PHẬT DẠY 8 PHÁP ĐỂ SỐNG AN LẠC
Phong Trần Thiện Nhân
Trong
kinh Pháp Cú Phật dạy rằng tâm làm chủ, tâm
dẫn đầu các
pháp thiện hay ác. Tâm là người
thực hiện mọi
hành vi, cũng vừa là kẻ nhận lãnh những hành động do chính mình tạo ra. Tâm là chủ nhân của bao điều họa phúc, là ông chủ ra lệnh cho kẻ đầy tớ
trung thành của mình để nói năng và hành động tốt hay xấu.
Đức Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”, chúng ta hãy nương tựa chính mình, bởi vì ta là người tạo ra việc làm tốt xấu, rồi gặt hái kết quả khổ đau hay hạnh phúc.
Cầu nguyện hay mong muốn trước hình ảnh đức Phật hay thỉnh các vị thầy để cầu xin được an vui hạnh phúc và phát đạt về mọi mặt là không thể được. Bởi vì sao? Nhân quả là nền tảng của đạo Phật cho nên ta phải tránh làm điều ác, mà hãy siêng năng làm việc lành và giữ tâm ý luôn trong sạch.
Làm việc thiện hay công đức cúng dường, giống như chúng ta gửi tiền vào ngân hàng nhân quả. Ngược lại, nếu chúng ta làm việc ác, giống như chúng ta đang vay mượn tiền của ngân hàng, chúng ta phải trả tiền lãi và cả nợ gốc. Khoản vay trên có thể trở thành một gánh nặng cho chúng ta, nếu ta không có khoản thu vào. Những người mắc nợ luôn sống trong lo sợ và đau khổ, bởi vì bị chủ nợ hăm he nói nặng nhẹ và nguy cơ lớn là dẫn đến tù tội.
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúc vì thoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tại và mai sau. Phật dạy cho chúng ta tám cách tạo công đức để sống an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
1-Bố thí
2-Giữ giới trong sạch
3-Thiền tập
4-Hoan hỷ với công đức hay thiện nghiệp do người khác làm
5-Khiêm tốn
6-Hồi hướng phước báo mỗi khi làm việc thiện
7-Thường xuyên đọc kinh nghe pháp
8-Hoằng pháp lợi sinh
Bố thí: Bố thí tiếng Phạn là Dàna, có nghĩa là sự cho, còn theo từ ngữ Hán Việt bố là cùng khắp, thí là cho, nghĩa là cho cùng khắp không phân biệt người thân hay kẻ thù. Chính vì chúng ta còn phân biệt chấp ngã nên ta chỉ bố thí có giới hạn dẫn đến không được nhiều lợi ích.
Từ cúng dường là nói trại của hai chữ cung dưỡng có nghĩa là cung cấp và dưỡng nuôi. Về nội dung thì bố thí hay cúng dường chỉ là một, không có gì là sai khác. Tuy cùng chung một nghĩa cử, một hành động, nhưng người ta dùng hai từ khác nhau để phù hợp với đối tượng thọ nhận: cho với lòng hảo tâm, thương cảm thì gọi là bố thí, còn cho với lòng ngưỡng mộ, tôn kính thì gọi là cúng dường.
Làm người trong trời đất ai cũng từ cha mẹ sinh ra, cha mẹ làm nên thân người, chính vì vậy ta phải có trách nhiệm, bổn phận hiếu thảo với mẹ cha bằng cách chăm sóc về tình cảm, tinh thần và cung cấp dưỡng nuôi lúc cần thiết.
Cung cấp những nhu cầu cần thiết để nuôi dưỡng cha mẹ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây” trong tập quán của người Việt Nam, về việc kính trọng thờ ông bà tổ tiên.
Ngoài việc cúng dường cha mẹ, người Phật tử còn có trách nhiệm và bổn phận cúng dường người tu hành chân chính, suốt đời phục vụ vì Tam Bảo, vì lợi ích chúng sinh.
Tại sao ta phải cúng dường người tu hành chân chính?
Cha mẹ làm nên thân ta, Thầy Tổ giúp ta biết được điều hay lẽ phải để vượt qua cạm bẫy cuộc đời, không rơi vào hố sâu tội lỗi. Vì vậy từ cúng dường được dùng đối với các bậc trưởng thượng, tôn kính như cha, mẹ, Thầy, Tổ v.v.. là những người có công nuôi dưỡng, dạy dỗ, chỉ bày, giúp ta nên người. Ngoài từ ngữ bố thí, cúng dường còn có nhiều từ ngữ khác như kính tặng, kính biếu… để nói lên lòng tôn kính của người cho.
Từ ngữ “bố thí” được người Việt Nam sử dụng với nhiều ý nghĩa như: cho, tặng, biếu, giúp đỡ, chia sẻ…Tất cả đều mang ý nghĩa tốt đẹp của hành động cho.
Con cháu đem vật phẩm nuôi dưỡng ông bà cha mẹ thì gọi là cúng dường phẩm vật, còn ông bà cha mẹ đem của cải vật chất lo cho con cháu thì ta gọi bằng từ cho, giúp đỡ hay chia sẻ. Hoặc người dân bình thường muốn đem phẩm vật cho những người có địa vị trong xã hội thì gọi là kính biếu hay kính tặng…
Cùng một hành động “bố thí” mà
tùy theo đối tượng,
tùy theo hoàn cảnh, mà ta dùng
từ ngữ sao cho
phù hợp, để không làm mất đi sự
tôn kính, lòng thương cảm của ta.
Là người học Phật, chúng ta phải thấu hiểu rõ ràng chỗ này, để dùng từ ngữ không bị sai lệch mà làm ảnh hưởng không tốt, đến hành động bố thí của mình.
Bố thí, cúng dường là hành động làm phước thiện, theo luật nhân quả, nó là điều kiện thiết yếu để ta tiêu trừ đau khổ, chuyển hóa nghèo cùng khốn đốn, không còn sợ nghèo đói và vượt qua nỗi bất an sợ hãi trong cuộc đời như mũi tên chỉ đường, để ta không bị lầm đường lạc lối.
Người Phật tử chân chính việc thiện dù nhỏ mà ta chịu khó làm, thì vinh hoa phú quý sẽ đến với ta trong hiện tại và tương lai. Nhờ bố thí, mà lòng tham lam, ích kỷ của ta được giảm bớt và ngày càng được tiêu trừ tâm xấu ác. Nếu chúng ta chất chứa lòng tham sẽ tạo cho ta nhiều nỗi khổ niềm đau cho người khác, nuôi dưỡng lòng hiềm hận, luôn sống trong bất an, lo sợ mà làm tổn hại người khác.
Trì giới: Bất luận một cơ quan đoàn thể tổ chức nào trong xã hội, muốn được phát triển bền vững và lâu dài đều phải có nguyên tắc của nó. Kỷ luật chặt chẽ và có quy cũ để duy trì giới điều mà họ chế ra, lại càng có giá trị thực tiễn, nhằm giúp ích cho mọi người.
Đạo Phật là đạo của giác ngộ và giải thoát, do đức Phật Thích ca Mâu ni sáng lập ra, Ngài một đấng giác ngộ hoàn toàn. Chính vì vậy những giới luật Phật chế ra, nhằm giúp cho chúng ta biết cách ngăn ngừa tội lỗi để ngày càng hoàn thiện chính mình hơn.
Chính vì sự lợi ích lớn lao của giới luật, nên đức Phật đã khuyên các hàng đệ tử của Ngài phải một lòng nghiêm trì giới luật. Kinh Lời dạy cuối cùng Phật bảo rằng: “Gặp thời không có Phật, mọi người hãy lấy giới luật làm thầy”.
Tùy theo căn cơ trình độ và
hoàn cảnh sống mà
chúng ta có thể
phát tâm trì giới, trong
phạm vi bài này
chúng tôi nói về 5 giới cho người
cư sĩ tại gia.
“Trì” là giữ giới chặt chẽ; “Giới” là những điều răn dạy, ngăn cấm, nhằm giúp cho chúng ta vượt qua biển khổ sông mê mà không bị sa hầm sụp hố, để hành Bồ tát đạo cho đến khi viên mãn thì thành Phật.
1- Trì giới chấp tướng: Trì giới chấp tướng là trì giới mà chỉ có hình thức bên ngoài, chứ bên trong thì tâm ý bị chi phối những dục vọng thấp hèn. Như chúng ta trì giới vì háo thắng để được mọi người khen ngợi, rồi cho mình hơn người nên ta trì giới, và coi thường khinh dễ người phạm giới. Trì giới như thế là giả dối, đánh lừa mình và người khác.
2- Trì giới không chấp tướng: Trì giới không chấp tướng là vâng theo lời Phật dạy mà tùy theo khả năng phát nguyện gìn giữ, không vì háo thắng, không vì danh lợi, không bị các thế lực hoàn cảnh ép buộc mà làm.
Người Phật tử chân chính có tài thí, pháp thí mà không biết gìn giữ giới pháp thì không thể hết phiền não tham sân si nói chi là thành Phật, vì người ấy một mặt làm phước để vui chơi hưởng thụ, nên dễ gây nhiều tội lỗi cho người khác.
Ngược lại, người Phật tử chân chính luôn tâm niệm rằng, mình trì giới để có cơ hội sống tốt hơn, giảm bớt những thói hư tật xấu và sẵn sàng giúp đỡ sẻ chia khi gặp người bất hạnh.
Khi mọi hành giả trì giới được thanh tịnh, thì tâm từ bi hỷ sẽ phát sinh làm cho ta biết bao dung và tha thứ, biết đóng góp và sẻ chia, và thương yêu trong hiểu biết, không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với ta mà thôi.
Sự tu sửa chỉ cốt ở thực hành. Dù chúng ta có thông minh tài trí đến đâu, thâm hiểu giáo lý cao siêu, mà không chịu thực hành, thì giống như người đói mà ăn bánh vẽ vậy, chỉ uổng công vô ích.
Chính vì vậy, chúng tôi xin chân thành khuyên nhủ quý Phật tử, sau khi đã quy hướng Tam bảo làm đệ tử Phật rồi kế đến là chúng ta phát nguyện giữ giới, từ giữ một giới cho đến khi nào giữ trọn vẹn năm giới, coi như ta đã thành tựu ba phần tư con đường. Phần còn lại sẽ kếp hợp với buông xả và dấn thân hành Bồ tát đạo, đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.
Trì giới là tránh không làm hại người khác qua lời nói hay hành động như giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người và uống rượu say sưa sử dụng các chất kích thích độc hại như xì ke ma túy, những việc này có thể làm tổn hại mình và người khác. Giữ giới giúp chúng ta loại bỏ sự căng thẳng, bồn chồn, lo lắng phát sinh từ các hành vi sai trái. Khi chúng ta giết hại, nói dối, lừa đảo hoặc trộm cướp của người khác, hiện tại bị tù tội mai sau chịu nhiều quả báo xấu và sẽ bị đọa vào ba đường dữ địa ngục, quỷ đói và súc sinh. Giới có công năng hổ trợ giúp cho thiền định và trí tuệ phát sinh, nhờ vậy ta dễ dàng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc.
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hận và si mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..Những phiền não này làm cho chúng ta phiền muộn đau khổ. Thiền tập giống như tẫy các chất xú uế ra bên ngoài bằng cách tắm rữa, đi tiểu và đi đại. Để cho thiền tập đạt được kết quả tốt đẹp, chúng ta phải giữ giới trong sạch, người giết hại hay trộm cướp của người khác khó đạt được thiền định vì trong tâm họ còn quá nhiều toan tính trong lo lắng và sợ hãi.
Nhờ giữ giới tinh nghiêm ta dễ dàng phát triển định tuệ đồng thời, ngay khi định là có trí tuệ, nên ta dễ dàng buông xả những tâm niệm xấu ác làm tổn hại người khác. Ta sẽ dùng cái thấy nghe hay biết, để biết rõ mọi cử chỉ, hành động trong tỉnh giác. Sự tỉnh giác đó giúp ta làm chủ được những ý nghĩ, lời nói, hành động đang diễn ra trong giờ phút hiện tại.
Khi chúng ta tỉnh giác, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ta thấy nghe hay biết trong sự định tĩnh sáng suốt, thường biết rõ ràng mà không phân biệt vọng động. Khi ta tỉnh giác là ta đã có mặt trong từng giây phút của sự sống, nhờ vậy mỗi giây phút của sự sống là sự bình yên, hạnh phúc. Cái hạnh phúc này là một tặng phẩm quý giá cho những người biết cách thiền tập trong mọi hoàn cảnh.
Đây là một việc làm rất đỗi bình thường, khi chúng ta biết tỉnh giác trong từng phút giây, chúng ta sẽ nhận diện và an trú những gì đang có trong hiện tại. Ta biết như vậy là ta đang thiền tập trong đi đứng nằm ngồi, nhờ vậy ta sẽ kiểm soát mọi ý nghĩ, lời nói cho đến hành động dễ dàng. Tắm dưới vòi nước tươi mát, ta gội đầu, kỳ cọ, cảm nhận được dòng nước tươi mát trong sạch trong trạng thái an lạc, thoải mái, nhẹ nhàng mà vẫn không đánh mất chính mình.
Khi làm việc gì ta biết việc đó, đừng để mọi suy tư nghĩ tưởng kéo ta về quá khứ hay mơ ước đến tương lai, làm cho ta dính mắc vào những lo lắng, sợ hãi, buồn phiền, sầu khổ, giận hờn và si mê.
Ai có chiều sâu trong tu tập thì tỉnh giác trong từng phút giây bằng cách nhận diện từng vọng niệm mà không cần phải xua đuổi hay bám víu vào nó, ngay khi đó thì tâm Phật hiện tiền mà vẫn thường biết rõ ràng trong định tĩnh và sáng suốt, như vậy ta đang làm chủ bản thân.
