hơn nữa, Kinh
Pháp Cú là rất ngắn gọn, và không liệt kê tất
cả các hành vi bất thiện có
thể được thực
hiện đối với động vật (bao
gồm con người cũng như
động vật!). Tuy nhiên, mặc dù
vô số sự hãm hại đối với động vật, không phải tất cả được nói một cách chi tiết trong Kinh Pháp Cú, chúng ta có thể suy ra
nhiều điều, đơn thuần
là ở giới thứ nhất
và những
lời dạy chống lại việc làm tổn thương các chúng sinh
khác. Rõ ràng rằng Đức Phật
không muốn chúng ta tiêu diệt hoặc
làm tổn thương động vật như chính bản thân mình. Do đó,
Phật tử không thể là thợ săn, người đánh cá, bẫy chim, kẻ
đồ tể, kẻ chặt thịt vv… cũng không phải chúng
ta có thể dồn động vật
đến chỗ không còn đất sống trong những nơi được gọi là ngôi nhà của động vật.
Không
ăn thịt như thế nào? Một số
người cho rằng miễn
đừng giết động vật thì ăn thịt cũng không sao. Tuy nhiên, lưu ý rằng
đoạn 129 và 130
trong Kinh Pháp
Cú xác định
rằng chúng ta không nên “giết
hoặc gây ra cái chết”. Khi mọi người mua sản phẩm làm ra từ
cơ thể động vật
đã chết, họ hẳn nhiên gián tiếp giết hại
những động vật . Do đó, thịt,
da và lông cũng bị cấm. Điều này có đúng chăng, để có hiệu quả kinh tế, giết động vật già và kém năng suất là
cần thiết để sản xuất sữa và trứng – chắc
chắn đây là một trong những
yêu cầu của
các ngành công nghiệp trứng và sữa biện minh cho hành vi này. Nếu vậy,
thì mua sữa và trứng cũng hẳn nhiên là nguyên
nhân tạo ra sát sinh, và do đó
nên tránh điều này
nếu giữ giới thứ nhất.
Món
thịt mà
người khác đã
mua như thế nào? Hầu hết, có lẽ tất
cả các trường
hợp, với việc chấp nhận thịt
phục vụ cho
chúng ta bởi
người khác, chúng ta đang gây ra việc sát sinh. Ví dụ, nếu
ăn thịt bạn bè
mời chúng ta đến ăn bữa tối, họ sẽ
mua thêm thịt
cho chúng ta trong sự mong đợi về chuyến thăm của
chúng ta, hoặc nếu
chuyến thăm của chúng ta nằm
ngoài kế hoạch, họ có thể mua thêm thịt để cất lại trong
tủ đựng thịt của họ sau khi chúng ta rời khỏi. Trong cả hai trường hợp, sự chấp nhận của chúng ta đối với thịt đã gây ra cho việc giết hại động vật thêm. Vì vậy,
lý tưởng nhất, chúng ta không nên chấp nhận
dùng thịt cung cấp từ những người khác, và nên
để cho mọi người biết trước điều này bất
cứ khi nào
có thể.
Một số người cho rằng thức ăn của
dạ dày không quan trọng, chỉ có thức
ăn của tâm mới quan
trọng.
Tuy nhiên, Đức
Phật đã chỉ ra rằng chúng ta
nên đưa ra sự suy nghĩ với những gì chúng ta ăn:
He who lives only for pleasures,
and whose soul is not in harmony, who considers not the food he eats,
is idle, and has not the power of virtue — such a man is moved by MARA, is
moved by selfish temptations, even as a weak tree is shaken by the wind. (Dhammapada,
7. Emphasis added.)
Người sống theo dục lạc/không chế ngự tâm mình/ăn uống không điều
chế/biếng nhác không chuyên cần—như bị ma dẫn đắt/bị ích kỷ khống chế/như
cành cây yếu đuối/lung lay theo chiều gió.
Not
to hurt by deeds or words, self-control as taught in the Rules, moderation
in food, the solitude of one’s room and one’s bed, and the practice of
the highest consciousness: this is the teaching of the Buddhas who are awake.
(Dhammapada, 185. Emphasis added.)
Thân khẩu đừng não hại/tự hộ trì giới luật/ăn uống có tiết độ/sống ở
nơi thanh tịnh/chuyên tu tập thiền định/đây lời chư Phật dạy.
Có lẽ những lời dạy trên khuyên chúng ta tránh đi thói ham ăn cũng như nên ăn chay. Nhất
định nhiều người tìm cách “từ bỏ” sự khổ đau từ thịt (hoặc các sản
phẩm khác giết hại động vật) cũng nên xem xét
nếu họ đã
tự cho phép mình trở nên quá gắn liền với những thú vui vật chất, và chú ý đến những lời của Đức Phật:
He who does what should not be
done and fails to do what should be done, who forgets the true aim of life
and sinks into transient pleasures — he will one day envy the man who lives
in high contemplation.
