NHỮNG LỜI DẠY THỰC TIỄN
CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Tựa
sách : «108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité»
Nhà
xuất bản: Presse de la Renaissance, Paris 2006. Do nữ ký giả Phật tử Cathérine
Barry tuyển chọn – Chuyển ngữ Pháp-Việt : Hoang
Phong
1-
Khi cảm thấy hoang mang, mất tự tin, hãy nghĩ ngay đến tiềm
năng tuyệt vời được sinh làm thân con người, tấm
thân ấy chỉ ước mong được nẩy nở. Vì thế, hãy nhìn
vào kho tàng quý giá đó đang được cất giữ trong ta để
tìm lấy nguồn hạnh phúc : hân hoan là một sức mạnh, hãy
khơi động và chăm lo cho xúc cảm ấy.
2-
Những gì cốt yếu có thể đem đến hạnh phúc chính là biết
hài
lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút
hiện tại. Sự hoan hỷ nội tâm sẽ biến cải cảm
quan của ta khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và ta sẽ
tìm được sự anh bình cho tâm thức.
3-
Khi có kẻ nào làm ta tổn thương, đừng do dự một chút nào
cả, hãy tha thứ cho họ. Vì khi biết nghĩ đến
những gì đang kích động họ và đưa họ đến những hành
vi ấy, ta sẽ hiểu chính đấy là những khổ đau mà họ đang
phải gánh chịu, không phải họ quyết tâm và cố tình làm
ta thương tổn và gây thiệt hại cho ta. Tha thứ là một một
phương cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, không
phải là một hành động bỏ qua. Tha thứ là một hành động
ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận hiện
trạng thực tế của những cảnh huống xảy ra cho ta.
4-
Hãy
bố thí cho kẻ khác, không mong đợi sự hồi đáp và cũng
không tính toán gì hết ; bố thí để tìm lấy sự
sung sướng và để yêu thương, chính đấy là cách tạo ra
những phúc hạnh lớn lao nhất. Đạo đức chính là những
gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều
duy nhất có khả năng gom tất cả chúng sinh có giác cảm lại
gần với nhau chính là Tình thương.
5-
Hãy
cám ơn kẻ thù của ta, họ là những vị thầy lớn
nhất cho ta. Họ tập ta đương đầu với khổ đau và giúp
ta phát huy sự nhẫn nhục, lòng rộng lượng và từ bi, nhưng
không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
6-
Những trang sức đẹp nhất mà ta có sẳn chính là tình
thương và lòng từ bi. Nếu ta tìm hiểu những điều
kiện nào có thể giúp ta đạt được hạnh phúc và tạo được
an vui, ta sẽ nhận thấy những điều kiện ấy nằm trong khả
năng con người và sự vận hành của tâm thức, và ta hoàn
toàn có đủ khả năng để tạo ra những điều kiện ấy.
7-
Không
thể thực hiện sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không
có sự giải trừ vũ khí trong nội tâm. Bạo lực làm
phát sinh bạo lực. Chỉ có an bình trong tâm thức mới có
thể tạo ra một sự sống trong sáng, không hàm chứa những
xung năng đối nghịch. Sự giải binh toàn cầu là một trong
những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Chỉ là một giấc
mơ thôi…
8-
Khổ
đau tinh thần và tình cảm ta đang gánh chịu chính là người
hướng dẫn vạch cho ta thấy thái độ của ta đúng hay sai.
Tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống mà ta đang sống có thể làm
nhẹ bớt hoặc vượt hẳn lên trên những khổ đau mà ta đang
phải chịu đựng, điều ấy có nghĩa là ta cần phải biến
cải sự vận hành của chính tâm thức ta.
9-
Hãy biết hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác,
vì mỗi một dịp may như thế đồng thời cũng là một phút
giây vui sướng cho riêng ta. Hãy hân hoan khi ta được hạnh
phúc, bởi vì yêu thương kẻ khác khó có thể thực hiện
được nếu ta quên yêu thương lấy chính ta, và sự hân hoan
đó sẽ giúp ta tin tưởng và vững tâm hơn. Tùy vào cách cảm
nhận trước những cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu,
mà các thể dạng như trung hoà, hạnh phúc hay khổ đau sẽ
phát sinh trong cuộc sống của chính mình.
10-
Yêu
thương và từ bi sẽ xoá bỏ mọi sợ hãi khi phải sống,
vì khi nào những xúc cảm tich cực ấy hiển lộ trong ta, sự
vững tin sẽ hiển hiện trong nội tâm và sự sợ hãi sẽ
tan biến. Chính tâm thức ta tạo ra cái thế giới mà ta đang
sống.
11-
Tập khắc phục tâm thức chẳng những sẽ giúp
ta sống trong an bình với chính ta mà đối với kẻ khác nữa,
điều ấy cũng giúp ta tìm thấy sự hoan hỷ cho nội tâm trong
bất cứ trạng huống nào mà ta vấp phải. Không có một điều
gì hay bất cứ ai có thể làm cho một người khác cảm thấy
bất hạnh, nếu người này có một tâm thức tinh khiết đã
loại bỏ được những xúc cảm phát sinh từ những xung năng
đối nghịch.
12-
Chúng
ta không thể nào tìm thấy hạnh phúc nếu chỉ biết ham thích
ảo giác và không nhìn thẳng vào hiện thực. Hiện
thực không tốt đẹp cũng chẳng sấu xa. Vạn vật là như
thế, không thể nào bắt buộc chúng phải hiển hiện đúng
với ý muốn của riêng ta. Thấu hiểu và chấp nhận điều
ấy chính là một trong những chìa khoá của hạnh phúc.
13-
Phật giáo giảng rằng giây phút trước khi chết thật
hệ trọng, bởi vì những giây phút đó là dịp may
cuối cùng giúp ta hiện hữu trong giai đoạn trung ấm (bardo)
– tức thế giới chuyển tiếp giữa cái chết và sự tái
sinh – xảy ra sau khi đã trút hơi thở cuối cùng. Để có
thể sống với một tâm thức an bình trong những giây phút
cuối cùng phải chuẩn bị suốt một cuộc đời tu tập, và
trong những giây phút ấy cần phải tập trung tâm thức hướng
vào những xúc cảm nhân từ thật sâu xa, hoặc hướng vào
mối giây tình cảm buộc chặt thầy và môn đệ, hoặc hướng
vào Tánh không và Vô thường, làm được như thế ta sẽ tái
sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp. Những giây phút trước
khi lâm chung thật quan trọng vì đó là lúc ta nắm giữ trong
tay phần số của ta trong kiếp tái sinh.