Hành giả đã có chiều sâu thì nhìn vọng niệm giống như gió thoảng mây bay vì lúc nào cũng sống trong tỉnh giác, thường biết rõ ràng. Chúng ta thiền tập trong lúc ngồi, nằm, đứng, đi, làm việc trong vài ba ngày sẽ cảm nhận bình an, hạnh phúc. Đây là một sự thật nhiệm mầu mà ai cũng có thể làm được, chỉ cần ta kiên trì trong bền bỉ và lâu dài. Chúng ta hãy tập sống sâu sắc và thảnh thơi như vậy trong khi ăn uống, đi tiểu, đi đại và làm việc, thì chỗ nào chẳng phải là thiền.
Chúng ta muốn làm chủ bản thân thì tâm ý không được tiếc nuối quá khứ, không mơ mộng đến tương lai mà chỉ sống ngay trong giờ phút hiện tại, khi tham ta biết ta đang tham, thì ta sẽ hết tham.
Việc làm thức ăn và ăn sáng cũng là một loại thiền tập quan trọng không thể thiếu trong đời sống vì những việc này ta phải tự giải quyết. Khi chúng ta nấu nước sôi, pha trà, pha cà phê, nấu cháo, nấu hủ tiếu, chiên cơm nguội…, chúng ta làm việc gì biết việc đó. Tỉnh giác trong làm việc sẽ giúp cho ta biết cách chuyển hóa, soi sáng lại chính mình với những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Tỉnh giác là cốt tủy của thiền tập làm cho trái tim ta hiểu biết và thương yêu hơn. Nhờ tỉnh giác trong từng phút giây giúp ta sống hiểu biết hơn, yêu thương hơn và vui sống bình an, hạnh phúc với tất cả mọi người. Ai cũng có năng lực tỉnh giác, chỉ cần chúng ta kiên trì thực tập trong đều đặn, thì kết quả sẽ đạt được ngay tại đây và bây giờ.
Như vậy, mỗi ngày chúng ta có mặt là một ngày chúng ta có thiền, có tỉnh, có giác, có biết mà vẫn an nhiên, tự tại. Cuộc sống như thế có gì làm cho ta phiền muộn, khổ đau.
Tuy chúng ta đã biết rõ như vậy nhưng vẫn còn tập khí, tức là thói quen đã huân tập nhiều đời. Đây là những thói quen xấu được lặp đi, lặp lại nhiều lần nên nó sai sử ta chạy theo những vọng niệm nhớ nghĩ, tiếc nuối về quá khứ hay mơ tưởng đến tương lai mà đánh mất chính mình trong hiện tại.
Khi mới bắt đầu thiền tập và đang đi vào thiền tập, chúng ta sẽ bị những thói quen lo lắng, sợ hãi và dính mắc trong tham ái. Chính những thói quen đó đã làm cho ta không an trú vững chải được trong giờ phút hiện tại. Tuy nhiên, ta phải kiên trì và bền bỉ để đến một lúc nào đó làm chủ được những thói quen ấy, mà không bị cuốn trôi bởi những được mất, ta, người.
Chúng ta biết cách thiền tập trong đi đứng nằm ngồi, trong lúc ăn uống, làm việc hoặc nghỉ ngơi là ta đang làm chủ bản thân mình. Khi chúng ta không tiếc nuối về quá khứ, không bị tương lai làm xáo động là ta đang sống ngay tại đây và bây giờ.
Tóm lại, ta chỉ cần thiền tập trong mọi hoàn cảnh, trong đi đứng nằm ngồi, ta làm chủ trong ý nghĩ, lời nói và hành động. Đó là một thực tế nhiệm mầu mà ít ai ngờ đến. Nhiều người cứ nghĩ rằng tu là phải vô chùa, ở hang sâu rừng thẳm, không ngờ tu chỉ là đơn giản như vậy.
Tùy hỷ công đức là hoan hỷ với những ai đã làm những việc thiện lành tốt đẹp bằng cách chia sẻ hay nâng đỡ người khác. Như thấy người làm việc giúp đỡ kẻ khác vượt qua cơn hoạn nạn.
Đa số chúng ta, ai cũng mang sẵn thói quen ganh ghét tật đố, cống cao ngã mạn, tham danh hám lợi… Bởi có những tính xấu ấy, nên khi thấy ai làm điều gì tốt đẹp, chúng ta liền có phản ứng ngay bằng cách chỉ trích phê phán đúng sai về người đó.
Vậy thế nào là tùy hỷ công đức? Tùy hỷ là vui theo, công đức là những điều lành, điều tốt, những điều đem lại lợi ích, hạnh phúc cho người khác. Nghĩa là thấy ai làm việc gì tốt, có công đóng góp lớn cho xã hội thì ta đều hoan hỷ phát tâm vui mừng và còn tán thán người đó. Hoặc thấy họ làm điều phước thiện, chúng ta hoan hỷ vui vẻ với việc làm của người, mừng thế gian có thêm một người tốt và bớt đi một người xấu. Sự hoan hỷ vui vẻ giúp cho con người sống yêu thương gần gũi với nhau nhiều hơn, bằng trái tim hiểu biết.
Người phát tâm làm việc bố thí, chính họ đã khởi lòng từ bi thương xót giúp đỡ người khác. Thấy người bố thí, ta phát tâm tùy hỷ hoặc tìm cách trợ giúp theo, chính ta đã chuyển hóa được tâm ganh ghét tật đố ích kỷ của mình..
Phật ví dụ ngọn lửa của một cây đuốc dù đem trăm ngàn cây đuốc khác đến mồi, ngọn lửa ấy vẫn không bị hao mòn mà còn làm cho chung quanh đó sáng thêm. Tuy cùng làm một việc làm phước thiện, mà người phát tâm nhỏ hẹp thì công đức sẽ có giới hạn, người phát tâm rộng lớn thì công đức vô cùng tận. Trong kinh Phật dạy: “Người phát tâm rộng lớn để bố thí vật chất, của chỉ bằng hạt cải mà quả báo như núi Tu di. Ngược lại, người ôm lòng nhỏ hẹp bố thí, của bằng núi Tu di, công đức chỉ bằng hạt cải”.
Khi thấy người làm việc bố thí, chúng ta phát tâm tùy hỷ việc tốt của người khác, chắc chắn người đó sẽ cảm mến ta. Ta tùy hỷ việc làm tốt của người khác không tốn hao tài sản, hay hao mòn sức lực mà đem lại niềm an vui hạnh phúc cho mình và người.
Thấy người làm điều thiện, ta không phát tâm hoan hỷ, mà còn sanh tâm ganh ghét tật đố, khinh chê coi thường người ấy, làm họ thối Bồ đề tâm, ta và họ sẽ trở thành kẻ thù của nhau. Chính tâm ích kỷ tật đố, cống cao ngã mạn, đã làm cho mọi người càng trở nên xa lánh không thích gần gũi.
Khiêm tốn là một loại đức hạnh làm chỉ cho người khác thương mến chúng ta, vì nó trái ngược tính cống cao ngã mạn, chỉ đưa đến sự hiềm thù mà oán ghét lẫn nhau. Nếu chúng ta muốn mọi người thích gần gũi mến thương, thì ta phải biết khiêm tốn.
Người biết khiêm tốn luôn được mọi người yêu mến, quý trọng. Người khiêm tốn là người luôn có tấm lòng từ bi quảng đại, biết bao dung và độ lượng trong mọi vấn đề. Chúng ta hãy tâm niệm như sau:“Xin cho tôi được làm đất, để mọi người được dẫm lên”.
Người sống ở đời biết khiêm tốn mới học hỏi được nhiều điều hay, tu dưỡng phẩm chất đạo đức thanh cao, để làm gương sáng cho người học hỏi bắt chước tu tập theo.
Người biết khiêm tốn là đi ngược lại với tâm cống cao ngã mạn, nên được nhiều người mến thương, người trí hoan hỷ chỉ dạy và giúp đỡ trong làm việc và tu sửa đạo đức.
Nếu chúng ta tìm cầu danh vọng, phú quý giàu sang mà không thực hành hạnh khiêm tốn, thì khó mà thành tựu như mong muốn. Người hiểu biết nhiều và có địa vị cao thì càng phải khiêm tốn nhiều hơn nữa, đối với những người thấp kém hơn mình. Nhờ vậy, cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn, bởi ta biết thương yêu mọi người bằng trái tim hiểu biết.
Người Phật tử chân chính phải có lòng yêu thương người vật, biết khiêm tốn nhún nhường trước mọi người, và hằng xét lại lỗi mình để tìm cách sửa đổi cho tốt. Như vậy, người khiêm tốn luôn đem lại niềm an vui hạnh phúc cho nhân loại, bằng tình người trong cuộc sống với tấm lòng từ bi rộng lớn.
Hồi hướng phước báu mỗi khi làm việc thiện, có nghĩa là ta hoan hỷ muốn cho nhiều người khác cùng làm việc tốt với mình, nhờ vậy nhân loại sẽ bớt khổ đau nhiều hơn.
Chúng ta có thể hồi hướng phước báu cho những người đang sống, vì có nhiều người đang sống trong si mê lầm lạc. Chúng sinh ở thế gian đâu phải ai cũng có hiểu biết chân chính, nên mỗi khi ta làm việc thiện hay tu tập được an lạc, để hồi hướng công đức cho mọi người cũng được như ta.
Ngoài việc hồi hướng phước đức cho những người cùng sống với ta, chúng ta cũng cần phải hồi hướng cho những chúng sinh sống trong cảnh giới quỷ đói, đang thèm thuồng khao khát miếng ăn vật thực bằng sự tưởng tượng của con người.
Chỉ cần chúng ta có lòng thành, mỗi khi ăn uống hay làm điều gì có ích cho người, ta hãy hồi hướng cho kẻ dương người âm được hưởng phần phước báu, đó là ta đang mở rộng lòng từ bi đến với muôn loài. Chính vì vậy, mỗi khi chúng ta làm điều gì có ích lợi hoặc thiện lành như giúp đỡ người khác, ta điều hồi hướng để mọi người được chung hưởng.
Tóm lại, chúng ta muốn việc hồi hướng có lợi ích cho tất cả chúng sinh thì ta phải biết giữ giới, bố thí, thiền tập, tùy hỷ việc làm tốt, khiêm tốn, không cống cao ngã mạn và vận dụng lời Phật dạy để ngày càng được sống tốt hơn bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Nghe pháp: Khi đến chùa nghe pháp, chúng ta phải chú ý lắng nghe, nếu nghe xong mà không hiểu gì hết, thật là uổng công, vô ích biết chừng nào! Chúng ta tu học như thế biết đến bao giờ mới được trí tuệ rộng lớn.
Phật pháp tuy khó nghe, nhưng chúng ta đang nghe và đã nghe, chẳng lẽ nghe xong rồi trả lại cho thầy hay sao? Nếu đã như thế, chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, biết đây là nghiệp chướng sâu dày do nhiều đời không gieo trồng hạt giống trí tuệ, nên bây giờ mới bị lú lẫn, ngu ngô như thế. Biết được như vậy, chúng ta hãy nên thành tâm sám hối, cố gắng siêng năng, tinh tấn học hỏi chuyên cần.
Tại sao có người nghe một hiểu mười, nghe mười hiểu trăm, còn ta nghe xong chẳng hiểu gì hết. Bởi ta không gieo nhân thông minh trí tuệ, nên phải chậm lụt hơn người và kém hiểu biết. Biết được vậy rồi, chúng ta phải làm sao cố gắng học hỏi thêm nhiều hơn nữa để thông suốt lời Phật dạy, mà biết cách tu hành nhằm chuyển hóa phiền muộn khổ đau thành an vui, hạnh phúc.
Kinh Phật thường dạy: Văn, tư, tu khi nghe pháp rồi chúng ta phải suy nghĩ, xem xét tìm ra nguyên nhân tốt xấu, đúng sai để ta bắt đầu tu sửa phiền não tham sân si thành vô lượng trí tuệ và từ bi. Ta không gieo nhân trí tuệ thì làm sao có quả thông minh sáng suốt. Có người sở dĩ thông minh, sáng suốt là do họ đã học hỏi và huân tập nhiều đời, không có gì là do bỗng nhiên khi không mà có được.
Ngài Lục tổ Huệ Năng cũng dốt nát, quê mùa, làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chỉ nghe một câu kinh liền ngộ đạo và sau đó phát tâm xuất gia tu hành thành Tổ để lại nhục thân cho đến bây giờ vẫn còn nguyên vẹn. Trong suốt 8 tháng trời, ngài chỉ làm một việc giã gạo, nấu cơm; ấy thế mà Ngài được truyền y bát, làm vị Tổ thứ sáu lịch sử Thiền tông Trung Hoa. Sau này, Ngài đã báo trước ngày giờ ra đi trước 3 tháng và để lại nhục thân không bị hoại cho đến ngày hôm nay.
Khi đến chùa nghe pháp, chúng ta cố gắng học hiểu rõ ràng nghĩa lý lời Phật dạy, để rồi sau khi ra về nhớ đó mà ứng dụng, thực hành. Nghe học như thế thật sự mới có lợi ích thiết thực và xứng đáng là người Phật tử chân chính.
Nếu chúng ta đã đến chùa khi nghe thì hiểu, khi về thì quên, nên đụng chuyện phát sinh đủ thứ phiền não, làm cho mọi người mất niềm tin và không còn muốn tu học nữa. Tu học như thế vô tình phỉ báng Phật pháp; cho nên, chúng ta phải cố gắng tu học trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa u mê, tối tăm thành trong sáng, thanh tịnh, chuyển hóa khổ đau thành an vui, hạnh phúc. Nghe pháp và tu học như vậy mới xứng đáng là người Phật tử chân chính.
Hoằng pháp lợi sinh có nghĩa là giúp đỡ người khác biết được Phật pháp như mình, tin sâu nhân quả mà tránh xa điều xấu ác. Giáo pháp của đức Phật rất vô cùng hữu ích, và có thể tạo cho người khác vượt qua cạm bẫy cuộc đời bằng cách làm mới lại chính mình.
