PHẬT PHÁP
Giải pháp cho vấn đề khủng hoảng về tâm-sinh lý
Thích Nhật Hiếu
Giáo dục tâm-sinh lý luôn là vấn đề
quan tâm hàng đầu của các nhà giáo dục xã hội. Cũng vậy, vấn đề này đã được
Phật giáo đặt ra gần 3 ngàn năm qua. Ngày nay cuộc sống xã hội phát triển tốc độ
với nền văn hoá đa chiều đã tác động không ít vào đời sống tuổi trẻ; ngay cả
thế giới của người đứng tuổi từng trải vẫn không ngoại lệ, vẫn bị rơi vào
tâm-sinh lý bế tắc, gây bất ổn cho cuộc sống bản thân và gia đình, hình thành
nên nhiều tệ đoan cho xã hội. Vì vậy, giáo dục tâm-sinh lý là vấn đề cần đặt
lại, làm thế nào cho mọi người ý thức để phát triển và hoàn thiện nhân cách theo
chiều hướng lành mạnh, thăng hoa và bền vững, đem lại cuộc sống hạnh phúc chân
thật cho bản thân, và bình an bền vững cho xã hội.
a. Vấn đề
khủng hoảng về tâm lý:
Môi trường xã hội
cũng tác động đến tâm lý của chúng ta, như tiếng ồn, ô nhiễm,… ngay cả những
hình ảnh trên các báo chương, quảng cáo,v.v… đã khai thác triệt để thị hiếu
giới tính, làm cho tâm lý chúng ta dao động ghê gớm. Còn nữa, chủ nghĩa tự do
quá trớn, hình thành nên phong cách sống sai lầm, thác loạn, nông nổi và quá
khích. Tuổi trẻ chưa trải nghiệp cuộc sống, chưa lường trước được những nguy cơ
đe dọa cho bản thân để có thể tự bảo vệ chính mình. Nên biết, có những trường
hợp mắc phải sai lầm phải trả cái giá quá đắt, ân hận suốt đời, không sao khắc
phục!
Hơn khi nào hết,
giáo dục tâm lý được các nhà giáo dục xã hội quan tâm nhiều trong công tác giáo
dục thanh thiếu niên như ngày nay. Với lứa tuổi từ 14 đến 25, cơ thể và tâm lý
đang phát triển, có nhiều diễn biến phức tạp, bao gồm cả phương diện tích cực
cũng như tiêu cựu. Về mặt ưu điểm, thể chất tràn đầy nhựa sống, có khả năng
tháo vát trong công việc, cũng như đầu óc nhạy bén, ăn nói hoạt bát; nói chung,
năng động ở nhiều lãnh vực, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế như bồng bột, nông nổi thất
thường, chưa thể dự báo các nguy cơ tiềm ẩn khi trực diện với cuộc sống thực tại.