Khi
đã hiểu được cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào
sẽ giúp ta sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại và nằm
xuống trong an bình.
14-
Giận
dữ và hận thù cần có một đối tượng để bộc phát,
giống như lửa cần có củi khô để cháy. Khi phải đối
đầu với những hoàn cảnh hận thù, chẳng hạn có kẻ muốn
khiêu khích hay tìm cách ám hại, ta hãy dùng sức mạnh của
nhẫn nhục để chận đứng ngay sự chi phối của những xúc
cảm tiêu cực có thể xảy ra. Nhẫn nhục phát sinh từ khả
năng chịu đựng, đừng để bất cứ gì làm cho ta dao động,
dù trong tình huống nào cũng thế. Nếu biết dựa vào nhẫn
nhục, sẽ không có một kẻ nào đủ sức khuấy động được
tâm thức ta.
15-
Hãy tổ chức sự sống của ta nhắm vào những gì hàm
chứa một giá trị đích thực có thể đem đến một ý nghĩa
cho sự sống của ta, nhưng không nên hướng vào lạc
thú và cuộc sống phù phiếm, cuốc sống ấy chỉ đẩy ta
xa thêm, ra bên ngoài sự sống của chính ta. Hãy xây dựng
một cuộc sống dựa vào một trách nhiệm quan trong nhất,
đó là trách nhiệm mà ta phải phục vụ kẻ khác.
16-
Không có một hành vi đạo hạnh nào gọi là nhỏ
hay lớn, bởi vì mỗi hành vi đạo hạnh đều góp phần vào
sự xây dựng hoà bình trên thế giới này. Điều đáng kể
duy nhất là hiến dâng tất cả cho kẻ khác và lấy đó làm
niềm hạnh phúc. Phẩm tính lớn nhất của khả năng con người
là lòng vị tha.
17-
Đừng
đánh mất thì giờ vì ganh tị và cải vả. Hãy suy
tư về vô thường để ý thức được giá trị của sự sống.
Nếu muốn thực hiện an bình trong tâm thức và trong tim, cần
phải thay đổi những thói quen suy nghĩ có sẳn trong đầu.
Nếu không muốn hoá điên vào lúc bắt buộc phải rời bỏ
thế giới này, thì ta phải tu tập ngay từ bây giờ để hiểu
rằng không nên bám víu vào mọi sự vật và đừng mơ tưởng
đó là những thứ mà rồi đây ta có thể mang theo khi chết.
18-
Đừng
bỏ mặc tấm thân này, cũng đừng quan tâm đến nó một cách
quá đáng, nhưng phải kính trọng nó và chăm sóc cho
nó như một thứ dụng cụ quý giá và cần thiết có thể
góp phần giúp cho tâm thức đạt được Giác ngộ.
19-
Hành
vi mà ta thực thi phản ảnh từ tư duy và xúc cảm của chính
ta. Tự nơi chúng, những hành vi ấy không mang tích cách
tích cực hay tiêu cực, tích cực hay tiêu cực tùy thuộc vào
những ý đồ tiềm ẩn đã thúc đẩy ta. Ý đồ sẽ giữ
vai trò quyết định cho nghiệp, tức quy luật về nguyên nhân
và hậu quả, nghiệp sẽ tạo ra cho ta một cuộc sống và
trong cuộc sống ấy ta sẽ có cảm giác như là đang hạnh
phúc hay đang khổ đau.
20-
Bố
thí trước hết phải tập thế nào để đừng va chạm đến
tự ái và làm tổn thương kẻ khác. Làm được như
thế có nghĩa là tránh không làm hại đến chính ta, vì làm
tổn thương kẻ khác chính là tự làm tổn thương đến ta
trước đã.
21-
Không
thể nào nắm bắt được hiện tại. Không có gì tồn tại
trong thế giới này, không có gì tự nơi chúng có thể hiện
hữu được. Vậy thì, cố gắng nắm bắt và chiếm
giữ những đối tượng của các giác quan mà ta cảm nhận
được trong hiện tại để làm gì ? Chúng không mang một thực
thể nào cả. Chúng chỉ là hậu quả của trùng trùng điệp
điệp những nguyên nhân và điều kiện khác đã tác tạo
ra chúng. Chúng không sinh ra để tồn tại bởi vì chúng biến
đổi từng giây phút một. Do đó, chớ nắm bắt gì cả.
22-
Tham
vọng không kềm giữ được sẽ biến tâm thức con người
thành nô lệ và sẽ không bao giờ để cho tâm thức được
yên, khi nào ham muốn lạc thú vẫn còn thúc đẩy tâm
thức để tạo ra vô số cảnh huống khác nhau trong mục đích
giúp thoả mãn những tham vọng trong sinh hoạt hằng ngày, thì
khi đó tâm thức vẫn còn nô lệ và bất an. Tham vọng khi
đã được kềm chế và khắc phục sẽ giải thoát con người
ra khỏi mọi hoàn cảnh, dù là hoàn cảnh hạnh phúc hay khổ
đau cũng thế, và sẽ đem đến an bình trong tim và trong tâm
thức.
23-
Trau
dồi nhẫn nhục là tập phát huy lòng từ bi hướng vào những
kẻ đã đem đến thương tổn cho ta, nhưng không phải
vì thế mà chấp nhận cho họ tàn phá ta. Lòng từ bi là vị
lương y tốt nhất để chữa chạy cho tâm thức. Từ bi sẽ
giải thoát cho ta trước những bám víu và những xung năng
đối nghịch.