Thời Phật còn tại thế, việc chú trọng đến tính giác ngộ và sự bình đẳng giữa con người với nhau, nhằm xóa bỏ mọi giai cấp thống trị. Chính vì thế, sau khi chứng ngộ, Phật thấy được tính bình đẳng trong mỗi chúng sinh, vì mê chấp mà có sai biệt nghiệp lực.
Do phân định giai cấp ở Ấn Độ mà con người bị đóng khung, an phận trong giai cấp của mình, không có óc cầu tiến, để vượt thoát nỗi khổ niềm đau! Hoằng pháp vào thời Đức Phật đem lại giá trị bình đẳng giũa con người với nhau, không còn lệ thuộc bởi đấng quyền năng.
Phật dạy: Vì lợi ích cho chúng sinh, quý thầy hãy đi khắp nơi, không đi hai người một chỗ để hướng dẫn cho mọi người biết được đạo giác ngộ, giải thoát…Ngài bảo: Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, và nước mắt cùng mặn.
Ngày xưa việc hoằng pháp rộng rãi đến các tầng lớp mọi người, Phật kêu gọi tứ chúng phân bổ khắp nơi để tiện việc truyền bá đạo giác ngộ cho mọi người. Ngày hôm nay việc Phật giáo đi vào xã hội với phương châm “tốt đạo đẹp đời”, đã bắt đầu được hình thành nhưng còn rất ít. Nghĩa là chúng ta ngoài việc giúp đỡ vật chất cho người qua cơn túng thiếu, ta còn phải chỉ cho họ có đủ niềm tin về nhân quả mà tìm cách dứt ác làm thiện.
Chúng tôi đã làm việc này trong nhiều năm nay, đi vào các vùng sâu vùng xa, đi vào các Trung tâm bảo trợ, đi vào các trường học để giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn với tinh thần lá lành đùm lá rách, kêu gọi mọi người cùng, “kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống”.
Việc làm của Phật giáo là giúp cho con người cái cần câu chứ không chỉ cho con cá, nghĩa là chúng ta đem giáo lý bình đẳng nhân quả để họ thức tỉnh mà biết cách gieo trồng phước đức, nhằm vươn lên vượt qua hoàn cảnh nghèo khó, bất hạnh.
Phật giáo trong thời đại văn minh tiến bộ, cần phải hòa nhập vào cộng xã hội qua nhiều lĩnh vực cụ thể. Giáo dục hạnh phúc hôn nhân gia đình, kiến thức môi trường sống, giáo dục trẻ em, kinh tế tài chánh, quản trị, tổ chức đào tạo gia đình Phật tử…
Chúng ta phân biệt rõ hai lãnh vực, một bộ phận chuyên tu, không bận tâm đến vật chất để tĩnh tâm mà an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Mặt khác, bộ phần hoằng pháp cần phải giao tiếp với xã hội, để tạo những phương tiện truyền thông “dung hợp đạo đời”.
Xã hội ngày nay là xã hội cạnh tranh, đạo Phật không thể an bần lạc đạo như quan niệm khi xưa. Đức Phật không cấm chúng ta làm giàu, chỉ cấm làm giàu bất chính thiếu đạo đức mà thôi. Nếu chúng ta an phận và nghèo vật chất, thì lấy gì giúp đỡ người bất hạnh? Phật tử ngày hôm nay có quyền làm giàu, để có điều kiện đóng góp giúp đỡ xã hội về mọi mặt mà vẫn giữ được đạo tâm trong sáng.
Phật giáo ngày nay nếu biết kết hợp hoằng pháp với các sinh hoạt từ thiện, sẽ đem lại kết quả tốt đẹp cho nhiều người hơn. Dĩ nhiên cái nghèo cái đói là bệnh trầm kha, cứu trợ, giúp đỡ chỉ là giai đoạn nhất thời, công việc như thế chỉ là muối bỏ biển.
Chính vì thế, Phật giáo giúp đỡ vật chất để có cơ hội khuyên nhủ mọi người tin sâu nhân quả, thể hiện lòng biết ơn mà cố gắng tránh ác làm lành, được sự quan tâm của chính quyền các cấp tạo công ăn việc làm và vốn liếng để người bất hạnh, vươn lên làm mới lại chính mình bằng tình người trong cuộc sống.
Như vậy, Hoằng pháp lợi sinh cũng là việc cần xét đến, nhất là tại đất nước Việt Nam chúng ta còn nghèo khó, Phật giáo lợi sinh cả vật chất lẫn tinh thần là một việc làm mang ý nghĩa” tốt đời đẹp đạo”.
Người Phật tử chân chính, khi tu học có an lạc hạnh phúc, trước tiên khuyên nhủ gia đình người thân có niềm tin sâu sắc về nhân quả, nhờ vậy họ sẽ tránh xa điều ác mà hay làm điều lành. Rộng ra hơn nữa, chúng ta sẽ hướng dẫn bạn bè, bạn đồng nghiệp cùng bà con xóm giềng biết quy hướng về Phật pháp để cùng nhau sống tốt hơn.
Một người biết tu thì gia đình an vui hạnh phúc, cả xóm biết tu thì mọi người sẽ thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, nhiều người cùng tu thì đất nước sẽ giảm bớt tệ nạn xã hội và cùng vui sống với nhau bằng tình thương yêu chân thật.
Tóm lại, tám pháp mà đức Phật đã dạy cho chúng ta vừa có cơ hội hoàn thiện chính mình về nhân cách đạo đức mà còn có điều kiện dấn thân phục vụ tha nhân, nhằm làm giảm bớt nỗi khổ niềm đau, để mọi người sống với nhau bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.
PHẬT DẠY NGHE LÀ MỘT PHÁP TU THÙ THẮNG
Người Phật tử tại gia khi đã quy hướng Tam bảo, phát nguyện sống đời thánh thiện dù mất sinh mạng, nhưng không mất mục đích lý tưởng, giác ngộ giải thoát và cứu độ chúng sinh.
Chúng ta muốn duy trì hạnh nguyện lắng nghe của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tâm chúng ta luôn chạy theo vọng niệm lăng xăng, thân chúng ta luôn hành động không có ích lợi cho người khác, thì làm sao chúng ta có thể ngồi yên, để lắng nghe tiếng nói của người khác.
Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy sáu căn là nhân của luân hồi sinh tử và sáu căn cũng là nhân của giải thoát. Sau khi Phật bảo 25 vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình xong rồi, Phật dạy Bồ-tát Văn Thù chọn lựa căn viên thông để tu. Cuối cùng Bồ-tát chọn lựa “nhĩ căn” là viên thông hơn hết các pháp tu khác. Đây là lối tu: “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm.
Chữ phản ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ xưa đến giờ chúng ta chạy theo âm thanh, có tiếng là có nghe, không tiếng là không nghe, quên mất tánh nghe thường hằng của mình. Bây giờ biết tu rồi, chỉ nhớ mình có tánh biết sáng suốt, nghe tất cả mà không dính mắc vào âm thanh riêng biệt nào.
Chính vì vậy, Bồ-tát Văn Thù khuyên đại chúng và Ngài A nan: “xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe tánh nghe của mình, thành tựu tánh nghe là đạo vô thượng. Đây là con đường vào cửa Niết bàn của tất cả chư Phật nhiều như số vi trần.
Nên kinh nói, trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, công đức thù thắng hơn tất cả. Vậy, chúng ta trì niệm bằng cách nào? Nghĩa là phản quán lại tánh nghe chân thật của mình, nên không bị âm thanh bên ngoài chi phối, do đó hằng sống với tánh nghe. Trì niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm là phương pháp tu tập quán chiếu cuộc đời, để chúng ta thấy rõ được bản chất thực hư của nó, nên mỗi hành giả tự độ mình, vượt qua các khổ đau đang có mặt.
Hạnh lắng nghe là luôn lắng nghe người khác tán thán khen ngợi mình và lắng nghe người khác chỉ trích phê phán mình, mà ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh, trong tâm không xao động, đó mới là người đã siêu việt hạnh lắng nghe.
Nơi nào có bất hạnh khổ đau, thì nơi đó có Bồ-tát Quán Thế Âm xuất hiện. Bồ-tát Quán Thế Âm đã hoá thân thành nhiều thành phần trong xã hội, tùy theo nhân duyên mà Bồ-tát cứu độ chúng sinh.
Bồ-tát độ sinh dưới nhiều hình thức từ một ông vua hay tể tướng cho đến kẻ bần cùng, chúng sinh cần nhu cầu nào thì Bồ-tát ứng hiện theo nhân duyên đó, để cho phù hợp với tâm tư nguyện vọng của mọi người. Hay nói rõ hơn, Bồ-tát đi vào đời là tùy bệnh cho thuốc, do đó người thực hành hạnh lắng nghe muốn độ sinh có hiệu quả, phải biết căn cơ và sở thích của từng chúng sinh.
Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thật là sướng lỗ tai, khi ta nghe lời nói ngon ngọt, nhưng nghe lời nói nặng nề thì ta cảm thấy khó chịu vô cùng. Đối với chúng sinh bình thường, sự lắng nghe đã khó, còn đối với những người có quyền cao chức trọng, giàu có, thế lực, nổi tiếng v.v… thì sự lắng nghe còn khó khăn hơn, bởi vì cái ta, cái của ta, nó đã đang bành trướng.
Bồ-tát có nghĩa là người giác ngộ, nhưng giác ngộ từng phần chưa được viên mãn như Phật. Nhưng vì thấy chúng sinh ở cõi Ta Bà này vui ít, khổ nhiều bị phiền não khổ đau chi phối, nên động lòng thương xót đi vào đời lấy tứ nhiếp pháp để ban vui cứu khổ theo đúng tâm tư nguyện vọng của chúng sinh. Người Phật tử muốn thực hiện hạnh lắng nghe được thuần thục, trước tiên phải biết bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Bồ-tát thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, keo kiệt, ích kỷ, nhỏ mọn, chất chứa riêng tư là nhân của đau khổ, nên rộng rải phát tâm bố thí, giúp đỡ sẻ chia, để diệt trừ tâm địa hẹp hòi san tham.
Bồ-tát sẵn sàng đem tài sản của cải hoặc sức lực của mình bố thí giúp đỡ mỗi khi cần thiết. Nhờ sự giúp đỡ tận tình nên Bồ tát dễ dàng gần gũi và được nhiều người mến thương, do đó dễ nhiếp phục họ bằng bố thí chia sẻ.
Thứ hai là Bồ-tát phải dùng lời ngon ngọt, hòa nhã dịu dàng, nhỏ nhẹ dễ thương, không nên nói lời cộc cằn thô lỗ, nếu giúp người mà như thế dễ làm họ chán ghét, phiền muộn khổ đau. Khéo dùng lời nói từ ái hiền hòa, nhưng chân thật nên dễ thành công trong hạnh lắng nghe.
Thứ ba là Bồ-tát phải tích cực làm việc gì đó để lợi ích chúng sinh, chứ không phải nói suông vô ích. Nhờ vậy họ mới tin tưởng mình, sau đó chúng ta dùng chánh pháp để giúp họ hướng thiện, tin sâu nhân quả, dứt ác làm lành.
Thứ tư là đồng sự, Bồ-tát phải siêng năng giỏi biết nhiều ngành nghề để cùng làm cùng sống với họ. Nhờ sống gần gũi thường xuyên chúng ta mới có cơ hội dùng chánh pháp để thuyết phục họ, tin sâu nhân quả, tự tin chính mình và giúp họ đi theo con đường hướng thượng là luôn chia vui sớt khổ trong thương yêu bình đẳng.
Bồ-tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm si mê và sống với tính biết sáng suốt nương nơi mắt thì thấy nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế. Từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh, mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.
Người đời có hai cái lo sợ, một là sợ những tâm niệm bên trong và hai là sợ những chướng ngại vật bên ngoài. Chúng ta chỉ thực hành hạnh lắng nghe thôi, là có thể hoàn thiện được chính mình qua thân, miệng, ý thanh tịnh.
Lắng nghe người khác nói hoặc nghe họ tâm sự những nỗi buồn do mất mát đau thương, chúng ta có thể lắng nghe tất cả những tiếng kêu cứu khổ của muôn loài vật, một cách trân trọng như vậy ta có thể thành tựu một phần nào của hạnh lắng nghe.
Nhờ thực tập hạnh lắng nghe, chúng ta có thể cảm thông và tha thứ cho nhau, qua nhịp cầu nối kết yêu thương, để làm nơi nương tựa cho gia đình người thân, như Bồ-tát Quán Thế Âm có mặt khắp mọi nơi để cứu khổ chúng sinh.
Trong thời đại phát triển của văn minh, khoa học vật chất, việc bùng nổ thông tin để loan truyền những tin tức không chính xác, nhằm gây hoang mang cho nhiều người, như tin đồn tận thế. Chính vì thế, việc thực tập hạnh lắng nghe nhằm đem lại nguồn an vui hạnh phúc cho mình là điều cần thiết. Lắng nghe là một phép lạ nhiệm mầu, giúp cho chúng ta vững niềm tin hơn, trước phong ba bão táp của cuộc đời.
Hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm sở dĩ được tôn xưng với danh hiệu không thể nghĩ bàn, là nhờ Ngài luôn ban bố niềm vui đến cho mọi người và sẵn sàng giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua sợ hãi khổ đau, đang chịu nhiều bất hạnh trong đời. Như thiên tai, hỏa hoạn, lũ lụt, sóng thần, động đất, bị yêu tinh tà ma hảm hại, bị giam cầm tù tội, cho đến bị nạn trộm cướp, bị vua quan chiếm đoạt và nghèo đói thiếu thốn khó khăn.
Chúng ta tu học theo hạnh lắng nghe của Bồ-tát Quán Thế Âm, như là điểm tựa tinh thần vững chắc để mọi người bắt chước và noi theo, từ một con người phàm phu tục tử, có thể trở thành một Thánh nhân cao quý nhờ biết cách trì niệm hồng danh Ngài.