Theo thống kê cho
biết, nạn nhân ở lãnh vực tội phạm như: trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, nghiện
ngập, tâm thần, tự tử,v.v… phần nhiều là ở tuổi vị thành niên; do cơ chế tâm lý
rối loạn, vui buồn thất thường, bi quan và thành kiến với cuộc sống, để rồi tìm
đến những thú vui cảm xúc mạnh, đầy nguy hiểm như đua xe, xì ke, đàng điếm,… Không
riêng gì chỉ có tuổi trẻ, mà nhiều người lớn vẫn chưa chắc đã là chính chắn và
không mắc phải sai lầm, đưa đến đánh mất nhân cách trong phút chốc với cảm xúc
lạc thú của cuộc sống vật chất dục lạc; ngày nay, cuộc sống vật chất trấn áp
đời sống tinh thần; theo qui luật tự nhiên, một khi vật chất lên cao thì tinh
thần xuống thấp, văn minh tinh thần không đuổi kịp văn minh vật chất, thì nguy
cơ suy thoái đạo đức và bao nguy cơ đe khác kéo theo, đe doạ đến cuộc sống bình
yên xã hội. Đây là lý do chính đưa đến cuộc sống thất tán nhân tâm. Những diễn
biến tâm lý thất thường này là động cơ đưa con người đi vào con đường tội phạm,
tâm thần, đột tử, nghiện ngập,… để rồi lún sâu vào các tệ nạn,… đẩy họ trôi dạt
ra ngoài lề xã hội; thất thiểu, ẩm đạm, chán chường, đến đổi không còn thiết
sống. Như Nguyễn Du đã từng tâm sự nỗi buồn thiên cổ này qua vần thơ:
cùng ai tỏ, Trăng thanh gió mát vẫn thờ ơ.”[1]
Thi sĩ Xuân Diệu cũng từng rơi vào cảnh
bế tắc của diễn biến tâm lý với nỗi sầu muộn gậm nhấm tâm hồn ông ta qua cảm
xúc:
Mặt khác, tâm lý rơi vào trạng thái
yếu đuối với thói hư đốn, sa lầy vào chốn nghiện ngập tội lỗi, không thể vẩy vùng
ra được như Tản Đà từng tâm sự:
Có những nỗi buồn chợt đến chợt đi cơ
hồ man mát tưởng chừng vô hại như cơn gió mùa thu thoảng se lạnh, nhưng đắm
mình mãi ngoài trời có lúc cũng sẽ đổ bệnh thương hàn. Cũng vậy, nên cảnh giác
với tâm lý vui buồn thất thường này. Trẻ con buồn đi dạo xóm, các ông buồn đi
nhậu nhẹt, thanh niên buồn đến các tụ điểm chơi bời, các chị buồn đi dụm năm dụm
bảy,… mọi người buồn hay tìm đến một trò tiêu khiển mua vui nào đó, nhưng không
lường trước nguy cơ. Ngay cả, chú Tiểu buồn ngẩn ngơ bên trong cửa Thiền thấp
thỏm nhìn ra đường, mà tâm hồn mơ màng hình dung đủ thứ nơi chốn thiên đường
trần thế. Thật sự, thoạt đầu tâm lý này vô tội vạ, nhưng nó chính là tiềm ẩn
của bao tai hoạ thất tán nhân tâm đang rình rập. Nhiều người vì nỗi buồn cô đơn
mà đi tìm thú vui cảm giác lạ nơi hí trường, tưởng chừng nhứt thời nhưng sa
chân vào cạm bẩy của bao thứ quyến rũ chết người, thế rồi nghiện ngập, đàng
điếm, cướp giật, tù tội,v.v…
Đức Phật dạy về tai hại của tâm lý có
xu hướng tham dục và lợi ích về xa lìa tham dục[2]: “1. Tâm còn
đeo đuổi ham muốn thì dù có đạt tới cái đối tượng ham muốn rồi, mình vẫn càng
ngày càng muốn có thêm nữa, vẫn chưa được hài lòng. 2. Chạy theo dục lạc
trong cuộc đời, là kẻ đang bị vướng vào tham đắm và si mê. Còn mang dục ý trong
lòng thì cũng như một người đang bị trúng tên
độc. 3. Nên tránh tham dục như tránh dẫn lên đầu một con rắn độc. Phải
thực tập thiền quán mới buông bỏ được những gì
mà người đời thường ham muốn. 4. Vướng vào sự tham cầu châu báu, ruộng
đất, trâu bò, tôi tớ và thê thiếp, kẻ ngu si làm tiêu hao
cuộc đời và thân thể mình. 5. Đang khỏe mạnh cường tráng, người chạy theo
dục lạc trở nên gầy gò hư hao, lại gây thêm nhiều
oán hận. Trong u mê, người ấy phải gánh chịu nhiều đớn đau, giống như kẻ đang
đi trên biển mà thuyền bị vỡ. 6. Ta phải biết
nhiếp phục tâm ý, xa lìa tham dục, đừng vướng vào chúng, tinh tiến đi tới, một
lòng mong cầu đưa chiếc thuyền mình đi sang tới bờ bên kia.