24-
Chỉ
vì vô minh và thiếu nhận xét minh bạch, nên ta tiếp tục
tạo ra những điều bất hạnh cho chính ta. Tâm thức luôn luôn bị giằng co giữa những gì ta ưa thích và ghét
bỏ. Ta hành động giống như có thể lẩn tránh được những
cảnh huống đang hiện ra với ta. Ta quên mất là tất cả
không có gì tồn tại và tự nó hiện hữu. Ta cũng quên là
ta có thể chết bất cứ lúc nào.
25-
Bám
víu vào những đối tượng của giác cảm sẽ làm cho tâm
thức thèm thuồng và bịnh hoạn. Tom góp được nhiều
của cải không có nghĩa là làm cho tâm thức được an bình
một cách tương xứng. Hãy nhìn vào những kẻ có đầy đủ
tiện nghi vật chất, họ có thể tự cung phụng cho đến hết
cuộc đời, nhưng họ vẫn sống trong buồn bực, lo âu, bất
toại nguyện và khép kín. Họ không hiểu rằng hiến dâng
sẽ đem đến niềm hân hoan to lớn nhất. Họ không thể hiểu
được là không cần phải có thật nhiều của cải mới đủ
sức hiến dâng một nụ cười để giúp cho kẻ khác được
sung sướng. Những điều kiện vật chất của họ thật đầy
đủ, nhưng không đem đến cho họ một mảy may hạnh phúc,
vì chưng chỉ có một thứ duy nhất có thể cải thiện được
cuộc sống nội tâm trong bất cứ hoàn cảnh vật chất nào,
ấy chính là sự tu sửa tâm linh.
26-
Tôi
ước nguyện sẽ xử dụng không dám phí phạm một giây phút
nào trong sự hiện hữu của tôi để góp phần vào việc giải
thoát chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân
gây ra khổ đau và giúp chúng sinh tìm thấy hạnh phúc cũng
như nhìn thấy những nguyên nhân nào sẽ đem đến hạnh phúc.
Tôi xin phát nguyện để ghi nhớ rằng phát lộ lòng từ bi
đối với chúng sinh khởi sự bằng từ bi đối với chính
mình, nhưng không hàm chứa một chút bóng dáng nào của sự
ích kỷ, vì mỗi người trong chúng ta đều là thành phần
của cộng đồng chúng sinh.
27-
Phương
pháp thiền định phân tích đem đến sự vững tin giúp
ta biến cải tâm thức. Sự biến cải đó đòi hỏi nhiều
thời gian, và cách tập luyện cũng rất gần với các phương
pháp khoa học. Những xúc cảm làm đảo điên và kích động
ta là những đối tượng giúp cho cho ta quan sát, để từ đó
chọn lấy những liều thuốc hoá giải hiệu nghiệm nhất
khả dĩ giúp đạt được mục đích mong muốn, tức giải
thoát ta ra khỏi ảnh hưởng của những xúc cảm bấn loạn
để đạt được Giác ngộ. Nên ghi nhớ rằng hai thể dạng
xung khắc nhau không thể nào hội nhập chung với nhau cùng
một lúc trong tâm thức. Vì thế, thí dụ nếu ta đang nổi
giận với một người nào đó, hãy nghĩ ngay đến việc phát
lộ tình thương đối với người ấy. Nếu ta phát lộ được
yêu thương, giận dữ sẽ biến mất trong tâm thức. Tình thương
là liều thuốc hoá giải sự giận dữ.
28-
Tất
cả đều mang tính cách vô thường, nhờ đó ta có thể
biến cải được tâm thức và những xúc cảm bấn loạn làm
dấy động tâm thức. Chẳng hạn như hận thù hay giận dữ,
chúng phải tùy thuộc vào bối cảnh để hiển hiện. Tự
nơi chúng, chúng không phải là những hiện thực, chúng không
hiện hữu một cách thường xuyên trong tâm thức ta, vì thế
ta có thể khắc phục, biến cải và loại trừ chúng được.
Để giúp thực hiện việc ấy, cần nhất là phải tái tạo
chúng trong bối cảnh mà chúng đã phát sinh, phân tích bối
cảnh nào đã làm cho chúng bộc phát và tìm hiểu nguyên do
của sự bộc phát ấy. Thực hiện được một thể dạng
phúc hạnh lâu bền có nghĩa là loại trừ ra khỏi tâm thức
những xúc cảm tiêu cực.
29-
Khổ
đau không phải phi lý nhưng cũng không phải vô ích,
chẳng qua chỉ vì nghiệp mà chúng phát sinh, nghiệp ở đây
có nghĩa là quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối chu
kỳ của mọi hiện hữu. Chu kỳ hiện hữu có thể sẽ khó
hiểu nếu không tin vào hiện tượng tái sinh. Tư tưởng và
hành vi của ta trong nhiều kiếp sống liên tiếp từ trước
sẽ tạo ra hậu quả tích cực hay tiêu cực tùy theo ý đồ
thúc đẩy làm phát sinh ra tư tưởng và hành vi. Nguyên tắc
ấy cũng xảy ra chung cho cả một dân tộc hay một quốc gia.
Những gì xảy ra cho dân tộc Tây tạng là hậu quả của nghiệp.
Nhưng điều ấy cũng không cấm cản đi tìm một giải pháp
làm thế nào để nhân quyền ở Tây tạng được tôn trọng,
kể cả nền văn hoá ngàn năm, tư tưởng triết học và tôn
giáo đặc thù của nền văn minh chúng tôi. Không nên hiểu
lầm nghiệp với định mệnh, nhưng phải rút tỉa kinh nghiệm
từ những bài học mà ta gặp phải trong sự sống để hành
động trong chiều hướng tích cực và ý thức.
30-
Làm
thế nào để có thể phát triển hoà bình trên thế giới
nếu chúng ta không biết kính trọng thiên nhiên ? Từ
con người đến muôn thú, tất cả đều liên kết với nhau
trong một ước vọng chung có tính cách phổ quát, tức lẩn
tránh khổ đau và tạo được những điều kiện thuân lợi
đem đến an lành và bình an cho sự sống. Thật hết sức quan
trọng phải luôn luôn tự nhắc nhở về điều ấy, vì lẽ
lẩn tránh khổ đau là quyền căn bản của mọi chúng sinh
có giác cảm. Để giúp cho mọi người biết tôn trọng cái
quyền căn bản đó, chính chúng ta phải làm gương cho kẻ
khác trước đã.