Mới đây nhất một pho tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, cao gần 70 mét, được xem là tượng Bồ-tát cao nhất Việt Nam đã được khánh thành tại Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt, thành phố Đà Nẵng. Hình ảnh đẹp của Bồ-tát Quán Thế Âm có thể tìm thấy ngay trong cuộc sống này, được ví như mẹ hiền thương con vô bờ bến, nên Bồ-tát thị hiện là người nữ để dễ gần gũi và giáo hóa chúng sinh.
Chúng ta hãy để cho người khác trút hết nỗi niềm tâm sự và chính ta là người biết lắng nghe. Ta chỉ cần lắng nghe, một cách trân trọng và có hiểu biết, thì nỗi khổ niềm đau của người đó, sẽ được giảm thiểu một phần nào.
Quán Thế Âm có nghĩa là quán sát xem xét lắng nghe tiếng khổ của tha nhân để tùy duyên cứu độ. Ngài luôn quán chiếu cuộc đời bằng hạnh lắng nghe âm thanh theo nguyên lý, duyên khởi, vô ngã, vị tha, nhờ vậy biết cách giúp chúng ta vượt qua lo lắng sợ hãi, thoát khỏi sự ràng buộc của khổ đau.
Bồ-tát sẵn sàng chia sẻ nỗi khổ niềm đau, để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh cho tất cả chúng sinh. Nhờ Bồ tát thấu rõ chân lý cuộc đời nên không thấy mình là kẻ ban ơn, người nhận thí và kẻ thọ ơn, nên bình đẳng kết nối yêu thương, mở rộng tấm lòng không phân biệt người thân hay kẻ thù.
Trong những đêm khuya thanh vắng, chúng ta hãy im lặng để lắng nghe đủ thứ mọi âm thanh được phát ra từ muôn loài vật.
Tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng dế nỉ non, tiếng cóc, nhái, ễnh ương vang lên như một bài xướng ca để quyến rũ đồng loại của chúng. Tiếng mẹ ru con, tiếng thở than của những người nghèo khó, trong khi đó tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng hiền từ của ni cô đang quỳ tụng Kinh Bồ-tát Quán Thế Âm.
Trong không gian bao la của đêm tối không trăng lờ mờ, ít ra là trong những giây phút này. Lắng nghe là một sự cảm thông kỳ diệu nhất, giúp cho chúng ta biết cách làm chủ bản thân mà không đánh mất chính mình.
Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, rồi hỏi ngài A Nan có nghe không? Ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu. Phật hỏi lại ông có nghe không? Ngài A Nan trả lời là không nghe, bị Phật quở tại sao ông quên mình theo vật. Phật nói tiếp, khi có tiếng là nghe có tiếng, khi không tiếng là nghe không tiếng.
Tánh nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, không tiếng vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Qua câu chuyện Phật dạy trong Lăng Nghiêm cho Ngài A Nan tu theo cách hành thẳng nơi tâm không thông qua phương tiện từ thấp đến cao.
Người tu theo hạnh lắng nghe, phải phát nguyện lớn, trên cầu thành Phật dưới cứu độ chúng sinh. Nguyện ở đây có nghĩa là chí nguyện độ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài.
Bồ-tát sau khi thành tựu đạo quả, nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ bình đẳng, với tất cả chúng sinh.
Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ-tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi gắn bó với nhau, bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, nhưng không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.
Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát và cứu độ tất cả chúng sinh.
PHẬT DẠY BỐN VIỆC CHÂN CHÍNH CHO NGƯỜI TẠI GIA
Đạo Phật ra đời là tuỳ bệnh cho thuốc hay nói đúng hơn là tuỳ theo căn cơ của chúng sinh mà đức Phật nói pháp, các tổ về sau muốn sắp xếp lại thứ tự cho người đọc dễ hiểu để áp dụng tu hành, đại khái giáo lý Phật đà chia ra làm hai loại như sau:
Giáo lý cho người xuất gia và người cư sĩ tại gia, nhưng chính yếu vẫn nhắm vào mục đích lợi ích cho số đông người tại gia. Chúng ta khảo sát từ kinh tạng và qua cuộc đời của những vị cư sĩ tiêu biểu thời Phật cho thấy, mẫu hình lý tưởng của người cư sĩ tại gia tức số đông quần chúng được đức Phật chỉ dạy khá đầy đủ, các chi tiết từ thấp đến cao. Theo lời Phật dạy trong các bản kinh, một người Phật tử chân chính trước tiên phải hoàn thiện bốn phẩm chất cơ bản:
Một là có đời sống kinh tế ổn định không phải bươn chải vất vả lo cơm áo gạo tiền, hai là quy hướng Tam bảo sống đời đạo đức, nguyện không làm các việc xấu ác mà hay làm các việc thiện lành tốt đẹp, ba là biết cách thăng bằng và điều hòa trong cuộc sống, bốn là hộ trì Tam bảo và làm lợi ích chúng sinh.
Người Phật tử có đời sống kinh tế ổn định
Đức Phật dạy: Vì hạnh phúc nhiều người, chúng ta hãy gầy dựng tài sản đúng pháp bằng đôi bàn tay và khối óc của mình. Này những người chủ trong gia đình, có năm lý do chính đáng để gầy dựng tài sản. Thế nào là năm?
Ở đây, này gia chủ, được tài sản nhờ nỗ lực tinh tấn, thâu góp với sức mạnh của bàn tay, kiếm được do đổ mồ hôi, thâu được một cách hợp pháp. Tự mình làm an lạc, hoan hỷ. Làm cho cha mẹ, vợ con, người phục vụ, người làm công được an vui hạnh phúc. Đây là lý do thứ nhất để gầy dựng tài sản.
Lại nữa, này gia chủ, vị này làm cho bạn bè, thân hữu được an vui hạnh phúc. Đây là lý do thứ hai để gầy dựng tài sản.
Vị ấy biết cách chặn đứng các tai họa có thể khiến vị ấy trở thành trắng tay, vị ấy giữ được tài sản an toàn. Đây là lý do thứ ba để gầy dựng tài sản.
Vị ấy có thể hiến tặng cho bà con, thiết đãi bạn bè, tổ chức tiệc tùng chiêu đãi khách, cúng hương linh người quá cố, hiến cúng cho vua và cúng dường chư Thiên. Đây là lý do thứ tư để gầy dựng tài sản.
Vị ấy cúng dường các bậc Sa môn, Bà la môn, sự cúng dường tối thượng này đưa đến phước báo vô lượng ở cõi người, cõi trời. Đây là lý do thứ năm để gầy dựng tài sản.
Việc tạo ra của cải tài sản vật chất đã khó, quan trọng hơn nữa là việc gìn giữ và phát triển bền vững và lâu dài lại càng khó hơn. Đức Phật đã chỉ ra một số nguyên nhân để gây ra sự thất thoát, tiêu tán tài sản như sau:
Này gia chủ, có sáu nguyên nhân phung phí tài sản: Đam mê rượu chè là nguyên nhân phung phí tài sản. Thường xuyên đi chơi đêm hoặc ra ngoài trong giờ làm việc là nguyên nhân phung phí tài sản. La cà hí viện đình đám tức là những nơi vui chơi, đàn ca múa hát hoặc trà đình tửu điếm, lầu xanh. Ngày nay người ta gọi là quán bar, vũ trường và những nơi mua hương bán phấn, hưởng thụ trụy lạc…là nguyên nhân phung phí tài sản. Đam mê cờ bạc là nguyên nhân phung phí tài sản. Giao du với bạn ác là nguyên nhân phung phí tài sản. Quen thói ăn không ngồi rồi, lười biếng là nguyên nhân phung phí tài sản.
Tất cả mọi người muốn phát triển và tồn tại là nhờ vào sự siêng năng làm việc và ăn uống để duy trì cơ thể. Muốn tồn tại con người cần phải lao động để làm ra của cải vật chất. Người cư sĩ phải có việc làm chân chính bằng sức lực và mồ hôi nước mắt của chính mình, nhằm làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.
Khi có một đời sống ổn định kinh tế vững vàng về lâu dài thì sẽ giúp cho chúng ta khỏi phải lo lắng về sự an sinh đời sống thiếu hụt, nhờ vậy ta có thời gian để làm phước và tu tập chuyển hoá. Người bất hạnh thiếu thốn khó khăn nghèo khổ thì khó bề dấn thân đóng góp, sẻ chia bản thân mình không đủ ăn, lấy gì giúp đỡ người khác.
Theo lời Phật dạy nghèo khổ và thiếu thốn khó khăn quá mức còn là những nguy cơ sinh ra nhiều tội ác. Do đó nghèo khổ làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước, nghèo thì nợ nần chồng chất, bị chủ nợ hối thúc, bị truy đuổi, bị đe dọa tính mạng, bị hăm doạ cho nên cuộc sống đa phần phải chịu nhiều phiền muộn khổ đau.
Để đảm bảo cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc, những thành viên trong gia đình cần phải tích cực siêng năng trong việc làm ra của cải vật chất, biết chi tiêu phù hợp những nhu cầu cần thiết, và không để tài sản hao hụt thất thoát.
Khi gia đình được xây dựng và phát triển ổn định về mọi mặt, thì xã hội mới hưng thịnh và bền vững lâu dài. Chính vì vậy, mỗi thành viên trong gia đình cần phải có trách nhiệm tương trợ lẫn nhau để đảm bảo an sinh đời sống, về vật chất lẫn tinh thần.
Để duy trì nề nếp sinh hoạt, tình cảm, văn hóa, đạo đức, kinh tế, tài chính, truyền thống gia đình, sự nghiệp của từng cá nhân và sự nghiệp chung của gia tộc, mỗi thành viên phải có trách nhiệm, bổn phận để làm thành cho nhau bằng sự siêng năng tinh cần.
Trước tiên để xây dựng cuộc sống gia đình ấm no, hạnh phúc, những thành viên trong gia đình cần siêng năng tháo vát trong việc tạo ra của cải vật chất, biết sử dụng tài sản một cách hợp lý và biết giữ gìn tài sản, không để cho tài sản thất thoát, tiêu tán bất hợp pháp.
Trong kinh Phật dạy có năm nghề nghiệp không nên làm, một là nghề đồ tể tức là nghề giết mổ các loài súc sinh. Hai là buôn bán vũ khí bao gồm các phương tiện giết người, gây khổ đau cho nhiều người khác. Ba là buôn bán con người bao gồm buôn bán nô lệ, nô tỳ lao động, phục dịch, mua bán trẻ em, mua bán phụ nữ làm nô lệ tình dục. Bốn là mua bán chất gây say, gây nghiện như rượu, xì ke ma túy. Và cuối cùng là mua bán các hóa chất độc hại hay thuốc độc để làm tổn hại con người. Đức Phật luôn khuyến khích mọi người sinh sống và nổ lực bằng đôi bàn tay và khối óc của mình.
Đây là những nghề nghiệp có thể làm tỗn hại nặng nề về người và vật, Phật vì lòng từ bi thương xót chúng ta nên mới chỉ bày như thế. Người khôn ngoan sáng suốt phải biết lựa chọn nghề nghiệp, việc làm có tính cách giúp ích cho xã hội mà không làm tổn thương người khác.
Những nghề cao quý là thầy giáo, bác sĩ, kỹ sư, trồng trọt, vận chuyển hàng hóa và giúp con người mua bán trao đổi các phương tiện vật chất…đến tay người tiêu dùng.
Người cư sĩ tại gia được quyền thừa hưởng hạnh phúc về sở hữu vật chất của riêng mình, và có thể bố thí cúng dường giúp đỡ sẻ chia, dấn thân đóng góp, phục vụ vì lợi ích cộng đồng xã hội, cũng như phát tâm hộ trì Tam bảo.
Người Phật tử phải giữ gìn giới hạnh
Người cư sĩ tại gia sau khi phát tâm quy y Tam bảo nương tựa Phật pháp Tăng, phát nguyện dứt ác làm lành và gìn giữ năm điều đạo đức, như thế gọi là người Phật tử có giới hạnh trang nghiêm.
Người Phật tử chân chính được gọi là trang nghiêm về giới hạnh thì cần phải hoàn thiện những phẩm chất sau đây: không sát sanh hại vật để làm mình người đau khổ, không gian tham trộm cướp hay lừa đảo lường gạt của người khác, sống chung thuỷ một vợ một chồng để bảo đảm hạnh phúc gia đình mình và người, không nói dối hại người, không uống rượu mạnh hoặc uống quá say và sử dụng các loại xì ke ma tuý hoặc các chất độc hại khác.
Đây là năm nguyên tắc sống để làm một người tốt, là phẩm hạnh cao quý cần có của một người cư sĩ tại gia, để được làm người có nhân cách đạo đức trong hiện tại và mai sau.
Việc giữ giới cũng là một nghệ thuật sống, là hạnh nguyện của bậc Bồ tát đi vào cuộc đời, để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán.
Giới là chiếc bè quý báu đưa tất cả mọi người đến được bờ giác ngộ giải thoát. Giới như ngọn đèn sáng đưa mọi người ra khỏi chỗ tối tăm mờ mịt. Giới như áo giáp kiên cố giúp ta tránh được những lằn tên mũi đạn ba độc tham sân si, bởi tiền tài, sắc đẹp, danh tiếng, ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều. Giới luật chính là những phương tiện thiện xão, bảo vệ mỗi hành giả trên bước đường tu tập giác ngộ, giải thoát.
Trước khi thọ trì giới pháp mọi người phải thành tâm sám hối để cho ba nghiệp được thanh tịnh rồi mới bắt đầu nhận lãnh giới pháp. Khi nhận lãnh giới pháp, chúng ta phải phát nguyện trọn đời gìn giữ giới luật như chúng ta giữ mạng sống của chính mình. Bởi Phật dạy: “Giới luật còn là Phật pháp còn”.
Giới chính là phương tiện giúp mọi hành giả được mau chóng đến bờ giác ngộ, giải thoát. Rất nhiều người cũng đã thọ tam quy và trân trọng giữ giới như giữ tròng mắt của chính mình, họ xem giới luật rất thiêng liêng cao quý, vì giới giúp ta không bị sa đọa vào chỗ xấu ác.