Và trong Kinh Tứ niệm xứ, Ngài còn dạy
rõ về tỉnh giác chánh niệm, phương cách kiểm soát lấy bản thân: “Khi cảm giác
khổ thọ, thuộc về vật chất hay không thuộc về vật chất đều phải tuệ tri như
vậy. Tương tự với lạc thọ/ bất khổ bất lạc thọ.”[3]
Quan sát các cảm thọ giúp chúng ta
hiểu được chính mình, làm chủ được các diễn biến tâm lý mang tính sinh học về
vui buồn, sướng khổ,… đang tồn tại tiềm ẩn trong ta; nhờ đó, chúng ta mới có
thể làm chủ được chính mình, vượt qua mọi thử thách của chính bản thân. Đức
Phật đã ca ngợi, đây là hạng người tự chiến thắng lấy mình và là hạng người oanh
liệt nhất:
thắng, Mà tự chiến thắng lấy mình mới là
chiến công oanh liệt.”[4]
b. Vấn đề khủng hoảng về sinh lý (giới tính):
Khủng hoảng về sinh lý (giới tính) là
sự ham muốn tính dục khác giới của con người. N Ngày nay, các nhà giáo dục đã
phàn nàn rất nhiều về khuynh hướng đạo đức trên đà suy thoái, mà một trong
những nguyên nhân chính là sự lạm dụng khai thác thị hiếu giới tính quá đáng
của các nhà kinh tế trên lãnh vực truyền thông của báo đài. Nhiều hình ảnh đồi
trụy trên các báo chương, quản cáo, phim ảnh,… kích dục. Hành động vô tình hay
cố ý này tác động không nhỏ vào nếp sống thuần phong, mỹ tục, luân lý và đạo
đức xã hội; dấy lên một cao trào thất tán, phóng đãng, gây bao tai họa kinh hồn
như những trận đánh ghen trời long đất lở, những căn bệnh thời đại chết người
vô phương cứu chữa, đẫn đến táng gia bại sản và thân bại danh liệt!
Cảnh báo tính nghiêm trọng và mầm tai
hoạ nghiệt ngã này, sách Lễ ký của Nho gia có ghi: “Tình dục là cái ham muốn
lớn của con người, cũng giống như ăn uống vậy.”[5]
Với căn bệnh trầm kha này, Đức Phật
dạy: “Này các Tỳ kheo, Ta không thấy có một sắc nào khác do nó mà tâm người đàn
ông trở nên nộ lệ rất nô lệ như là nô lệ bởi sắc của người đàn bà. Này các Tỳ
kheo, sắc của người đàn bà ám ảnh tâm của đàn ông. Này các Tỳ kheo, Ta không
thấy có một thinh nào khác… ta không thấy có một hương nào khác… ta không thấy
có một vị nào khác… ta không thấy có một xúc nào khác… do nó mà tâm của người
đàn ông trở lên rất nô lệ bởi xúc của người đàn bà. Này các Tỳ kheo, xúc của
người đàn bà ám ảnh tâm của người đàn ông.”
“Này các Tỳ kheo, Ta không thấy có một
sắc (thinh, hương, vị, xúc) nào khác do nó mà tâm người đàn bà trở nên nộ lệ
rất nô lệ như là nô lệ bởi sắc (thinh, hương, vị, xúc) của người đàn ông. Này
các Tỳ kheo, tâm của người đàn bà bị ám ảnh bởi các thứ đó.”[6]
Nhiều bài học đời thường cho thấy, sự
ham muốn tính dục thiếu lành mạnh, ở phạm vi cá nhân gia đình thì nó làm cho
tan gia bại sản và bại hoại thanh danh; ở phạm vi quốc gia, nó làm cho nghiêng
nước nghiêng thành một khi đối tượng bị rơi vào mê cung của cạm bẩy tình ái đầy
mê muội này. Lịch sử xưa nay, nhiều quốc gia thù địch nhau đã sử dụng độc chiêu
“anh hùng bất quá ải mỹ nhân”, khai thác nhược điểm cá nhân của con người; sử
dụng “mỹ nhân kế và nam nhân kế” để quyến rũ và rập bẩy đối phương, để thực hiện
ý đồ phá hoại.