Làm việc không nên làm/không làm
việc cần làm/người đắm chìm dục lạc/quên chân lý cuộc đời–rồi y sẽ đố kỵ/bậc
an trú đại định.
Let
a man be free from pleasure and let a man be free from pain; for not to have
pleasure is sorrow and to have pain is also sorrow. (Dhammapada,
209-210.)
Hãy thoát khỏi dục lạc/hãy thoát khỏi cực hình/không dục lạc thì
khổ/cực hình cũng đớn đau.
Mặc dù lý tưởng của
sự tách biệt không có nghĩa là chúng
ta bị cấm để trải nghiệm
những thú vui vật chất, rõ ràng
cho phép hưởng thụ dục lạc đối với thịt để vượt qua giới cấm thứ nhất là trái với tinh thần của
Kinh Pháp Cú. Nhiều người đã cố gắng biện minh
cho việc giết chết động vật
bởi vì những lợi ích mà nó mang lại, cho dù lợi ích kinh tế cho
những người làm nghề giết chết động vật, hoặc các
lợi ích có
tiềm năng y học có thể
phát sinh từ sự giải phẩu sinh thể. Tuy nhiên, Đức Phật nói:
He who for himself or others
craves not for sons or power or wealth, who puts not his own success
before the success of righteousness, he is virtuous, and righteous, and
wise. (Dhammapada, 84. Emphasis added.)
Không vì mình vì người/ và không
cầu con cái/ hoặc tài sản lớn lao/chẳng mong mình thành tựu/với thành tựu đạo
đức/vị ấy có giới hạnh/có chánh pháp, trí tuệ.
Đó là, sự thực hành chánh đạo (tuân theo giới luật) có mức ưu
tiên cao hơn sự “thành tựu” thế gian. Hơn nữa, Đức Phật cảnh báo
về vìệc tham luyến đối với thân
thể:
Consider this body! A painted
puppet with jointed limbs, sometimes suffering and covered with ulcers, full
of imaginings, never permanent, for ever changing.
Hãy quán sát thân này/như con rối tô màu/với chân tay ráp lại/đau
đớn và ung nhọt/tràn đầy điều khởi tưởng/ không bao giờ trường cửu/và thay
đổi không ngừng.
This
body is decaying! A nest of diseases, a heap of corruption, bound to
destruction, to dissolution. All life ends in death.
Thân này đang suy già/là một ổ bịnh hoạn/một đống phân thúi nát/buộc
ràng với hoại diệt/Vì tất cả đời sống/kết thúc bằng cái chết.
Look
at these grey-white dried bones, like dried empty gourds thrown away at the
end of the summer. Who will feel joy in looking at them?
Nhìn xương xám trắng này/như bầu
bí rỗng khô/ném bỏ cuối mùa hè/ai còn thích nhìn chúng?
A
house of bones is this body, bones covered with flesh and with blood. Pride
and hypocrisy dwell in this house and also old age and death.
Thân này làm bằng xương/xương phủ bằng thịt máu/kiêu mạn và dối
trá/trụ trong ngôi nhà này/rồi cũng già và chết.
The
glorious chariots of kings wear out, and the body wears out and grows old;
but the virtue of the good never grows old… (Dhammapada,
147-151).
Như xe vua rực rỡ/rồi cũng phải mục hư/thân này rồi già suy/nhưng
giới đức thiện pháp/chẳng già suy bao giờ…
Mặc dù Đức
Phật không yêu cầu chúng ta gây
tổn hại cho
cơ thể của chúng ta, hoặc trực tiếp
hoặc bằng cách bỏ qua các nhu
cầu của cơ thể
chúng ta (điều này sẽ là vô
nghĩa), ngài nhấn
mạnh rằng cơ thể là vô thường, và chúng ta nên quan tâm nhiều về đạo
đức hơn là việc bảo vệ
cơ thể. Do đó,
giết chết động vật (một hành vi vi phạm của giới
đầu tiên), không thể được biện
minh bằng cách tuyên bố rằng
nó sẽ kéo dài tuổi thọ của con người.
Hơn nữa, không
giống như kinh
điển Do Thái-Kitô giáo, Kinh Pháp Cú không cho
rằng con người là cao hơn hoặc quan
trọng hơn các động vật khác.