Giới luật như hàng rào che chắn không để những ác ma bên ngoài xâm nhập vào làm tỗn hại thân tâm mình. Nhưng nếu chúng ta cứ một bề cố chấp, dính mắc vào giới cứng nhắc thì sẽ tự làm khổ mình, mà sinh bệnh khinh lờn người khác.
Giới luật tuy rất đa dạng, nhưng chính là nền tảng cơ bản để người Phật tử tại gia giữ gìn nhằm không bị sa đọa vào việc xấu ác. Việc giữ giới cũng là một nghệ thuật sống, là hạnh nguyện của bậc Bồ-tát đi vào cuộc đời làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Đức Phật dạy: Giới là chiếc bè quý báu đưa lữ hành qua biển khổ sông mê, giới là ngọn đèn sáng đưa người ra khỏi chỗ tăm tối, giới là áo giáp kiên cố che chắn giúp chúng ta, không bị sa đọa vào chỗ xấu ác. Giới luật chính là phương tiện để bảo vệ người Phật tử, thăng tiến trên bước đường tu tập giác ngộ, giải thoát được an toàn.
Cho nên việc thọ trì giới luật đúng nghĩa, người Phật tử tại gia phải biết ứng dụng một cách linh hoạt nhằm giữ thân tâm mình được sáng suốt trong sạch. Khi người tại gia biết cách giữ giới trọn vẹn, rồi thời gian sẽ quen dần với nếp sống oai nghi, thân, miệng, ý đều thanh tịnh.
Người tại gia khi mới thọ giới phải nương giới mà tu tập, khi đã an nhiên tự tại với mọi oai nghi trong đi đứng nằm ngồi đã thuần thục rồi, tâm lúc đó đã an tịnh thì coi như giới pháp đã thành tựu.
Các bậc Bồ-tát phát nguyện giữ giới để đi vào đời, đem lợi ích và an lạc đến cho chúng sinh. Người hành trì giới luật cũng chính là phát triển tâm hạnh từ bi của mình ngày càng rộng lớn. Từ ở đây chính là ban vui, đem niềm vui đến cho muôn loài và sẵn sàng cứu khổ chúng sinh trong mọi trường hợp thì gọi là bi.
Bồ-tát khi vào đời cứu độ chúng sinh, nhìn thấy người an vui hạnh phúc, ngay khi đó giới luật chính là nghệ thuật sống, để giúp cho mọi người vượt qua biển khô sông mê. Trước hết chúng ta cần xác định mình giữ giới là vì lợi ích của bản thân, và rộng hơn nữa giúp cho người khác cùng sống tốt như mình.
Nếu một tập thể cùng sống chung mà không tuân thủ giới luật thì tập thể ấy sẽ không còn hòa hợp và nhanh chóng tan rã. Thứ nữa ta giữ giới là vì những người thân, đồng đạo, bà con Phật tử gần xa… hay nói rộng hơn là một cộng đồng xã hội.
Không những thế, ngoài việc thọ trì gìn giữ giới trọn vẹn trong thực tế đời sống, người cư sĩ tại gia cần phải phát huy thêm những đức tính khác như: khiêm tốn, biết hổ thẹn, sống trung thực, kiên định, không phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn, buông xả, dấn thân và đạo đức.
Người cư sĩ tại gia ngoài việc lo tròn trách nhiệm bổn phận cho gia đình, phục vụ tốt xã hội và còn có nhiệm vụ quan trọng, là hộ trì Tam bảo để được trường tồn lâu dài ở thế gian này.
Nói tóm lại, ý thức được sự khổ đau do nhân sát sinh hại vật, gian tham trộm cướp lường gạt của người khác bằng nhiều hình thức, sống tà dâm, nói dối hại người và tác hại của các chất gây say, nghiện như rượu, xì ke ma túy, hóa chất độc hại….Chúng con, những người Phật tử chân chính xin nguyện tránh xa những điều xấu ác, giữ gìn giới pháp trang nghiêm để ngày càng sống tốt hơn, bằng trái tim thương yêu và hiểu biết.
Người Phật tử biết cách điều hòa thân tâm
Thuở ấy Phật đang giáo hóa tại nước Xá-Vệ. Vua Ba Tư Nặc sau một thời gian đắm mình trong thú vui ngũ dục, do ăn uống quá nhiều nên chẳng mấy chốc thân thể ông béo phì! Cho nên trở ngại trong việc đi đứng chậm chạp và mệt nhọc. Một hôm vua đến Tịnh xá, khi đảnh lễ Phật phải có lính hầu phía sau, giữ cho ông mới đứng vững được.
Kính Bạch Thế Tôn! Đã lâu lắm rồi con chẳng đến thăm Ngài bởi vì thân thể con quá béo phì, nên việc đi lại cũng khó khăn. Con thiệt hết sức khổ tâm vì cơ thể quá khổ này, chẳng biết Thế Tôn có phương cách nào giúp cho con trở lại hình dáng bình thường, như xưa không ạ?
Phật bảo ông ta: Ham ăn uống quá độ, mê ngủ nghỉ quá nhiều, ít vận động tay chân, làm biếng và không làm chủ bản thân.
Nếu đại vương muốn hết bệnh béo phì, thì chỉ có một biện pháp duy nhất là phải ăn ít lại. Ví dụ một bữa vua ăn sáu chén, thì hôm sau ráng bớt đi một chút, cứ như thế mà bớt từ từ cho đến khi nào trọng lượng cơ thể trở lại bình thường.
Ngoài ra vua không được ăn đồ có nhiều chất béo, mà phải ăn nhiều rau quả, ăn vừa đủ, ăn đúng thời và không nên ăn vặt nữa… như vậy mới mong ốm lại được. Ngoài ra bệ hạ phải siêng năng vận động, chịu khó đi bộ hay tập thể dục thường xuyên, có vậy mới giúp cho thân thể được khỏe mạnh và sống lâu…
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật dạy xong, quay qua bảo người tùy tùng: Các ngươi phải nhớ kỹ lời Phật bảo, trước khi ta dùng bữa thì các ngươi sẽ nhớ đọc lên để nhắc nhở trẫm, nhé! Ai giúp ta làm chủ trong lúc ăn uống, ta sẽ ban thưởng cho.
Thế là mỗi ngày, trước khi vua Ba Tư Nặc dùng bữa, các lính hầu liền đọc to những lời Phật dạy khiến vua Ba Tư Nặc dù có thèm ăn, muốn ăn thêm nữa, cũng cảm thấy xấu hổ với mọi người, nên đã ăn ít lại.
Sáng sớm ông còn cùng lính hầu chạy bộ, tập thể dục, ông còn sai hoạ sĩ vẽ hình các vóc dáng mập khủng khiếp treo khắp nơi, để răn mình và còn căn dặn đầu bếp không được dâng lên các thức ăn nhiều chất béo, nhiều dầu mỡ. Ông có bốn lính hầu thường theo sát bên cạnh để nhắc ông bớt ngủ, bớt ăn, giựt dây, hỗ trợ giúp những khi ông mất tự chủ.
Nhờ vậy, nhà vua cố gắng tiết chế trong ăn uống, thực hành đúng theo lời Phật khuyên, vóc dáng ông lần hồi thon gọn trở lại bình thường. Ông trở nên mạnh khoẻ, đi đứng nhanh lẹ. Thế là một ngày đẹp trời, ông đến thăm Phật, vừa để tạ ơn, vừa để khoe thân thể tráng kiện của mình.
Phật hỏi: Vì sao hôm nay ông lại đi bộ đến đây? Vua Ba Tư Nặc hớn hở thưa: Bạch Thế Tôn! Từ khi rời Tịnh xá về cung, con đã thực hành theo đúng như lời Ngài dạy, nhờ vậy mà con hết bệnh béo phì. Chính vì thế con đi bộ đến đây để vừa tập thể dục và bái kiến tạ ơn Ngài luôn! Như vậy vẫn là tốt hơn, vì vừa đi vừa rèn luyện sức khỏe?
Phật mỉm cười, nói: Đúng vậy! Đại vương! Và Phật dạy tiếp:
Người đời không biết mạng sống vô thường
Nên si mê hưởng thụ, phóng túng sa đọa
Không lo gieo trồng phức đức
Sau khi chết thần thức lìa khỏi
Bỏ thân xác hư hoại nằm một đống
Người trí thì lo bồi dưỡng tâm linh
Người ngu chỉ biết vỗ béo cho thân
Người biết sống, phải khéo điều hòa thân tâm.
Vua Ba Tư Nặc nghe xong, rất hân hoan, tâm ý sáng tỏ, phát tâm Bồ-đề tu học đúng theo chánh pháp của Như Lai và phát nguyện làm người Phật tử chân chính, kêu gọi mọi người cùng vui vẻ thực hành theo.
Qua bài kinh trên Phật dạy về cách ăn uống hoạt động sau cho hài hòa. Ở đời thường có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài.
Trong cuộc sống chúng ta thường chỉ lo ăn với uống cho đó là vấn đề chính yếu. Tối ngày chúng ta làm lụng vất vả chỉ để ăn với uống sao cho ngon miệng nên ta phải giết hại các sinh vật rồi tham đắm, dính mắc vào đó mà chịu quả báo xấu khi đủ nhân duyên.
Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy mọi người không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể.
Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt nhiều cá nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc, vì một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn. Giảm bớt chất béo trong máu sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan.
Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể.
Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra, chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu nướng hay ăn với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương và ngược lại.
Ta không biết trân quý sức khỏe sẽ làm tổn thương thân này. Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn do ít hoạt động chân tay. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và siêng năng lạy Phật-Bồ-tát mỗi ngày.
Người Phật tử chân chính, phải biết chọn lựa những thức ăn và thức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Cho nên, người tu theo đạo Phật dù tại gia hay xuất gia cũng phải ý thức chỗ này mỗi khi thọ thực. Hoặc chúng ta chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh ít ra cũng đều có những bữa cơm đạm bạc như mình vậy, vì sự ăn của mình không làm tổn hại đến các loài vật.
Bệnh có hai dạng là thân bệnh và tâm bệnh, nhưng phần nhiều thân bệnh là do tâm điều hành, sai sử. Thân chúng ta tại sao lại bệnh? Vì tâm tham ăn uống nên ta đưa nhiều các thức ăn uống nhiễm độc vào cơ thể. Do tâm tham muốn quá nhiều nên trở thành tâm bệnh, vì tham nên chúng ta muốn thân sung sướng, không ngờ cái sung sướng trong khoái khẩu lại là nguyên nhân gây ra nhiều bệnh tật.
Tâm chi phối, tâm sai sử, tâm điều hành bởi người bệnh béo phì là do tâm tham ăn uống quá đáng, khi ăn đã no rồi còn ráng ăn thêm hỏi sau không bệnh, không béo phì.
Phật pháp đã lan rộng trên 2600 năm qua, đã giúp cho nhiều người thật sự giác ngộ, giải thoát. Còn lại đa phần sống bình thường, nên luôn phải đối mặt về những vấn đề thực tế như: cơm, áo, gạo, tiền, sức khỏe và bệnh tật,… để bảo tồn sự sống và mưu cầu hạnh phúc.
Những ai từng học hỏi, xem xét suy nghiệm và thực hành lời Phật dạy, họ đều cảm nhận được an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Trong khi sức khỏe, năng lực, hiểu biết của con người không phát triển tốt mà mỗi ngày họ đều phải xử lý một lượng lớn công việc, thông tin,… để duy trì nền kinh tế không bị lui sụt. Đó là chưa kể đến những trò vui chơi trác táng trong cuồng loạn, bởi tệ nạn xã hội tràn lan, tội phạm dưới nhiều hình thức đang làm cho xã hội phải đau đầu.
Người tốt, kẻ xấu cũng đều bị cuốn theo guồng máy phát triển thiếu cân bằng về nhu cầu đời sống con người, làm cho áp lực xã hội căng thẳng đến tột độ. Con người trở nên mất thăng bằng giữa thân và tâm, dẫn đến phát sinh nhiều bệnh tật.
Phật dạy: Thân và Tâm luôn có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời. Thiền là một nguồn năng lượng dồi dào nhưng lại không tốn kém tiền bạc mà còn giúp con người có được một trí tuệ sáng suốt và một thân thể khỏe mạnh. Ngoài ra, Thiền cũng có khả năng chữa được rất nhiều bệnh tật mà nhiều khi y học hiện đại phải bó tay.
Thiền còn có khả năng thanh lọc thân và tâm, đem đến cho con người sự sáng suốt, thông minh, lanh lợi, nhạy bén, trí nhớ, sắc đẹp, chống lão hóa,…để họ có một đời sống an vui hạnh phúc, bằng tình người trong cuộc sống. Vì thân và tâm là một khối liên lạc không thể tách rời nhau, nếu tâm còn bệnh thì thân làm sao khỏe mạnh lâu dài được.
Trong tâm của mỗi người luôn luôn tồn tại những tâm niệm thiện và ác. Tâm niệm thiện như: tâm từ bi hỷ xả, khoan dung, độ lượng, giúp đỡ sẻ chia, khiêm tốn,… Một tâm trong sáng, sâu lắng,… cũng làm cho thân của ta trang nghiêm, quý phái, đẹp đẽ hơn rất nhiều.
Ngược lại, những tâm niệm xấu ác như: tham, sân, si, ganh ghét, tật đố, chấp trước, phiền não, hận thù, kích động, hủy diệt,…làm cho đầu óc căng thẳng,… làm cho thân uể oải, mệt mỏi, mất năng lực đề kháng, nên cơ thể suy yếu, dễ sinh nhiều bệnh tật.
Thiền là biết cách điều hòa hơi thở, thở vô ta biết ta đang thở vô, thở ra ta biết ta đang thở ra, bao nhiêu tâm niệm phải quấy, tốt xấu, đúng sai tự nhiên bị tan hòa vào hơi thở, do ta làm chủ được vọng niệm. Chính vì vậy, hơi thở làm nên chất liệu sống, giúp ta chuyển hóa những thói hư tật xấu mà sống bình yên, hạnh phúc.