31-
Thực
thi từ bi là tâm điểm của việc tu tập Phật giáo.
Phát huy phẩm tính ấy thật cần thiết vì nó sẽ giúp ta
hành động một cách đúng đắn để đem đến an vui cho kẻ
khác và đồng thời thực hiện được từ bi cũng sẽ giúp
ta không gây thêm những nguyên nhân mới tạo ra khổ đau cho
chính mình và cho kẻ khác, tức không tạo thêm những nghiệp
« xấu ». Từ bi là một thứ xúc cảm sâu xa phát lộ không
một mảy may phân biệt trước tất cả mọi con người đang
phải gánh chịu khổ đau. Từ bi phát sinh từ uớc vọng sâu
xa được giúp đỡ kẻ khác. Trong việc tu tập Phật giáo,
muốn duy trì sức mạnh của ước vọng đó, hằng ngày phải
lập đi lập lại lời nguyện ước như sau : « Tôi nguyện
ước sẽ giúp đỡ mọi chúng sinh có giác cảm loại trừ
được khổ đau và các nguyên nhân gây ra khổ đau và cũng
giúp chúng sinh thấu hiểu được nguyên nhân và những điều
kiện nào có thể giúp họ đạt được giác ngộ ».
32-
Tất
cả chúng ta đều mong ước được hạnh phúc, không ai muốn
khổ đau, nhưng điều quan trọng là ta có muốn biến
cải tâm thức ta hay không. Khi ý thức được sự cần thiết
đó, một sự dịu dàng bao la và một tình thương vô biên
đối với đồng loại sẽ nảy sinh trong tâm thức. Nhưng chỉ
có thể thực hiện được điều ấy khi nào ta đủ sức biết
tỏ lộ tình thương và sự kính trọng đối với chính ta.
Thật là hão huyền nếu tin rằng ta có đủ sức yêu thương
kẻ khác trong khi ta thù ghét chính ta và không chấp nhận thực
trạng của chính ta.
33-
Nguyên
lý tương liên giữa chúng sinh và mọi hiện tượng cho thấy
ta luôn luôn liên hệ chặt chẽ với kẻ khác, với thiên nhiên
và cả vũ trụ. Tất cả chúng ta đều tương liên với
nhau, điều ấy có nghĩa là chúng ta phải gánh chịu trách
nhiệm về cách suy nghĩ, cách sinh sống và từng hành vi nhỏ
nhặt, vì chúng sẽ ảnh hưởng chung đến toàn thể vũ trụ.
Hơn nữa, vì chưng tất cả những gì hiện hữu đều tương
tác chặt chẽ với nhau, nên chúng ta có bổn phận phải giúp
đỡ tất cả chúng sinh có giác cảm loại bỏ khổ đau, để
tất cả có thể nhìn thấy nguyên nhân của hạnh phúc. Giúp
đỡ chúng sinh có nghĩa là ta cũng phải biết chận đứng
các nguyên nhân đưa đến khổ đau liên quan trực tiếp đến
chính ta. Hiểu được như thế mới thật sự hiểu được
nguyên lý tương liên.
34-
Dù
cho có hay không có một vị thầy đứng ra giúp đỡ, thì mỗi
người trong chúng ta cũng phải tự tìm lấy một phương cách
tu tập thích nghi nhất cho mình, thích hợp với những nhu cầu
riêng của mình. Tiêu chuẩn trên đây hết sức cần
thiết để biến cải nội tâm, đem đến an bình cho tâm thức
và phát huy các phẩm tính tích cực để tự biến cải để
trở thành một người tốt. Vì thế, một vị tu hành phải
biết thuyết giảng như thế nào cho phù hợp với xu hướng
tâm linh và khả năng tinh thần của từng người, giống như
Phật đã từng thuyết giảng khi còn tại thế trong thời đại
của Ngài. Cũng thế, quý vị đâu có ăn uống giống như những
người hàng xóm của quý vị – mỗi người ẩm thực tùy
theo cấu tạo cơ thể của mình –, đối với những món ăn
tinh thần cũng thế mà thôi.
35-
Hạnh
phúc của chính ta lệ thuộc vào hạnh phúc của kẻ khác,
vì thế thật hết sức hệ trọng phải cố gắng làm tất
cả những gì làm được để giúp kẻ khác đạt được hạnh
phúc. Đôi khi ta cũng có cảm giác bất lực không làm
nổi hoặc không đủ sức cứu giúp kẻ khác, nhưng dù sao
điều quan hệ là đừng thất vọng và cứ cố gắng tiếp
tục hành động trong chiều hướng tích cực, vì làm như thế
ta mới có thể khai triển trong ta khả năng phát huy lòng vị
tha đích thực giúp ta thực hiện sự an bình trong tâm thức.
36-
Nếu như giúp đỡ kể khác tỏ ra quá khó đối với ta, thì
cứ hành động như một người ích kỷ cũng được, nhưng phải thông minh, tức bằng cách cố gắng hiểu rằng làm được
điều tốt cho kẻ khác sẽ tạo ra mối giây liên hệ thân
thiện hơn với họ, và như thế sẽ tạo ra những điều kiện
thuận lợi giúp đạt được hạnh phúc và sự trong sáng cho
chính ta.
37-
Các
phương pháp thực thi lòng từ bi phải được phát triển song
hành với sự hiểu biết và trí tuệ, trong mục đích
giúp ta hành động đúng đắn và thích nghi. Sự hiểu biết
và trí tuệ không thể thiếu sót trong việc tìm hiểu bản
thể đích thực của vạn vật, và cả bản thể căn bản
của tâm thức. Một sự thẩm định chính xác những gì ta
cảm nhận và những gì ta đang sống chỉ có thể thực hiện
được bằng cách quan sát một vật thể hay một cảnh huống
dưới nhiều góc cạnh khác nhau, trong mục đích tìm lấy một
giải đáp thích nghi và thật minh bạch giúp ta vượt lên trên
những phản ứng và những xúc cảm tiêu cực.