Nhận thấy, tính dục nam nữ ở chừng mực
nào đó trong phạm vi luân lý xã hội cũng như luật pháp quốc gia qui định cho
phép, gọi là hôn nhân hợp pháp, tức theo luật hôn nhân gia đình đang hiện hành,
mỗi gia đình chỉ một vợ một chồng và 2 con. Phật pháp dạy: người Phật tử tại
gia để gìn giữ giềng mối gia cang, hạnh phúc gia đình bằng 5 nguyên tắc luân lý
đạo đức (ngũ giới), trong đó giới thứ 3 dạy về đời sống thủy chung giữa hai
người bạn đời; nếu đã có gia đình mà còn quan hệ tình cảm bất chính thì sẽ đánh
mất tư cách của người Phật tử tại gia. Hơn nữa, hạnh phúc gia đình sẽ bị đổ vỡ.
Hiện nay, các nhà giáo dục xã hội đã
phải cảnh báo, tỉ lệ li hôn cao đến chống mặt, việc đưa nhau ra tòa chia tay
thật nhanh chóng và giản đơn. Quyền tự do được vận dụng tối đa trong lãnh vực
hôn nhân gia đình trẻ ngày nay. Không còn bị buộc bởi lễ giáo ngày xưa cũng có
nhiều điều hay, người ta có thể lựa chọn bạn đời mà mình yêu thương, nhưng mặt
trái của nó thì để lại nhiều nỗi đau đớn thống thiết! Có người suy nghĩ một
cách đơn giản, thương yêu thì cưới hỏi, chán ghét thì chia tay. Nói thì hay,
nhưng cái hậu quả của thứ tình yêu hôn nhân chớp nhoáng, ngắn ngủi ấy phải giải
quyết ra sao với những đứa con thơ dại phải bơ vơ khi mái ấm bị gia đình tan vỡ?
Thật sự, tình yêu đến như sét đánh, tình yêu đi như sét tan, nhưng hậu quả chết
người vẫn còn đó! Suy cho cùng, đó cũng chỉ là cách ngụy biện và chạy tội cho
cái suy nghĩ nông nổi và cái hành động tại hại đầy tội lỗi của họ mà thôi!
Nên biết, tình yêu chỉ là cảm xúc đầy
lý tính, nhưng hạnh phúc thì bao gồm cả trái tim thương yêu và cái đầu hiểu
biết. Để xây dựng đời sống của một gia đình hạnh phúc bền vững không phải một sớm
một chiều là có được, không chỉ đơn thuần thứ tình yêu xúc cảm, mà cần một lý
trí bén nhạy. Nếu muốn cho bản thân mình và những người thân trong gia đình
mình có một cuộc sống hạnh phúc ấm êm, không để gia đình mình trở thành gánh
nặng cho xã hội, thì phải biết trân trọng và giữ gìn, bằng cách thương yêu con
cháu, chung thủy với bạn đời và chí thú trong sự nghiệp làm ăn. Hãy thận trọng
và làm chủ xúc cảm của bản thân!
Trong Kinh xà dụ, Đức Thế Tôn đã cảnh
báo: “Các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.” Ngài
còn dùng hình ảnh ví von sự tai hại thống thiết của nó: “Dục như khúc
xương, một miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn
mộng, như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy
nhọn, như rắn độc,… vui ít khổ nhiều, não nhiều; và do vậy, nguy hiểm càng
nhiều hơn.”