Tóm lại, người Phật tử tại gia đã có một đời sống ổn định về vật chất, kế đến là phải biết cách điều hòa thân, tâm. Thân và tâm liên quan mật thiết với nhau, chúng không thể tách rời nhau, thân khoẻ mạnh và hoạt động lợi ích cho nhiều người thì tâm mới dễ dàng an định, không bị phiền muộn khổ đau chi phối.
Người Phật tử trong vai trò hộ pháp và hoằng pháp
Người cư sĩ tại gia ngoài trách nhiệm làm tròn bổn phận đối với gia đình người thân, đóng góp lợi ích cho xã hội, kế đến là hộ trì Tam bảo và hoằng pháp lợi sinh tuỳ theo hoàn cảnh sống của mình.
Trước tiên trong vai trò hộ pháp để cho Phật pháp được trường tồn ở thế gian này, người tại gia cần phải hỗ trợ vật chất để đảm bảo đời sống an sinh trong nhà chùa, ổn định bền vững và ngày càng phát triển lâu dài. Trong kinh Bổn phận người gia chủ, Đức Phật đã khẳng định với Anathapindika rằng, muốn trở thành người Phật tử chân chính, thì phải hộ trìgìn giữ cúng dường Tam bảo để chư Tăng, Ni có thời gian tu hành và duy trì Phật pháp.
Vai trò hộ pháp đầu tiên của người cư sĩ, chính là góp phần đảm bảo đời sống tối thiểu cho người xuất gia. Kế tiếp của người Phật tử tại gia là sự hỗ trợ về điều kiện tu hành cho chư Tăng, Ni và mọi người.
Hộ pháp còn được hiểu là sự phòng hộ, gìn giữ về các phương diện liên quan đến Tam bảo như chùa chiền, Tăng sĩ, kinh điển, băng đĩa và thanh danh của Giáo hội các cấp. Ngoài ra, người Phật tử chân chính cần phải chung tay hộ trì Tam bảo bằng khả năng sẵn có của mình, phát nguyện dấn thân, đóng góp vì lợi ích chung.
Người xuất gia từ bỏ đời sống gia đình, chuyên tâm học hỏi và tu sửa, nhằm đạt được giác ngộ, giải thoát và giáo hóa chúng sinh. Việc trợ duyên của hàng cư sĩ, giúp cho người xuất gia có thời gian tu hành, được gọi là hộ pháp chân chính.
Ngày nay, sự hộ pháp của hàng cư sĩ tại gia càng đa dạng hơn với nhiều hình thức khác nhau từ bố thí, cúng dường vật thực cho đến thực hành pháp và hướng dẫn Phật pháp sâu rộng đến mọi tầng lớp. Hộ pháp vừa có nghĩa là người ủng hộ Phật pháp, vừa có nghĩa là sự che chở bảo vệ chánh pháp được phổ biến khắp mọi nơi.
Theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, Đức Phật và Tăng đoàn sống nhờ vào sự cúng dường của hàng cư sĩ. Ngày xưa, đức Phật chỉ cho phép hàng xuất gia sở hữu ba y, một bình bát và một vài vật dùng cá nhân khác. Trong sinh hoạt hàng ngày, họ được phép dùng bốn thứ cần thiết là thức ăn, y áo, thuốc men và chỗ ở.
Với truyền thống sống bằng cách khất thực, hàng xuất gia không tự túc sản xuất ra vật chất để sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày mà phải nhờ vào sự hiến cúng của hàng cư sĩ. Họ cần sự hộ pháp của hàng cư sĩ từ thức ăn, vật dụng cho đến chỗ ở. Hàng ngày họ khất thực để được thức ăn duy trì mạng sống. Họ nhận y áo cúng dường từ hàng cư sĩ vừa đủ để che thân khi trời nắng mưa, nóng lạnh.
Tóm lại, hàng xuất gia thời Phật không được phép chất chứa thức ăn hay của cải vật chất, không bận tâm việc xây cất chùa tháp hay Tịnh xá. Công việc của họ là tu tập để được giác ngộ, giải thoát và hướng dẫn cho nhiều người biết Phật pháp.
Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông hay còn gọi là Phật giáo phát triển trong thời đại hôm nay, đời sống của hàng xuất gia không dựa trên pháp khất thực như ngày xưa nữa, mà phải tự túc sinh hoạt dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ tại gia.
Chùa chiền ở các nơi phải bắt đầu tích trữ của cải vật chất để phục vụ đời sống Tăng Ni và thậm chí nhiều chùa còn chia sẻ của cải ấy cho nhiều gia đình đang gặp hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn. Cư sĩ không phải cúng thức ăn hàng ngày mà thường hộ pháp qua việc cúng dường tài vật để chùa tự sắp xếp lo liệu.
Sự hộ pháp của hàng cư sĩ tại gia ngày hôm nay cũng tùy theo phước duyên của mọi nơi. Thứ nhất, hộ pháp về đời sống sinh hoạt của Tăng Ni thường phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chùa và cư sĩ hơn là nhu cầu thực tế của chùa ấy. Ở chùa nào thầy trụ trì có năng lực và biết cách thu hút Phật tử, thì chùa ấy sung túc đầy đủ hơn về mọi mặt.
Thứ hai, hộ pháp thông qua sự cúng dường xây dựng chùa tháp, tượng Phật, Bồ tát. Có nhiều nơi xây dựng chùa to Phật lớn với quy mô hoành tráng trong thời gian ngắn, ngược lại một số chùa xây dựng đã nhiều năm mà vẫn không thể hoàn thành. Đó là do phước duyên của nơi đó, không thể luận bàn chính xác được.
Thứ ba, hộ pháp bằng cách truyền bá lời Phật dạy thông qua dịch kinh, giảng dạy, xuất bản kinh sách, băng đĩa… trên thực tế chưa được phổ biến rộng rãi. Xa hơn nữa là nghiên cứu phương cách đưa đạo Phật đến các vùng xa xôi của đất nước bằng phương tiện giảng dạy, ấn tống kinh sách, băng đĩa.
Hội đồng Liên Hiệp Quốc tôn vinh đạo Phật và công nhận ngày Đản sanh của Đức Phật là ngày lễ quốc tế bởi sự đóng góp to lớn của Đức Phật vào trong đời sống con người.
Để
đảm bảo việc
hộ pháp và
hoằng pháp đạt được kết quả
tốt đẹp,
lòng tin đối với
Tam bảo là
yếu tố quan trọng đối với người
Phật tử tại gia, đó là chất liệu sống làm nền tảng cho sự
học hỏi, nghiệm xét và
thiền tập. Người có
niềm tin chân chính đối với
Tam bảo, thích gặp thầy lành bạn tốt
học hỏi và tu sửa, để ngày càng
hoàn thiện chính mình.
Niềm tin của những người Phật tử, theo tuệ giác của Thế Tôn, luôn song hành với hiểu biết và trí tuệ. Muốn tin sâu, và có niềm tin chân chính chúng ta phải học hỏi, suy nghiệm xem xét và áp dụng hành trì, nhờ vậy mới phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật.
Khi chúng ta có hiểu biết chân chính, thấy được chân lý cuộc đời biết rõ thật giả phân minh, nên chúng ta dùng trí tuệ để soi sáng chuyển hoá tham lam luyến ái, sân giận, ganh ghét, tật đố, ích kỷ và ngu si. Sống là cho đi, là giúp đỡ, là đóng góp, để mọi người cùng thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết.
Trên phương diện hoằng pháp độ sinh giúp đỡ người khác thấm nhuần Phật pháp, trước tiên người cư sĩ phải văn, tư, tu nghe rồi quán chiếu suy nghiệm lời Phật dạy để rồi ứng dụng tu hành. Bản thân mình ứng dụng Phật pháp được an vui hạnh phúc và lấy đó làm hành trang để hướng dẫn gia đình người thân, cùng tất cả mọi người là trách nhiệm của hàng cư sĩ tại gia.
Phương thức hoằng pháp của người cư sĩ tùy theo hoàn cảnh, khéo uyển chuyển linh động, không nhất thiết là phải thăng tòa thuyết giảng. Với người cư sĩ tại gia, nếu chúng ta biết vận dụng tứ nhiếp pháp như bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự vào trong đời sống hằng ngày, thì lợi ích rất lớn trong lãnh vực hoằng pháp lợi sinh.
Chúng ta ai cũng biết, hoằng pháp là đem lời dạy của Phật-đà lưu truyền khắp mọi nơi để mọi người, tin sâu nhân quả mà biết làm lành lánh dữ nhằm hoàn thiện bản thân mình.
Người Phật tử tại gia trong thời hiện đại dễ hoằng pháp hơn thời xa xưa, nhờ thông tin Phật pháp rộng rãi được biên soạn dịch thuật đầy đủ. Tuy nhiên, muốn hoằng pháp lợi sinh, người cư sĩ tại gia cần phải thông hiểu Phật pháp.
Người Phật tử chân chính phải biết chung vai gánh sức với chư Tăng, Ni làm cho ngôi nhà Phật pháp được phát triển bền vững và lâu dài, bằng niềm tin sâu sắc về nhân quả, phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại con người.
Sau khi biết rõ kinh sách, băng đĩa nào đúng chánh pháp thì ta phải phát tâm ấn tống, đến với những người có duyên lành với chúng ta. Hộ trì Tam bảo và hoằng pháp là việc làm chân chính và quan trọng của người Phật tử tại gia, giúp cho chùa chiền được phát triển và lời dạy của Phật-đà được phổ biến rộng rãi trong nhân gian.
Trách nhiệm của người hộ pháp và hoằng pháp, là để giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, làm thiện tránh ác, giữ tâm ý trong sạch và cuối cùng là thành Phật viên mãn.
PHẬT DẠY VỀ NGÀY LÀNH THÁNG TỐT
Theo tuệ giác Thế Tôn, ngày nào chúng ta có những phẩm chất tốt đẹp như suy nghĩ điều lành, nói lời thiện ích và làm những việc giúp người, cứu vật thì ngày đó chính là ngày tốt.
Như trong Kinh đã nói: Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: Các loài hữu tình nào, này các Tỷ kheo, vào buổi sáng, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi sáng tốt đẹp.
Các loài hữu tình nào, này các Tỷ kheo, vào buổi trưa, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi trưa tốt đẹp.
Các loài hữu tình nào, này các Tỷ kheo, vào buổi chiều, thân làm việc thiện, nói lời nói thiện, ý nghĩ điều thiện, các loài hữu tình ấy, này các Tỷ kheo, có một buổi chiều tốt đẹp.
Này các Tỷ kheo:
Vầng sao lành, điều lành
Rạng đông lành, dậy lành
Sát na lành, thời lành
Cúng dường bậc Phạm hạnh
Thân nghiệp chánh, lời chánh
Ý nghiệp chánh, nguyện chánh
Làm các điều chơn chánh
Được lợi ích chơn chánh
Thì được lợi, an lạc
Lớn mạnh trong Phật giáo
Nên không bệnh, an lạc
Cùng tất cả bà con.
LỜI PHẬT DẠY TRONG KINH TẠNG NIKAYÀ
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 3, phẩm Cát tường, phần Buổi sáng tốt đẹp, VNCPHVN ấn hành, 1996, tr.540)
Trong cuộc sống người Việt Nam hiện nay có quá nhiều tập tục, tín ngưỡng dân gian, có những tín ngưỡng hướng con người đến việc làm tốt đẹp và cũng không ít các tập tục làm cho con người tự đánh mất chính mình nhiều hơn. Trong thời đại hiện nay, nền khoa học văn minh vật chất đã phát triển tột bực, nhưng sự hiểu biết của một số người Phật tử vẫn còn hạn chế, bởi tin vào ngày giờ tốt xấu, lành dữ một cách quá mê tín.
Chính vì thế, những
liên hệ về tuổi tác trong làm ăn hay bất cứ công việc nào khác, đối với họ ngày giờ tốt xấu là một
vấn đề quan trọng được
ưu tiên hàng đầu. Đây chỉ là
thói quen nhiều đời, bởi vì
con người Việt Nam bị
ảnh hưởng chiến tranh
loạn lạc,
con người mất chủ quyền mà
ảnh hưởng văn hóa thuộc địa.
Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, là người thầy hướng dẫn cho chúng ta đi tới sự an lạc, giải thoát. Ngài không phải là một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa, như một số người lầm tưởng.
Ngài hướng dẫn cho chúng ta có niềm tin sâu sắc về nhân quả và khẳng định, con người là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình làm thiện được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, chính mình chịu trách nhiệm về mọi hành vi thiện ác, do mình tạo ra.
Người Phật tử tại gia trước khi muốn làm điều gì, chỉ cần thành tâm tụng kinh, sám hối, lạy Phật, lạy Bồ-tát, làm phước cúng dường và hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh, mọi việc đều được thành tựu tốt đẹp mà không cần coi ngày giờ tốt xấu. Nhưng tại sao có một số chùa hiện giờ, quý thầy cô lại coi ngày giờ tốt xấu, vậy có trái với lời Phật dạy hay không?
Trong nhà chùa sở dĩ bày ra những việc coi ngày tốt xấu, chỉ vì muốn đáp ứng lại nhu cầu tín ngưỡng, theo tập tục mê tín lâu đời của dân gian mà thôi. Nhờ phương tiện khéo léo đó, có nhiều Phật tử bước đầu chưa hiểu Phật pháp còn mê tín, sau khi nghe chư Tăng Ni giảng pháp về chánh tín nhân quả, rồi họ sẽ tin hiểu mà tự động bỏ việc coi ngày.
Một ngày tốt đích thực là do mình tạo ra, chính vì thế chúng ta không nên quá lệ thuộc vào ngày giờ tốt bên ngoài, mà đôi khi làm cho mình bất an, lo lắng sợ hãi, vì chưa hẳn ngày tốt ấy đã thực sự là tốt.