38-
Muốn
đạt được Giác ngộ, điều quan trọng là phải cảm nhận
một cách đúng đắn thực tại. Trong cách tu tập Phật
giáo, và trong mục đích giúp cho sự cảm nhận được dễ
dàng hơn, ta phải cần đến hai khái niệm gọi là hai sự
thực, sự thực tương đối và sự thực tuyệt đối. Sự
thực tương đối là sự thực mà ta cảm nhận được bằng
các giác quan của ta. Sự thực tuyệt đối không mô tả ra
được bởi vì nó vượt lên trên mọi khái niệm. Theo kinh
sách, hai sự thực đó bổ khuyết cho nhau, không thể tách
rời khỏi nhau và luôn luôn lệ thuộc lẫn nhau, giống như
con chim cần có đôi cánh để bay bổng. Hiện thực chính là
cách ý thức căn cứ đồng loạt trên cả hai sự thực ấy.
(Lời
ghi chú thêm của người dịch : sự thực tương đối là sự
thực quy ước và nhị nguyên, nhận biết được bằng giác
cảm và bằng sự hiểu biết công thức và quy ước, sự thực
tương đối ấy luôn luôn biến động và đổi thay, tức nằm
trong quy luật của vô thường. Sự thực tuyệt đối là Tánh
không, tức bản chất đích thực và tối hậu của của mọi
vật thể và hiện tượng, sự thực tuyệt đối vượt lên
trên mọi hiểu biết nhị nguyên, đối nghịch và quy ước).
39-
Thông
thường ta cảm nhận bản chất của mọi vật thể một cách
sai lầm. Sự sai lệch giữ những gì đúng thực và những
gì ta cảm nhận chính là nguyên nhân đưa đến khổ đau.
Biến cải tâm thức để nhìn thấy hiện thực tức là cách
tập nhìn hiện thực đúng với hiện thực, không diễn đạt,
trung thực trong giây phút hiện tại. Ta sẽ không còn nắm
bắt hiện thực tùy thuộc vào những phóng ảnh của tâm thức
nữa. Đó là điều kiện căn bản để phát huy an bình trong
tâm thức.
40-
Đứng
trước khổ đau của kẻ khác, có thể ta sẽ cảm thấy bấn
loạn và bị tràn ngập bởi những khổ đau của họ, và sự
liên lụy đó chỉ làm gia tăng thêm những khó khăn cho chính
ta. Những cảm nhận ấy không phải là những kinh nghiệm
phát sinh từ lòng từ bi. Lòng từ bi khi đã hiển lộ đích
thực, thay vì cảm thấy bất an và lo âu, một sự can đảm
vô biên hiển hiện trong ta. Ước vọng làm bất cứ gì có
thể được để làm nhẹ bớt khổ đau cho kẻ khác, sẽ giúp
ta vượt lên trên những khổ đau của chính ta. Hành động
vì từ bi sẽ đem đến niềm hân hoan vô biên.
41-
Những
vật thể cấu hợp chỉ để tan biến mà thôi, chúng đều
vô thường, nhất thời và giai đoạn. Thân xác ta cũng
thế, nhưng tiếc thay ta thường hay quên chuyện ấy, chẳng
qua vì ta quá bám víu vào thân xác. Đối với một số người,
ý thức được sự thực ấy sẽ làm cho họ khổ đau vô ngần.
Nhận thức được thế nào là bản thể đích thực của mọi
vật, ta sẽ chấp nhận chẳng có gì tự nó hiện hữu, kể
cả bản chất của khổ đau cũng thế, cũng phù du, nhất thời
và không tự nó hiện hữu. Nắm vững được điều ấy sẽ
giúp ta thêm can đảm mỗi khi gặp phải những cảnh huống
khó khăn và bực dọc trong sự sống hoặc phải đối đầu
với một số thử thách nào đó.
42-
Một
số tham vọng hay ước muốn có thể chấp nhận được trên
đường tu tập tâm linh. Chẳng hạn, một người tu
tập Đạo Pháp thì ước mong khắc phục được tâm thức,
một kẻ nào đó tin có Trời thì ước vọng làm cho Trời
được vui lòng. Những ước vọng như thế đều là những
ước vọng chính đáng. Trái lại, những ham muốn hướng vào
những sự vật bên ngoài sẽ tạo ra bám víu hay những xúc
cảm tiêu cực trong tâm thức, những ham muốn ấy thật không
chính đáng một chút nào cả. Cần phải giới hạn những
loại thèm muốn hay lệ thuộc đó. Quả thật là một ảo
giác khi nghĩ rằng thế giới bên ngoài một ngày nào đó sẽ
có thể làm thoả mãn được những dục vọng của ta.
43-
Người
Tây tạng rất quan tâm đến việc mang thai, từ khi thụ thai
đến suốt thời gian hài nhi còn trong bụng, người mẹ phải
giữ tinh thần thật thanh thản, hạnh phúc và an bình để
hài nhi được nẩy nở một cách hài hoà. Trong thế
giới Tây phương, càng ngày người ta càng khuyến khích cách
giữ gìn ấy và ý thức rằng một người mẹ lo âu, giận
dữ, tham lam, ganh ghét, sẽ làm cho hài nhi trong bụng phải
gánh chịu những hậu quả không tốt. Chúng ta cũng nên khuyến
khích người mẹ cho con bú nếu có thể được, vì sữa mẹtượng trưng cho lòng thương mến của con người. Các khám
phá y khoa cũng cho biết sự chăm lo và âu yếm giữ một vai
trò quan trọng trong sự phát triển của bộ nảo.
44-
Tu
tập tâm thức đôi khi có vẻ như khó thực hiện đối với
những người phương Tây trong khung cảnh sinh hoạt của xã
hội tân tiến. Những còn tùy vào là sức mạnh của
quyết tâm, vì sức mạnh đó sẽ đem đến lòng nhiệt tâm
vô biên giúp ta bước thẳng vào sự tu tập, dù đang ở trong
bất cứ một hoàn cảnh nào. Vì thế, nếu thực tâm, ta vẫn
có thể khởi sự ngay việc tu tập để biến cải tâm thức,
dù đang phải tiếp tục quan tâm đến các hoạt động nghề
nghiệp, đời sống gia đình, các sinh hoạt và bổn phận hàng
ngày.