Thế thì, vấn đề tâm-sinh lý vận hành theo
chiều hướng thiếu kiểm soát sẽ rơi vào sa đoạ, trong Phật giáo gọi là tâm dục
lạc. Về phương pháp kiểm soát tâm-sinh lý, cần triệt tiêu mọi khát vọng dục lạc
ảo huyền tạm bợ, để hướng đến an lạc vĩnh cửu, Đức Phật đã dạy cho Cư sĩ Mahānāma:
“Thuở xưa, khi Ta còn là Bồ-tát, chưa chứng được Bồ-đề, chưa thành
Chánh đẳng chánh giác, Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: Các
dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn, dầu Ta có
thấy với như thật chánh trí tuệ như vậy, nhưng Ta chưa chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao
thượng hơn. Và như vậy Ta biết rằng, Ta chưa khỏi bị các dục chi
phối. Và khi nào Ta khéo thấy với như thật chánh trí tuệ: Các dục,
vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn, và Ta chứng
được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh hay một pháp nào khác cao
thượng hơn, như vậy Ta khỏi bị các dục chi phối.”[7]
Như vậy, ngoài việc hiểu rõ về sự
hấp dẫn của dục lạc, khơi dậy tâm tham dục, Đức Phật cho rằng: Thực chất của tham
dục ấy là vị ngọt, nguy hiểm và cần phải xuất ly. Con đường để hướng đến sự
xuất ly ấy chính là hành Thiền hay điều phục tâm là phương pháp
để thoát ly dục lạc, con đường thực hiện hạnh phúc an lạc ngay giữa cuộc đời
đầy biến động bởi dục vọng. Ngài còn cảnh tỉnh về thực chất của khổ
đau hay an lạc, khi mà ta sống buông suôi hay kiểm soát được bản thân:
Vả lại, hạnh phúc đời thường là sự
thoả mãn cảm xúc giác quan, nhưng những cảm xúc ấy cũng chỉ cảm giác trong nhất
thời mà thôi! Nó cũng chỉ là một trong chuỗi nhu cầu không có điểm dừng, có xu
hướng đòi hỏi ngày càng gia tăng và kéo dài vô hạn định. Đằng sau của cảm xúc
giác quan ấy, luôn là nỗi chán chường, và luôn có xu hướng đi tìm của lạ; vậy
thì, niềm vui đó ngay trong hiện tại đã là nỗi bất an và tạm bợ, là một
cuộc đuổi bắt, tìm cầu không ngừng nghỉ, là một trạng thái bức bách.
Đức Phật đã dạy: “Dục lạc, là nỗi khát vọng như người đi biển khát nước uống
phải nước mặn, càng uống càng khát, và nỗi khổ đau bức bách càng khốc liệt hơn!”
Đức Phật còn giới thiệu có 4 pháp hành[9]
mang lại quả báo hạnh phúc chân thật hay khổ đau trong tương lai: “1. Hiện tại
lạc, tương lai quả báo khổ; 2. Hiện tại khổ, tương lai quả báo khổ; 3. Hiện tại
khổ, tương lai quả báo lạc; 4. Hiện tại lạc, tương lai quả báo lạc.”
Trong 4 pháp hành này, Pháp hành thứ
nhất “hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”, hiện tại lạc là do hưởng
thụ, đắm mình trong dục lạc, hoan lạc với tà kiến cho rằng “không có lỗi trong
các dục”. Dù hiện tại hưởng thọ các dục, cảm thấy hoan lạc, thỏa mãn nhưng cảm
giác ấy gắn với vô thường khổ đau. Bởi hiện tại sống đắm chìm trong
cảm giác hoan lạc xác thân, khi ra khỏi cảm giác ấy, vẫn còn đeo đuổi, vẫn còn
nhớ nhung; cảm giác ham muốn này thiêu đốt người ấy trong phút giây hiện
tại cho đến mai sau. Pháp hành thứ hai chỉ cho những vị tu theo hạnh ép xác cực
đoan, không đúng thánh đạo, tuy chịu khổ nhọc nhưng quả báo cũng không có gì
sáng sủa. Pháp hành thứ ba là pháp hành của các bậc tu hành không có thiện
duyên. Pháp hành thứ tư là các bậc tu hành có nhiều thiện duyên trong hiện
tại, tu hành theo thánh đạo sẽ có quả báo an lạc trong tương lai.