Tuy nhiên, rất nhiều người sau khi sắp đặt công việc làm ăn đầy đủ các yếu tố cần thiết, nhưng họ cũng đi coi ngày, để giúp cho một số đối tác hay các nhà đầu tư, an tâm mà đóng góp cổ phần.
Đạo Phật không có quan niệm về ngày giờ tốt xấu mà ngày nào cũng là ngày tốt, nếu chúng ta biết suy nghĩ giúp người cứu vật, tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người khác, bằng lời nói hướng thiện và hành động mang lại lợi ích, thì đó là ngày tốt. Ngược lại, khi làm việc gì với ý nghĩ xấu, nói lời dụ dỗ và hành động hại người, thì đó là ngày xấu.
Chính vì vậy, trước khi khởi công muốn làm việc gì, người Phật tử chân chính đã có niềm tin sâu sắc đối với nhân quả, thì vấn đề coi ngày giờ là không cần thiết nữa. Chúng ta chỉ chọn ngày nào tiện lợi, cảm thấy có niềm vui trong việc mình sắp làm, có lợi ích cho mình và nhiều người khác, đồng thời cầu nguyện mọi việc đều thành tựu.
Tùy theo trí tuệ và phước báu của chính mình và những người cộng sự mà công việc sẽ thành công hay thất bại, hoặc thành tựu nhiều hay ít chứ không phải do nơi coi ngày.
Tập tục coi ngày giờ tốt xấu, bắt nguồn từ văn hóa Trung Hoa và ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam bởi một 1000 năm bị đồng hóa. Người Việt chúng ta chịu ảnh hưởng sâu sắc về các tín ngưỡng, tập tục văn hóa ngoại lai, cho đến ngày nay đã trở thành thói quen thâm căn cố đế nên rất nhiều người, đều coi ngày trước khi muốn làm một việc gì.
Trong kinh Di Giáo, trước lúc nhập Niết bàn, đức Phật đã chỉ dạy rõ ràng cho bốn chúng đệ tử, không được xem thiên văn, địa lý, số mạng, cúng sao giải hạn, ngày giờ tốt xấu… Ngày lành tháng tốt nếu có chăng cũng chỉ là phụ thuộc, mà sự thành công bền vững và lâu dài, là do biết tiếp thị đúng nhu cầu của người tiêu dùng.
Chính chúng ta tự làm nên một ngày tốt đẹp do suy nghĩ giúp người, nói lời động viên, an ủi, sẻ chia và hành động đóng góp, chứ không phải do ngày tốt, giúp cho công việc thuận lợi về mọi mặt. Tuy nhiên, một số người Phật tử vì chưa có đầy đủ niềm tin về nhân quả, không tự tin chính mình, nên phải đến chùa để coi ngày giờ tốt.
Nhà chùa cũng bất đắc dĩ, mà phương tiện coi dùm không đặt vấn đề giá cả hay gợi ý khéo léo, rồi hướng dẫn giáo lý nhân quả để Phật tử vững niềm tin hơn, nhằm làm tốt công việc mình đang hướng tới.
Còn nếu Phật tử nào đã tin sâu nhân quả, thì ngày nào hội đủ duyên lành là ngày tốt, bản thân mình luôn sống đạo đức và tạo phước thiện nhiều, thì ngày nào cũng tốt cả.
Chuyện có ngày tốt đích thực hay không đến nay, vẫn là do sách vở để lại bởi những người tướng số, họ làm nghề để có tiền sinh sống và tùy theo quan điểm riêng của mỗi người. Một sự thật rất đau lòng cho nhân thế, bởi vì không có ngày nào tốt cho tất cả mọi người, nếu có thể có ngày tốt đối với chính mình, nhưng ngày đó là ngày xấu đối với người khác.
Như chúng ta đã biết, xã hội ngày nào cũng có tai nạn, mất mát, chết chóc đau thương, vợ xa chồng, mẹ mất con và vô số các phiền muộn khổ đau khác, vẫn xãy ra hằng ngày! Vậy ngày nào là ngày tốt? Nếu ngày đó là ngày tốt, tại sao vẫn có những chuyện làm đau lòng nhân thế?
Như có gia đình nọ, một bà mẹ có hai đứa con nhưng do hoàn cảnh sự nghiệp khác nhau. Một đứa con thì bán áo mưa và một đứa thì bán quạt, đứa bán áo mưa mỗi khi trời nắng thì rất buồn rầu bởi vì không ai mua, ngược lại đứa bán quạt thì người ta mua rất nhiều, vậy ngày nào là ngày tốt thật sự.
Nếu ngày đó là ngày tốt thì ai cũng được như ý hết, nhưng mà thế gian này, ngày nào cũng có trình trạng tốt xấu lẫn lộn, rõ ràng ngày giờ tốt xấu là do tâm biến hiện. Ngày đó ta nghĩ tốt là nó sẽ tốt, chứ không có thật sự ngày giờ tốt xấu, bởi nó do con người đặt ra theo cách suy nghĩ của họ, được truyền nhiều đời qua sách vỡ.
Bản thân chúng tôi khi chưa xuất gia đã từng là chủ của một lò bánh mì, trước khi khai trương bạn bè khuyên nên đi coi ngày giờ tốt để việc làm chắc chắn thành công và sẽ không bị thất bại.
Chúng tôi đến một chùa nọ nỗi tiếng về xem tướng số, ngày giờ tốt xấu. Vì lượng người đến coi quá đông, nên phải chờ 24 tiếng đồng hồ mới coi được. Vị thầy hỏi ngày giờ sinh tuổi gì ở đâu và chỉ hướng sắp đặt lò bánh mì và chọn ngày tốt nhất theo tuổi Canh Tý.
Nhưng cuối cùng vẫn bị vỡ nợ và người ta đã xiết lò bánh mì, vận may không có đã đưa đẩy chúng tôi vào con đường tội lỗi, để tiếp tục bị sa đọa vào tệ nạn xã hội. Sau này khi chúng tôi bế tắc, túng quẫn hết đường sống, định liều chết cho xong. May nhờ có người mẹ hiền từ, đã khuyến khích động viên, an ủi chúng tôi quy hướng về cửa Phật, mà được tu học cho đến ngày hôm nay.
Trong một ngày, nếu từ sáng sớm cho đến chiều tối mà chúng ta không suy nghĩ xấu ác và đồng thời còn làm được nhiều việc tốt đẹp, có lợi ích cho nhiều người, thì chắc chắn ngày đó là ngày tốt. Thực tế trong cuộc sống, ngày nào cũng là ngày tốt, nếu ý mình suy nghĩ tốt, miệng nói lời tốt đẹp và thân hay hành động giúp đỡ mọi người!
Người Phật tử chân chính khi đã thấm nhuần đạo lý nhân quả, sẽ không cần coi ngày, mà ta vẫn có được ngày tốt đẹp cho mình, khi biết tu dưỡng đạo đức, buông xả tâm niệm xấu ác để chuyển hóa phiền muộn khổ đau thành an vui hạnh phúc.
Tóm lại, thay vì tìm cầu chọn lựa ngày tốt từ bên ngoài, người Phật tử chân chính sẽ biết cách chủ động tạo ngày tốt cho chính mình và nhiều người khác, bằng cách kiểm soát ba nghiệp thân, miệng, ý để mình và người ngày càng hoàn thiện chính mình hơn, bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
PHẬT DẠY KHÔNG NÊN CÓ TÂM Ỷ LẠI VÀO NGƯỜI KHÁC
Trong sự tái sinh luân hồi, nhân quả tốt xấu, đúng sai, ân oán trong hiện tại sẽ tiếp tục đến đời sau, nên khi gặp duyên phù hợp nó liền tác động mạnh mẽ, khiến ta phải chấp nhận mà không biết nguyên nhân! Nhiều người không hiểu nên tin có đấng thần linh thượng đế, đủ quyền năng ban phước giáng họa?
Như có một ông lái đò đang chở khách qua sông, bỗng nhiên gặp sóng to gió lớn. Nhiều người quá lo sợ, nên cố gắng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm để nhờ Ngài cứu cho tai qua nạn khỏi.
Ông chèo đò liền nói, tất cả quý vị hãy bình tĩnh ai ngồi chỗ nào, ngồi yên chỗ đó, rồi ông ta nói tiếp: “Đò khẳm mà chở thêm nhiều Phật và Bồ-tát quá, coi chừng đò chìm bà con ơi!”.
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn có ẩn ý sâu sắc, nhằm phản ánh tâm lý yếu đuối, sợ hãi ỷ lại vào Phật và Bồ-tát của tất cả mọi người trên đò, khi bình thường thì không lo niệm Phật, Bồ-tát đến khi gặp nạn mới cầu cứu van xin.
Tâm lý đó luôn phổ biến khắp mọi nơi, lúc bình thường không ai nghĩ tới việc tu hành, đến khi có chuyện không may xảy ra, chúng ta vào chùa lễ lạy cầu khẩn van xin chư Phật, Bồ-tát giúp cho. Nếu được tai qua nạn khỏi thì vui vẻ hả hê cho rằng chư Phật, Bồ-tát linh ứng, còn không được thì phiền muộn khổ đau, oán trách trời đất, không dang tay cứu giúp mình.
Những người yếu đuối, thường có tâm lý ỷ lại hay thần thánh hóa chư Phật, Bồ-tát rồi sùng bái như những bậc siêu nhiên, quyền uy tối thượng, có khả năng ban phước giáng họa cho con người. Nên họ lúc nào cũng trông chờ mong các Ngài ra tay cứu giúp, mà họ không biết rằng chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc.
Nếu nói theo đúng nghĩa của nó, đạo Phật không phải là một tôn giáo mà là một phương pháp chuyển hóa, nhằm giúp mọi người phá tan si mê tối tăm, mờ mịt đang che lấp tâm Phật thanh tịnh sáng suốt của mình.
Trên thực tế cuộc đời, cách nay trên 2600 năm ở Ấn Độ có một con người như tất cả mọi người chúng ta, do quyết tâm tu hành buông xả mọi tham muốn chấp trước mà thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Các vị đệ tử của Phật cũng là con người, nương theo lời Phật dạy mà tu chứng nên gọi là Thánh Tăng, Thanh-văn Tăng, A-La-hán, Bích-chi-Phật cho đến chư vị Tổ sư về sau này đứng đầu các tông phái hay dòng truyền thừa là những nhân vật có thật trong lịch sử.
Còn các vị Phật khác cùng chư vị Bồ-tát, được Phật Thích Ca Mâu Ni nói trong các bản Kinh, không phải là những nhân vật lịch sử mà chúng ta có thể hiểu đó là hình tượng biểu trưng cho chơn tâm, Phật tính sáng suốt của con người hoặc tinh thần dấn thân đóng góp lợi ích cho cuộc đời.
Giả sử chiếc đò trong mẩu chuyện trên bị chìm, nhiều người ra cứu vớt hành khách thì những người đó ta gọi là người có lòng từ bi, là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm nên sẵn sàng ra tay cứu giúp quên cả thân mạng của mình.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ cho chúng ta cách thức tu hành nhằm chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành vô lượng trí tuệ, để thoát khỏi vòng luân hồi sống chết. Tu được hay không là do ta quyết định, ta tu tốt thì giảm bớt tham, sân, mê muội nếu không chịu tu khi quả xấu đến, lúc này dù có Phật, Bồ-tát hiện tiền cũng không cứu được ta, vì ai tu nấy chứng.
Phật là người chỉ đường còn đi hay không là do ta, ai làm nấy chịu, ai tu nấy chứng trong cuộc luân hồi sinh tử này. Phật không thể ban phước giáng họa cho chúng ta, vì phước hay họa là do mình tạo ra thì chính mình phải chịu nhận lấy, khi hội đủ nhân duyên.
Một số người không hiểu nên thần thánh hóa mọi vấn đề, chỉ sùng bái cầu khẩn van xin chư Phật, Bồ-tát một cách thái quá, nên ngày càng đánh mất chính mình mà rơi vào mê tín dị đoan. Khi nghe lời Phật dạy chúng ta phải suy tư, quán xét rồi áp dụng tu hành, con người ta thường hay ỷ lại, nương nhờ kẻ khác mà tự đánh mất chính mình.
Trước những cám dỗ vật chất, con người tham muốn quá đáng nên lúc nào cũng đòi hỏi phải thỏa mãn dục vọng. Chính những tham muốn đó trói buộc ta, khiến mình căng thẳng, mệt mỏi, bất an, thậm chí dẫn đến tuyệt vọng.
Thế gian này luôn nằm trong vòng lẩn quẩn của đối đãi, nếu chúng ta không thể chấp nhận cuộc sống có những cái xấu, tốt luôn chi phối chúng ta hằng ngày. Người giàu có cái khổ của người giàu, người nghèo cũng có cái khổ của kẻ nghèo. Chúng ta hãy xem xét, suy tư, phân tích mọi vấn đề, nhìn thẳng vào những phiền muộn đang ẩn náu sâu thẳm trong tâm tư mình.
Với đời sống vật chất của những người khá giả, phần nhiều không khổ vì nghèo đói mà khổ vì… tham, sân, si lừng lẫy. Chính vì vậy nếu chúng ta không có vốn liếng, tư lương về mặt tinh thần, tâm linh để làm điểm tựa, để quay về chính mình, thì ta sẽ dễ dàng bị những cám dỗ vật chất cuốn trôi.
Làm người ai cũng có ham muốn, nhưng chúng ta phải biết nhu cầu nào cần thiết với hoàn cảnh sống thực tiễn của mình. Nếu ta tham muốn mà nằm ngoài khả năng của mình thì coi chừng tổn thất nặng nề. Chúng ta phải biết tiết chế giảm bớt ham muốn của mình là muốn ít biết đủ, nhờ vậy ta ít lo sợ, sống an ổn nhẹ nhàng mà không rơi vào thất vọng khổ đau.