45-
Biến
cải tâm thức, phát triển khả năng yêu thương và lòng từ
bi để tự cải thiện lấy ta, tất cả đều do nơi sức mạnh
của lòng quyết tâm. Để củng cố và làm bộc phát
sức mạnh đó, cần phải quay nhìn vào nội tâm, quan sát lấy
chính ta một cách cẩn thận, gia tăng ước vọng muốn được
cải thiện và học hỏi. Nhờ vào trí thông minh, ta củng cố
thật vững chắc vị thế tích cực ấy và rồi trí tuệ sẽ
tăng trưởng một cách tương xứng. Ít ra trong bước đầu
trên đường tu tập, cách tiến hành như trên đây cần dựa
vào trí tuệ và lý trí.
46-
Sinh hoạt nghề nghiệp thường nhật trói buộc mọi người
rất nhiều, nhưng điều đó đâu cấm cản được họ giải
trí, đi dạo mát, đi chơi cuối tuần và nghỉ hè. Nếu như
ta thật sự ước muốn tự biến cải, thì ta vẫn có thể
tìm được thì giờ để thực hiện việc ấy. Chỉ cần ước
muốn thật sâu xa.
47-
Giai đoạn đầu lúc mới bước vào con đường tu tập tâm
linh có thể rất chông gai. Nhưng sau đó, khi đã có kinh nghiệm,
ước vọng và quyết tâm tu tập sẽ từ từ trở nên vững
vàng, kiên quyết và hăng hái hơn, giúp ta cải thiện tâm thức
trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là nơi làm việc hay trong
gia đình, hoặc trong khi sinh hoạt thường nhật. Và từ đó
ta sẽ trở nên tỉnh táo và chăm chú hơn. Cách tu tập ấy
sẽ phản ảnh qua sinh hoạt và cách xử sự của ta đối với
kẻ khác.
Tu
tập Đạo Pháp tức là ra sức tu sửa trong từng giây phút
một, vì thế phải sử dụng thì giờ một cách thật ý thức.
48-
Nếu ta cảm thấy ghen ghét một đồng nghiệp khi người này
thành công hơn ta, hoặc ganh tị khi thấy một kẻ nào đó
có một vật gì quý giá, thì hãy tìm cách biến đổi ngay
tâm thức bằng một liều thuốc hoá giải chống lại những
xúc cảm tiêu cực ấy. Trong các trường hợp vừa kể, phải
tập phát lộ sự hân hoan và vui sướng trước hạnh
phúc của kẻ khác.
49-
Không có một ranh giới nào có thể ngăn cản lòng nhiệt tâm
của ta trước ước mong tìm hiểu tâm linh và khả năng phát
huy những phẩm tính con người. Ta có thể ước muốn không
giới hạn đối với những điều ấy, không bao giờ có thể
gọi là đủ những thành quả đã đạt được.
Vì
thật sự, phát lộ lòng từ bi, tình thương và rộng lượng
không bao giờ có thể gọi là đầy đủ ?
Ức
vọng phát huy những phẩm tính nội tâm ấy phải thật
sâu xa, không lệ thuộc và vô giới hạn.
50-
Ta phải canh chừng, nếu những động cơ thúc đẩy ta mang
tính cách nhân từ, thì hành vi trên thân xác, ngôn từ và
cả tâm thức cũng sẽ ảnh hưởng theo. Biến cải thói quen
tinh thần thật cần thiết để cải thiện tâm thức và những
hành vi xuất phát từ tâm thức. Thật quan trọng phải tránh
không tạo ra sự lầm lẫn cho kẻ khác, phải chú tâm không
để bị chi phối bởi kiêu ngạo, ganh ghét, không để cho
sự tính toán hơn thua lôi cuốn ; khi nào những xúc cảm tiêu
cực không còn xâm chiếm ta nữa, thì cách cư xử của ta cũng
sẽ biến đổi theo, ta biết thương người hơn và đồng thời
cách xử thế của ta cũng sẽ đem đến lợi ích và tốt đẹp
cho kẻ khác.
51-
Mỗi con người đều có một bản chất riêng và xu hướng
khác nhau, vì thế thật khó để bảo rằng một thứ gì đó
lại có thể hữu ích chung cho tất cả mọi người. Tuy nhiên,
tôi vẫn có thể khuyên nhủ mọi người hãy trau dồi tinh
thần giác ngộ, ý tưởng thương người, tự cải thiện để
giúp đỡ kẻ khác và suy tư về vô thường dưới tất cảmọi khía cạnh.
Vô
thường « thô thiển » dễ nhận biết vì nó biểu lộ trong
mọi thể dạng vật chất của sự hiện hữu, nhưng vô thường
« tinh tế » cũng đang hiển hiện từng giây phút một trong
ta, chung quanh ta và cả trong tâm thức ta. Suy tư về vô thường
sẽ giúp hiểu được bản chất đích thực của khổ đau,
điều đó cũng giúp tránh khỏi những điều kiện và nguyên
nhân tạo tác ra thể dạng tiêu cực trong các kiếp sống của
ta, và cũng sẽ giúp ta phát huy an bình trong tâm thức.
52-
Chúng ta thường đặt tầm quan trọng quá lớn cho quá khứ
và tương lai. Ta sống và xem quá khứ lẫn tương lai đang hiện
hữu rành rành ra đó, để rồi ta quên sống với hiện tại.
Thật ra, sống trong giây phút hiện tại quan trọng hơn nhiều,
vì đó là giây phút duy nhất mà ta có thể thật sự hành
động để biến cải tâm thức và phát huy những xúc cảm
tích cực hướng ta vào việc giúp đỡ kẻ khác.
53-
Thiền định và suy tư giúp ta nắm bắt hiện tại dễ dàng
hơn, và sống với hiện tại một cách trong sáng hơn, không
phóng nhìn vào quá khứ hay tương lai để khỏi bị ám ảnh
bởi những gì có thể làm cho ta thích thú hay ghét bỏ. Khi
ta gặp một khó khăn nào đó, cần nhất phải đánh giá biến
cố ấy đúng với tầm quan trọng của nó. Nếu có giải pháp
thì đem ra thực hành ngay. Nhưng nếu không có giải pháp thì
dù có lo âu cũng vô ích, chỉ làm tăng thêm sự bất an cho
ta mà thôi. Vậy thì lo âu để làm gì ?