Nhìn chung, vấn đề giáo dục tâm-sinh
lý luôn là mối quan tâm xưa nay, nhất là với nền giáo dục hiện đại. Trong đó,
Đức Phật được xem là nhà giáo dục tâm-sinh lý hàng đầu và ra đời sớm nhất trong
lịch sử nhân loại. 3000 năm trước, Đức Phật đã dạy rất nhiều về vấn đề giáo dục
tâm-sinh lý này. Vì rằng, Phật pháp là một phương pháp cảm hoá và đánh thức sự
tự giác và ý thức giá trị tiềm tàng về đời sống tâm linh, một trình tự về giáo
dục tâm-sinh lý theo chiều hướng phát triển con người toàn diện[10],
trán kiện về thể chất và lành mạnh về tinh thần. Đây chính là giải pháp thiết
thực cho mọi vấn nạn đang làm đau đầu nhiều các nhà giáo dục xã hội; giải pháp
cho những bức xúc về tệ nạn xã hội đang trên đà leo thang, làm băng hoại và mai
một dần giá trị đạo đức nhân bản ngày nay. Phải chăng, Phật pháp là chân lý
sống có giá trị vượt cả không gian và thời gian nhưng bị lãnh quên? Thế thì, ý
kiến trên cũng chỉ là một lẫn nữa xác định lại giá trị nhân bản này, Phật giáo
là giải pháp cho mọi vấn đề khủng hoảng về tâm-sinh lý, nhằm xây dựng một cuộc
sống cá nhân trong sáng và xã hội lành mạnh ngay từ trong tự thân – tư tưởng
của mọi con người, khơi dậy đức tính cao quí của đạo đức – lương tâm, đánh thức
tinh thần thánh thiện của giác ngộ – Phật tâm; tự vượt qua được mọi chướng
duyên, nghịch cảnh của thói hư tật xấu của sát – đạo – dâm – vọng, thành tựu
mọi công đức, hoàn thiện tư cách của thanh tịnh – từ bi – trí giác, kiến tạo một
cuộc sống hạnh phúc chân thật và vững bền bây giờ và tại đây, trong tương lai
và ở bất cứ nơi đâu.
[1] 衷情無限凴誰訴 ,明月清風也不知 (Trung tình vô hạn bằng
thủy tố/ minh nguyệt thanh phong dã bất tri.)
[2] K. Nghĩa
túc (K. Kiệt tham vương), Taishō N0.198 ≈
Kāma Sutta, Sutta-Nipāta 766-771
[3]
Majjhima-nikāya, N0.10,
Satipathānasutta
[4] Pháp cú N0.103
[5] 食 色
性 者
, 飲 食
男 女
人 之
大 欲
存 焉 (Thực sắc
tính giả, ẩm thực nam nữ nhân chi đại dục tồn yên)
[6] Gradual Sayyings, Vol. I (Tăng chi bộ I), PTS, London, 1989
[7] Kinh tiểu khổ uẩn (Cūladukkhakkhanda
sutta), N0.14, Majjhima Nikāya I
[8] Dhammapada N0.33
[9] Kinh tiểu pháp hành (Cūladhammasamādāna
sutta), N0.45,
Majjhima Nikāya I
[10] Ngũ uẩn (五蘊, s:pañca-skandha): năm yếu tố hình thành con người toàn diện, toàn
bộ thân và tâm.
Discussion about this post