Đạo Phật nhìn mọi hiện tượng sự vật không có một thực thể riêng biệt, mà do nhân duyên hòa hợp, đủ duyên thì hình thành, hết duyên thì tan rã. Vạn vật do duyên hợp tạo thành nên sự hiện hữu rất mong manh, có đó rồi mất đó…Con người vẫn mong muốn có một đời sống an lạc, hạnh phúc mà không chịu gieo trồng phước đức, thành ra phải chịu khổ đau chi phối. Thường thì chúng ta khổ, là do mong muốn cái gì cũng bền chắc và lâu dài.
Chúng ta mong muốn được hạnh phúc lâu dài trong tình yêu, rồi danh vọng, tiền tài, sự nghiệp…sẽ đến với ta mãi mãi nên khi có sự đổi thay, mất mát chúng ta cảm thấy tiếc nuối và đau khổ.
Con người trong xã hội cũng vậy, do sự huân tập khác nhau nên có hình tướng, tâm tính bất đồng nhưng trong mỗi người đều có “tính biết sáng suốt”, vì máu của ai cũng đỏ, nước mắt của ai cũng có vị mặn, ai cũng mong muốn hạnh phúc và sợ khổ đau.
Nếu dựa vào cuộc sống vật chất thì không ai bằng lòng với hiện tại, còn dựa vào đời sống tâm linh thì chúng ta sẽ bằng lòng với những gì mình đang có. Tuy nhiên, sự bằng lòng đó không có nghĩa tiêu cực, không làm gì hết mà chúng ta vẫn tích cực để tăng trưởng an sinh đời sống, nhưng biết cách làm chủ bản thân.
Cho nên ai chờ đến lúc hấp hối rồi mới niệm Phật, cầu xin Đức Phật A Di Đà đến tiếp độ về cõi cực lạc thì đó là một quan niệm rất sai lầm. Đừng đợi đến khi khát nước mới đào giếng. Nếu trong đời sống hiện tại này lòng ta đầy dẫy tham lam, sân hận mà mong mỏi khi chết Phật A Di Đà sẽ đến rước, sẽ rờ đầu thọ ký, điều này không thể có được. Chúng ta cũng đừng nên chờ việc làm ăn tốt đẹp, có đầy đủ tiền bạc nhà cửa rồi lúc đó mới chịu tu, thì khó mà thực hiện được hoài bão của mình.
Chúng ta tu để làm gì? Để được
giảm bớt phiền muộn khổ đau và
cuối cùng là
giác ngộ giải thoát hoàn toàn những
ý nghĩ,
lời nói và hành động làm
tổn hại người khác. Khi
chúng ta cởi bỏ được tự ngã
độc tôn, sống với
tâm không chấp trước, lột bỏ mọi
phân biệt thành kiến thì
chúng ta sẽ tắm mát trong dòng sông
hạnh phúc, mà
an nhiên tự tại trong mọi
hoàn cảnh.
Cũng như những người gặp tai nạn hoặc việc bất trắc trong cuộc đời, thường hay cầu nguyện Bồ tát Quán Thế Âm cứu độ, nhưng tất cả đều được hay người được, người không? Như vậy, Bồ tát thương người này mà ghét bỏ người kia hay sao? Hình như Bồ-tát còn thiên vị nên trọng kẻ này, khinh người kia. Nếu ai nghĩ như thế và nói như vậy là oan cho Bồ-tát quá chừng!
Đa số chúng ta vì không tin sâu nhân quả, không tin chính mình, nên khi gặp tai nạn, gặp khó khăn, chúng ta liền xin Phật, Bồ-tát gia hộ hay cứu độ cho mình mau tai qua nạn khỏi. Ta hay có bệnh ỷ lại và nhờ vã, cầu cạnh vào Phật, Bồ-tát, nên lúc nào cũng cầu xin Phật, Bồ-tát an ủi, sẻ chia, cứu giúp hay nâng đỡ cho mình hết khổ mà được an vui hạnh phúc. Nhưng trên thực tế, việc cầu xin đó có người được, có người không. Là tại sao? Vì nhân duyên đã chín mùi, dù mình không muốn nhưng nó vẫn đến vì nhân quả công bằng mà.
Như vậy mà đa số Phật tử chúng ta phần đông đi chùa cầu xin nhiều hơn là gieo nhân để gặt quả, thậm chí có người vuốt bụi Phật để trét vào đầu và còn nói rằng, làm như vậy Phật sẽ ban ơn, gia hộ cho mà gặp được điều may mắn tốt đẹp.
Bồ-tát Quán Thế Âm là biểu tượng của lòng từ bi, thương yêu bình đẳng, sẵn sàng giúp đỡ sẻ chia những nỗi khổ niềm đau hay đem niềm vui đến với tất cả chúng sinh. Giả sử chiếc đò trong mẩu chuyện ở trên bị chìm, nhiều người ra tay cứu vớt hành khách thì những người đó là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, là biểu hiện của lòng từ bi sẵn sàng cứu giúp mọi người khi có hoạn nạn. Bồ-tát Phổ Hiền là biểu tượng của hạnh nguyện dấn thân đóng góp, Bồ-tát Văn Thù là biểu trưng người có trí tuệ sáng suốt nên không bị phiền não tham sân si làm nhiễm ô v.v… Chư vị Bồ-tát dấn thân cứu đời không biết mệt mỏi, nhàm chán.
Đức Phật A-Di-Đà là tượng trưng cho vô lượng thọ, vô lượng quang, có nghĩa là chúng ta khi sống được với Phật tính sáng suốt của mình thì không còn luân hồi sinh tử nữa nên gọi là vô lượng thọ. Và có trí tuệ đầy đủ nên không bị các pháp ô nhiễm của thế gian chi phối.
Do một số người thần thánh hóa, sùng bái chư Phật, Bồ-tát thái quá, xem các Ngài như là những vị thần linh ban phước giáng họa, nên nhiều người đã đặt niềm tin một cách sai lệch. Thay vì chúng ta đặt niềm tin vào giáo pháp, vào nhân quả, tự mình làm chủ bản thân, làm chủ vận mệnh theo tinh thần Phật dạy: “Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”.
Do chúng ta không hiểu đúng lời Phật dạy, nên ta thiếu tự tin, ỷ lại, lơ là, biếng nhác bởi tham lam quá đáng mà đánh mất chính mình. Trong mỗi chúng ta đều có Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy, nơi tai thì nghe, mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.
Ai hay cầu xin là người có tâm ỷ lại và quá yếu đuối vì không tin sâu nhân quả, không tin tưởng chính mình có đủ năng lực làm được những gì mình mong muốn. Người có tâm niệm ỷ lại và nhờ vào tha lực của người khác, khó bao giờ thành công được trọn vẹn trên đường đời vì thiếu ý chí, nghị lực, không tin sâu nhân quả và tự tin chính mình.
Người tu cũng thế, nếu hay cầu xin nhiều thì dễ mất tín tâm vì đâu phải việc gì cũng xin được dễ dàng, nếu xin không được thì nói Phật, Bồ-tát không linh hiển, nên bỏ không tới chùa nữa. Còn người Phật tử chân chính thì phải biết tìm cách chuyển hóa, chừa bỏ, thay đổi những thói quen tật xấu có tính cách hại người, hại vật, chớ không nên một lòng cầu khẩn, van xin.
Hầu như ai cũng có bệnh tham lam dù ít hay nhiều. Phật dạy lấy thuốc để trị bệnh, mà chúng ta chỉ cầm toa thuốc đọc hoài mà không dám mua thuốc uống. Phật dạy chúng ta học hiểu để ứng dụng tu tập, hành trì, chuyển hóa, chớ không phải cầu Phật ban cho, nhưng đa số quí Phật tử cứ xin Phật hoài, tu như vậy biết chừng nào mới chuyển hóa hết phiền não tham, sân, si. Bởi ta tham quá nhiều thứ, nên xin lâu ngày thấy không hiệu nghiệm thì muốn bỏ Phật, bỏ chùa, vì Phật không giúp gì được cho mình.
Nếu chúng ta xin không được thì tu theo Phật, Bồ-tát có được lợi ích gì? Chúng ta học hiểu lời Phật dạy để áp dụng vào trong đời sống hằng ngày, nhằm trị tâm bệnh tham lam, sân giận, si mê, để thành vô lượng trí tuệ từ bi, tu như vậy tự nhiên tâm chúng ta lần hồi được trong sạch. Khi tâm đã trong sạch rồi thì mọi bệnh tật tham, sân, si, ganh ghét, tật đố, nóng giận, oán thù từ từ theo đó mà hết.
Muốn giàu sang, nhiều của cải, ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia với lòng thành tâm cung kính của mình; ngoài ra, chúng ta còn phải siêng năng, tinh cần làm việc, tiết kiệm và không tiêu xài hoang phí. Đó là chúng ta biết tu bằng cách dùng thuốc của Phật để trị tâm bệnh cho mình.
Nhiều người cho rằng cầu nguyện là vô ích, không có tác dụng lợi ích thiết thực; mà làm sao có tác dụng được, khi chúng ta lạy lục, cầu xin trước những pho tượng bằng đất, gỗ, đá và xi măng? Tôn tượng Phật, Bồ-tát chắc chắn không phải là ông Phật thực, đó chỉ là biểu tượng qua hình ảnh, để ta nhớ biết công hạnh của các Ngài mà cố gắng bắt chước, thực hành làm theo. Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ, không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa lá cờ tượng trưng cho Tổ quốc qua tinh thần dân tộc Việt Nam.
Cũng vậy, ta thờ Phật, lạy Phật nhằm mục đích không phải để cầu xin, mà ta lễ lạy để nhớ công ơn cao cả của Ngài, nhờ vậy mà ta biết được điều tốt, lẽ xấu trong cuộc đời. Quí Phật tử xét thật kỹ xem từ trước cho đến giờ, chúng ta đi chùa là vì cầu xin hay để tu học theo Phật và Bồ-tát?
Chúng ta đến chùa đôi khi chỉ cúng chút ít hoa quả hoặc nải chuối, ốp nhang; khi cúng rồi quí vị cầu đủ thứ hết, nào là “Phật gia hộ cho gia đình con bình yên, hạnh phúc, được làm ăn thịnh vượng, sung túc, đủ đầy, phát tài, phát lộc, trong gia quyến đều gặp may mắn, con cháu biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ… ; như thế, chúng ta cầu xin hay là tu tập để chuyển hóa những nỗi khổ, niềm đau?
Thông thường em bé ỷ lại vào sự bao bọc của cha mẹ, đứa bé con nhà giàu khi bị té nó sẽ khóc thét lên chờ gia đình người thân đến vỗ về năn nĩ, nó mới hết khóc. Ngược lại, đứa bé con nhà nghèo khi bị té, nó nhìn qua lại không thấy ai liền đứng dậy đi. Những người bất hạnh thường mong chờ ỷ lại vào những nhà mạnh thường quân, nhà hảo tâm nên họ khó có tâm cầu tiến, tin sâu nhân quả.
Phụ nữ thường ỷ lại vào đàn ông, chồng ỷ lại vào vợ dẫn đến biếng nhác ăn không ngồi rồi tụ ba tụ năm tán dốc, cờ bạc rượu chè làm cho gia đình người thân khổ đau.
Lúc chúng tôi còn ở ngoài đời, khi đó đang ở tù tôi có quen một người và có đến nhà anh ta chơi một vài lần. Cô vợ bán thịt heo ngoài chợ, nuôi một chồng và hai đứa con, anh chồng không làm gì hết mà lúc nào cũng chè chén say sưa, tiền thì bà xã cung cấp. Ăn nhậu riết rồi sinh tệ về nhà chửi bới đánh đập vợ con, sau nhiều lần chịu không nổi bà vợ làm đơn cho ổng ở tù ba tháng để cải tạo. Khi đó chúng tôi làm tù trưởng nên có điều kiện cùng ông ta về nhà nhậu chơi, mới biết hoàn cảnh thật như thế.
Rõ ràng những người đàn ông như thế, họ lại dựa vào sự làm ăn của vợ mà bê tha thọ hưởng những thú vui thấp hèn, cuối cùng dẫn đến tù tội. Sự ỷ lại của người đàn ông trên đáng bị phê phán, vì tâm lý ỷ lại lười lao động và để vợ nuôi. Ngược lại, người phụ nữ có thể chịu đựng cả đời với tính dựa dẫm đáng yêu của đàn ông, nhưng họ sẽ coi thường những gã chỉ biết sống dựa vào “sức vợ”. Đàn ông mà sống dưới vạt áo đàn bà coi sau được, vậy mà thế gian này vẫn có những con người như thế.
Các em học sinh ỷ lại vào thầy cô giáo nên không cần mẫn siêng năng chăm chỉ học hành, con cái ỷ lại vào cha mẹ. Hầu như tất cả những người hay ỷ lại, ít thành công trên đường đời vì tâm lý làm biếng dựa dẫm vào người khác.
Tu hành cũng lại như thế, chúng ta phải tin mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, do đó ta không ỷ lại vào Phật, Bồ-tát mà ráng cố gắng buông xả những gì xấu xa tội lỗi, bằng trái tim thương yêu và hiểu biết để chuyển hóa phiền muộn khổ đau, thành an vui hạnh phúc.
Như vậy, chúng ta đi chùa cầu xin Phật cho điều này, cho việc kia, cho đủ thứ hết. Nhưng rốt cuộc rồi tất cả những gì chúng ta xin có được như ý không? Chúng ta mỗi người phải tự nghiệm xét lại những gì chúng ta xin đó, nếu được hết thì chắc rằng quí Phật tử đều được an vui, hạnh phúc, đâu có ai đau khổ phải không? Nhưng thực tế, trong cuộc đời khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Nếu Phật có khả năng ban phước cho ta được thì Phật đâu có khuyên ta siêng năng tinh tấn tu hành để làm gì?
Nói tóm lại, chúng ta đi chùa là để tu theo Phật nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, thành an vui, hạnh phúc và tin rằng mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, chớ Phật, Bồ-tát không thể ban cho ta được. Phật chỉ là người thầy dẫn đường, chỉ cho ta biết được con đường dẫn đến bình yên hạnh phúc trọn vẹn, còn làm được hay không là do ta quyết định.
Phong Trần Thiện Nhân
Discussion about this post