Nếu
phân tích các nguyên nhân và điểu kiện gây ra tình huống
đó, ta sẽ nhận thấy con số nguyên nhân và điều kiện nhiều
vô kể. Biết phát huy tầm nhìn bao quát trên những gì ta đang
sống sẽ giúp ta không còn đổ lỗi cho một nguyên nhân duy
nhất hay một kẻ duy nhất đã gây ra khổ sở hay đem đến
phúc hạnh cho ta, điều đó cũng giúp ta phân tích chính xác
hơn những gì xảy đến cho ta và giúp ta bớt lệ thuộc vào
những nguyên nhân bên ngoài.
(Giải
thích thêm của người dịch : nguyên nhân và điều kiện là
những gì thuộc quy luật tương liên của vạn vật, tất cả
mọi hiện tượng đều liên hệ và tương tác chằng chịt
với nhau, không thể tách rời để quy tội hay gán phúc cho
bất cứ một nguyên nhân hay một điều kiện nào. Có thể
hiểu đơn giản là mọi biến cố bên ngoài chỉ là duyên,
chúng tương tác với nghiệp tức ý đồ và hành vi của ta,
để tạo ra quả cho chính ta).
54-
Tư duy và xúc cảm tiêu cực che lấp bản thể đích thực
của ta, một bản thể thật rạng ngời. Tư duy và xúc cảm
tiêu cực lại quá nhiều, nếu ta không đủ sức khắc phục
chúng, chúng sẽ lôi kéo ta đi đâu tùy ý chúng. Dù cho ta không
phải là một Phật tử đi nữa, ta vẫn có thể suy nghĩ và
tự hỏi xem ta có dám quả quyết và không sợ sai khi phát
biểu như sau : « Có một ‘’ cái tôi’’ và nó đang suy
nghĩ rằng chính ‘’ tôi ‘’ đây ».
Cũng
thế, có đúng là có một « cái tôi » và một cái «
ngã » đang ở một vị trí nào đó hay không ? Tu tập và biết
suy tư sẽ giúp ta phân biệt được giữa một người đang
cảm nhận xúc cảm (chẳng hạn như ganh ghét, giận dữ, hận
thù) với chính xúc cảm đang hành hạ người đó. Khi đã
quen dần, ta sẽ xác định dễ dàng hơn những gì đang xảy
ra trong ta để tách riêng những thứ đó với phần tâm thức
đang đứng ra kích động chúng, ấy cũng là cách giúp cho ta
chủ động được chúng.
55-
Khi bị căng thẳng, lo âu, và không thể tự kềm chế được,
nhưng nếu biết nhìn vào « cái tôi » và quan sát « nó »
đang lo âu và đang thao túng ta, và sau đó chịu khó tìm hiểu
bản chất đích thực của « cái tôi » ấy là gì, thì cách
quan sát nội tâm như thế sẽ giúp ta làm nhẹ bớt đi những
lo sợ đang phát hiện trong ta.
(Giải
thích thêm của người dịch : nếu « cái tôi » làm đối
tượng không có thì những tác nhân lo âu và căng thẳng sẽ
không tạo ra được một hiệu quả nào, đồng thời nếu
« cái tôi » làm chủ thể cũng không có, thì « nó » cũng
không thể gây ra một tác động nào)
56-
Tìm hiểu thế nào là sự tương liên giữa con người và mọi
hiện tượng sẽ giúp phát huy đức tính bất bạo động và
đem đến hoà bình cho toàn thể thế giới và trong mỗi con
người. Nguyên lý tương liên là một trong những nguyên lý
căn bản trong giáo lý nhà Phật. Tất cả mọi vật thể, tất
cả mọi sinh linh chỉ có thể hiện hữu bằng cách tương
liên với những sinh linh khác và cả thế giới này. Không
có gì tự nó hiện hữu, tất cả phải lệ thuộc vào một
chuỗi dài nguyên nhân và điều kiện, các nguyên nhân và điều
kiện lại tiếp tục lệ thuộc lẫn nhau.
57-
Các hiện tượng đều biến đổi không ngừng vì nguyên lý
tương liên giữa mọi sinh linh và hiện tượng. Chúng ta đang
biến đổi không ngừng vì các nguyên nhân và điều kiện
tương liên với nhau. Nhưng người ta lại thường có khuynh
hướng đổ lỗi cho một nguyên nhân chính yếu duy nhất mà
thôi, dù cho đấy là một nguyên nhân tốt hay xấu cũng thế.
Người
ta thường huy động tất cả sức lực để đạt được nguyên
nhân này hay loại trừ nguyên nhân khác, tùy theo các đấy
là một nguyên nhân ích lợi hay nguy hại.
Thái
độ như thế cho thấy ta không hiểu gì cả về nguyên lý
tương liên giữa tất cả mọi sinh linh và mọi hiện tượng.
58-Không thể có một nguyên nhân duy nhất hay một con người
duy nhất tạo ra phúc hạnh hay khổ đau cho ta. Muốn nắm vững
điều đó, cần phải có một tầm nhìn thật bao quát, trên
toàn diện mọi sự vật, và biết mở rộng sự hiểu biết
của ta về hiện thực. Nói như thế để thấy rằng những
gì ta đang sống là kết quả của vô lượng nguyên nhân và
điều kiện liên kết với nhau.
Vậy
thì, thật hết sức hoài công khi quy lỗi cho một kẻ nào
đó chẳng hạn, một kẻ duy nhất nắm giữ quyền lực tạo
ra cảnh huống khổ sở cho ta. Vì lý do vừa kể, hãy thay đổi
cách cư xử đừng để thốt lên : « tại vì lỗi của kẻ
khác », hoặc là « tại vì lỗi của hoàn cảnh đưa đẩy
».
Cách
nhận thức hiện thực như thế là sai lầm. Chính ta phải
chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong cuộc sống của
ta, dù tốt lành hay tệ hại cũng thế. Đó là quy luật của
nghiệp, quy luật của nguyên nhân và hậu quả, quy luật ấy
áp dụng đồng đều cho tất cả mọi người. Hiểu biết
và chấp nhận quy luật ấy sẽ giúp ta tìm được an bình
trong tâm thức.
