NIẾT-BÀN KINH HẬU PHẦN SỐ 0377
TRONG TẠNG ĐẠI CHÁNH
CÓ PHẢI LÀ NỘI DUNG
MÀ NGÀI ĐÀM-VÔ-SẤM TÌM KIẾM?
Chúc Phú

1. Vài nét về xuất xứ Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần và mối liên hệ với kinh A-hàm.
Như vậy, Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần, số 0377 có nguồn gốc từ nước Sư Tử 師子國, cũng gọi là Tích Lan (錫蘭, Sri Lanka). Và do đó, có thể xem bản kinh này có nguồn gốc Nam truyền.
Đồng tình với quan điểm này, ngài Nghĩa Tịnh 義淨 (635-713) đã khẳng định trong Đại Đường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện 大唐西域求法高僧傳:
Cũng theo Tống cao tăng truyện, trong phần truyện của ngài Trí Hiền và ngài Hội Ninh, Sa-môn Tán Ninh 沙門贊寧 (919-1001) cũng ghi nhận điều tương tự:
2. Vài nét về nguồn gốc, dung lượng chữ nghĩa giữa Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần với Đại bát-niết-bàn kinh, bản của ngài Đàm-vô-sấm
Xét tổng quan, trong tạng Đại chánh, kinh Đại bát-niết-bàn, bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm có hai truyền bản, bản 0374 có 40 quyển, bản 0375 có 36 quyển, cả hai bản tuy có sự khác biệt số quyển nhưng thực tế nội dung, kể cả chữ nghĩa cũng tương đồng nhau. Trong khi đó, Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần chỉ gồm có hai quyển, vậy hai quyển này có phải là phần sau của bộ kinh Đại bát-niết-bàn, bản dịch của ngài Đàm-vô-sấm?
Để dễ hình dung, chúng ta thử khảo qua vài nét về truyền bản của ngài Đàm-vô-sấm và những vấn đề then chốt liên quan đến truyền bản này.
3. Kết luận
Đầu tiên, sự kiện Niết-bàn của Đức Phật là một sự kiện trọng đại đối với toàn thể đệ tử Phật nói chung. Tùy theo tông chỉ, chủ trương của từng nhóm đệ tử, từng bộ phái mà cách nhìn nhận sự kiện Niết-bàn của Đức Phật khác biệt nhau. Bản Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần theo nhận định của ngài Nghĩa Tịnh, ngài Tán Ninh và thực tế khảo sát của chúng tôi đã cho thấy, bản kinh này thuộc về hệ thống kinh điển A-hàm. Sự đa dạng về các bộ kinh liên quan đến sự kiện Niết-bàn của Đức Phật có thể tìm thấy qua nhiều bản kinh thuộc Bộ A-hàm (阿含部) và nhiều nhất là ở Bộ Niết-bàn (涅槃部) trong tạng Đại chánh.
Thứ hai, hai truyền bản kinh Đại bát-niết-bàn số 0374 và 0375 của ngài Đàm-vô-sấm trong tạng Đại chánh thuộc về thể loại kinh điển phương đẳng Đại thừa, được truyền thừa từ phương Bắc xuống. Trong khi đó, bản Đại Bát-niết-bàn kinh hậu phần có nguồn cội từ Tích Lan và được truyền đến từ phương Nam. Kế đến, theo như lời ngài Đàm-vô-sấm, bản kinh Đại bát-niết-bàn mà ngài đã dịch chưa đầy đủ hoàn toàn, chỉ hơn một phần ba bản gốc mà đã chiếm dung lượng 33 quyển lúc mới phiên dịch, hoặc chia thành 40 quyển (Bắc bản), hay 36 quyển (Nam bản). Nếu như phần sau của bản kinh Đại bát-niết-bàn thì phải gấp hai lần số quyển vừa nêu thì mới phù hợp.
________________
[1] Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần 大般涅槃經後分 (T.12. 0377. 0900a03-0912a16). Hai bản dịch kinh Đại bát-niết-bàn của HT.Thích Trí Tịnh và Đoàn Trung Còn-Nguyễn Minh Tiến đều có thêm bản kinh này vào nội dung.