Vậy kết thúc ở đâu? Đây là một điều đáng buồn đối với cuộc sống mà mọi thứ chúng ta mua hoàn
toàn liên quan đến sự hãm
hại chúng sinh ở một số điểm trong sản xuất, đơn giản bởi vì đại đa số người sẵn sàng giết hại động
vật bất cứ khi nào cần thiết. Ví dụ, các loại rau cải mà chúng
ta ăn có thể đã được
bón bằng phân bột làm bằng
xương,
quần áo kết bằng sợi thực vật
có thể được
làm bằng các
sản phẩm có nguồn
gốc từ động vật,
thuốc men hiện tại được
giám định bởi pháp
luật xuyên
qua việc thử nghiệm trên thân thể động vật. Tuy
nhiên, việc mua các sản phẩm như thế này
không đòi hỏi phải giết hại cho việc
sản xuất của họ, nó không rõ
ràng rằng chúng ta đang gây ra cái chết
cho những loài khác – đặc
biệt là nếu
chúng ta cũng đang làm việc để
thay đổi những
phương thức trong các ngành công nghiệp. Vậy thì, tốt nhất là để duy
trì mức tiêu thụ của tất cả
các sản phẩm ở mức tối thiểu, cả
hai để giảm thiểu những vụ lợi chung để sát sinh, với
việc tuân thủ lý tưởng buông xả của Phật giáo bằng mọi cách.
Những gợi ý của Kinh Pháp Cú đối với những nhà bảo
vệ Súc quyền
Ở mức tối thiểu, Kinh Pháp Cú là phù
hợp với những quyền lợi động vật.
Thật vậy, có vẻ như nó chỉ thị đối với các mục tiêu của phong
trào súc quyền, ví dụ
như việc bãi bỏ ngành công
nghiệp thịt và thuật giải
phẩu sinh thể. Kinh Pháp
Cú được cho là một trong những
kinh điển cốt lõi của Phật giáo, điều này thì không dễ dàng để thấy được làm thế nào mà Phật tử tham gia
vào hoạt động giết thú
vật có thể biện minh cho
sự
tương phản giữa thực
hành và những lời dạy của Đức Phật.
Tuy nhiên, những nhà hoạt động súc quyền nên lưu ý rằng giết chết
các loài động vật trong các”trang trại” cũng bị cấm. Theo như tôi hiểu, đây là một hệ quả
hợp lý của
súc quyền cũng như Phật giáo, tuy nhiên một thực tế không may là nhiều người tự coi
mình là một phần của phong trào
đòi quyền động vật vẫn thấy
giết mèo vô gia
cư và con chó hợp pháp hoặc trường hợp cần thiết. Cũng thế, dù
các mục tiêu của súc quyền là bởi và rất thích hợp với Phật giáo, các hành động thường
xuyên được thực hiện để
đạt được những mục tiêu này thì không thấy. Nhiều người ủng
hộ các quyền lợi của động vật chỉ trích gay gắt về những người hành hạ động vật. Nhưng đìều tốt nào mà con người cần
thực hiện? Đức Phật nhắc nhở chúng ta.
Never speak harsh words, for once
spoken they may return to you. Angry words are painful and there may be blows
for blows. (Dhammapada, 133.)
Chớ nói lời cay độc/một khi đã
thốt ra/chúng trở về với bạn/lời thù hận làm đau/ và đánh bật lại mình.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể hành động để giải
thoát chúng sinh từ nỗi đau khổ? Nếu chúng ta làm tốt sẽ
có kết quả tương ứng sau đây:
Overcome anger by peacefulness:
overcome evil by good. Overcome the mean by generosity; and the man who lies
by truth. (Dhammapada, 223.)
Định tĩnh thắng sân hận/lòng thiện
thắng ác hung/rộng lượng thắng bủn xỉn/chân thật thắng dối lừa.
Và nếu chúng ta phấn đấu để
sống một cách hòa bình sẽ là bài
học cho thế giới về từ
bi hơn là sự hênh hoang đầy thù địch. Tất nhiên, đây không phải là dễ
dàng! Tôi không tuyên bố làm chủ được bản thân
mình, mặc dù nó là một vài đìều mà tôi còn phấn đấu. Đức Phật
thừa nhận những khó khăn, nhưng khuyến khích chúng
ta tiếp tục nỗ lực:
If he makes himself as good as he
tells others to be, then he in truth can teach others. Difficult indeed is
self-control. (Dhammapada, 159.)
Nếu tự làm mình tốt/như răn bảo người khác/người sống
thật với mình/có thể dạy người khác/tự điều phục khó thay.
Đôi khi lý tưởng này dường như
vô nghĩa, và vô vọng, vô ích, chúng
ta hãy cố gắng
gạt qua cơn giận dữ và nỗi tuyệt vọng của chúng
ta ở những gì mà con người đồng loại của chúng ta đang đối xử với động vật, và hãy tập trung tình yêu dành cho động
vật, thúc đẩy sự tranh đấu dành cho súc quyền: Vì lòng căm thù không chinh phục được lòng căm thù: lòng căm thù được chinh phục bởi tình yêu.
Đây là một định
luật nghìn thu. (Kinh Pháp Cú, 5.)
Trích từ: E Book 3D (dạng sách đọc): Sự Quyến Rũ Của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới – Thích nữ Tịnh Quang
Discussion about this post