[2] Tống cao tăng truyện 宋高僧傳 (T.50. 2061.2. 0717b24).
[3] Theo Phật tổ thống kỷ 佛祖統紀 (T.49. 2035.32. 0316a04), nước Ha-lăng 訶凌 (Kalingga) nằm kề cận Thất-lợi-phật-thệ 室利佛逝 (Srivijaya) và Mạt-la-du 末羅瑜 (Melayu).
[5] Theo Phật tổ thống kỷ 佛祖統紀 (T.49. 2035.39. 0367c05). Nguyên tác: 西蜀沙門會寧自南海附舶至訶陵國遇沙門智賢齎涅槃後分自師子國來即與對譯成文二卷.
[6] Đại Đường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện 大唐西域求法高僧傳 (T.51. 2066.1. 0004a05-0004a08): Nguyên tác: 爰以麟德年中仗錫南海.汎舶至訶陵洲. 停住三載. 遂共訶陵國多聞僧若那跋陀羅,於阿笈摩經內譯出如來涅槃焚身之事. 斯與大乘涅槃頗不相涉.
[7] Tống cao tăng truyện 宋高僧傳 (T.50. 2061.2. 0717b28). Nguyên tác: 此於阿笈摩經內譯出說世尊焚棺收設利羅等事與大涅槃頗不相涉.
[8] Theo Từ điển Phạn ngữ của Williams Monier, Droṇa (द्रोण) có nghĩa là mây mù, hơi nước. Có thể dựa vào nghĩa này nên Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2 0029b18) dịch nghĩa là Hương Tánh (香姓) còn ở Đại bát-niết-bàn kinh hậu phần 大般涅槃經後分 (T.12. 0377.2. 0912a16) dịch nghĩa là Tánh Yên (姓煙).
[9] Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50. 2059.2. 0335c25). Nguyên tác: Thiền sư liền truyền cho bộ kinh Niết-bàn làm bằng vỏ cây (禪師即授以樹皮涅槃經本). Trong lịch sử truyền thừa kinh điển, bên cạnh thể loại kinh được ghi bằng lá bối (貝葉, Palm) thì chi tiết bộ kinh làm bằng vỏ cây (樹皮) là một chi tiết chứa dựng nhiều giá trị lịch sử. Thứ nhất, dường như đây là một văn bản kinh điển chép tay đầu tiên được ghi nhận trong kinh văn Hán tạng. Thứ hai, thể loại kinh điển viết trên vỏ cây (樹皮) đã được chứng minh là một hiện vật lịch sử, vừa được phát hiện qua 29 thủ bản kinh cổ ở Gandhara, được viết trên vỏ cây bạch dương (birch bark). Xem thêm, Richard Salomon, Ancient Buddhist Scrolls from Gandhāra: The British Library Kharosthī Fragments, Seattle: University of Washington Press, 1999. p.15,89,186.
[10] Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50. 2059.2. 0336a12): Nguyên tác: 往罽賓齎大涅槃前分十卷.
[11] Như trên. Nguyên tác: 三十三卷
[12] Như trên, trang 0336b08. Nguyên tác: 讖云: 此經梵本本三萬五千偈, 於此方減百萬言, 今所出者止一萬餘偈.
[13] Như trên, trang 0337a23.
[14] Tống Thái Tổ ở đây chính là Tống Thái Tổ Văn hoàng đế 宋太祖文皇帝 (407-453), cũng gọi là Lưu Tống Văn đế, 劉宋文帝, tên húy là Lưu Nghĩa Long 劉義隆,thuộc triều Lưu Tống 劉宋, cũng gọi là Nam Tống 南宋; khác với Tống Thái Tổ, vị hoàng đế khai quốc nhà Bắc Tống 北宋,tên thật là Triệu Khuông Dận 趙匡胤 (927-976), tự là Nguyên Lãng 元朗.
[15] Là một quận lỵ được thành lập từ thời Đông Hán 東漢, nay thuộc tỉnh Sơn Đông 山東省, Trung Quốc.
[16] Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50. 2059.2. 0337a27). Nguyên tác: Niết-bàn hậu phần dữ Tống địa vô duyên hỹ! (涅槃後分與宋地無緣矣).
Discussion about this post