59-
Người ta thường bảo rằng một người tâm trí hẹp hòi
là một người không đủ trí tuệ. Nhưng nếu người ấy
có tầm nhìn bao la hơn, người ta lại gọi người ấy là
một hiền nhân. Nắm vững nguyên lý tương liên, kèm thêm
trí tuệ và sự hiểu biết sẽ mở rộng tâm thức và giúp
ta biết lùi lại để nhìn thẳng vào những gì ta đang sống
một cách thật ý thức.
60-
Đề cập đến quy luật tương liên, hiểu được nguyên lý
ấy là gì, có nghĩa là quan sát được bản thể đích thực
của vạn vật và thấy được hiện thực đang vận hành như
thế nào. Điều ấy sẽ giúp ta biến cải cách cảm nhận
về thế giới này và làm thay đổi các thói quen sẳn có cũng
như cung cách của ta.
Vì
thế, khi ta phải chịu đựng một tình huống đớn đau, tại
sao phải tự trói mình trong cảnh tuyệt vọng và tự nhủ
rằng thật bất công ? Hãy nghĩ đến tất cả những kẻ khác
cũng đang chịu đựng cùng một thứ đớn đau như ta và như
thế ta sẽ phát hiện được một tầm nhìn bao quát hơn về
vạn vật.
Hãy
nhận lãnh đớn đau và hiến dâng sức chịu đựng của ta
đến những ai đang gánh chịu cùng một thứ đớn đau như
ta để họ được nhẹ nhỏm. Mặc dù lúc đầu việc ấy
tỏ ra khó thực hiện, vì nó đòi hỏi phải dẹp bớt ích
kỷ, nhưng dần dần khi đã thành công, tự nhiên ta cảm thấy
hiển lộ một sự an bình đích thực trong tâm thức.
Loại
tu tập trên đây cũng áp dụng cho trường hợp khi ta tìm thấy
một niềm hạnh phúc lớn lao. Hãy hiến dâng hạnh phúc đó
cho tất cả chúng sinh.
61-
Trí tuệ giúp ta cảm nhận được thế nào là nguyên lý tương
liên. Sự hiểu biết lại giúp ta nhận biết được thế nào
là bản thể đích thực của vạn vật. Ghi nhớ những điều
ấy trong tâm để khai triển lòng từ bi và tình thương yêu
kẻ khác sẽ giúp ta nhận thấy rõ ràng việc phát lộ tình
thương và lòng từ bi đến kẻ khác không những sẽ đem đến
tốt lành cho kẻ khác mà còn cho cả ta nữa, ngược lại,
nếu ta gây ra thiệt hại cho kẻ khác, có nghĩa là ta tự làm
hại cho chính ta.
Trong
trường hợp thứ nhất, có hai người được lợi. Trong trường
hợp thứ hai, cả hai người đều thiệt hại.
62-
Hiểu biết được thế nào là nguyên lý tương liên sẽ rất
hữu ích để hiểu được khủng bố và cuồng tín là gì.
Người ta cứ nghĩ rằng loại bỏ được những thứ ấy là
giải quyết được vấn đề. Quả thật không thể nào không
nhìn nhận tính cách nghiêm trọng về những gì do những kẻ
cực đoan gây ra, thực thi những việc ấy là một sự sai
lầm. Nhưng ta cũng phải hiểu rằng những hành vi đó sinh
ra từ rất nhiều nguyên nhân và điều kiện. Một con số
lý do hết sức to lớn góp phần vào sự hình thành loại thái
độ ấy. Một số người vì quá lệ thuộc vào truyền thống
tôn giáo của mình thường có những quan điểm khép kín, không
nhìn thấy được hiện thực, do đó đã tạo ra cách cư xử
của họ.
Một
quan điểm bao quát và sáng suốt hơn về vạn vật trong cả
hai lãnh vực ngắn hạn và lâu dài sẽ giúp cho họ vững tâm
hơn, đạt được nhiều nghị lực hơn, và rồi hậu quả
đem đến sẽ có thể giúp họ biết chọn lấy một cách cư
xử khác hơn.
63-
Tự tạo riêng cho mình những kỷ cương là điều cần thiết
giúp biến cải nội tâm, những kỷ cương đó dù bất cứ
trong trường hợp nào cũng không thể được áp đặt từ
bên ngoài, nhưng phải phát sinh từ sự hiểu biết của ta
về vạn vật và từ những điều tốt lành mà ta có thể
rút tỉa được từ sự hiểu biết ấy, và nhất là phải
biết đem chúng ra để áp dụng vào thực tế.
64-
Muốn trau dồi nghề nghiệp hoặc muốn tìm hiểu thêm về
một chủ đề nào đó, ta sẳn sàng dành thời giờ để nghiên
cứu và thực hành. Ta suy nghĩ và xác định những gì ưu tiên,
những gì cần thiết hơn hết, và từ đó cố gắng ra sức
để thực hiện mục đích hay ước vọng đã chọn. Trong đời
sống tâm linh cũng vậy, hãy chọn lấy một kỷ cương phù
hợp với mình.
65-
Tất cả chúng ta đều là những con người như nhau, chúng
ta đều có những khát vọng giống nhau. Tôi đây cũng giống
như quý vị. Mỗi khi tôi phải đối đầu với một khó khăn
nào đó, tôi cố gắng nhìn ngược vào tâm thức tôi, phân
tích những gì đang xảy ra để tìm lấy một chút sáng suốt.
Điều đó rất tích cực và mỗi người trong chúng ta đều
có thể làm được.
Chúng
ta sống trong những xứ sở mà những điều kiện vật chất,
kỹ thuật và tiện nghi rất phát triển ; nhưng chúng ta cũng
đừng đặt tất cả ước vọng hạnh phúc của chúng ta duy
nhất vào bối cảnh bên ngoài.
An
vui, trong sáng và an bình phát hiện bên trong tâm thức. Thật
hết sức cần thiết phải cần tìm kiếm những điều kiện
nội tâm thuận lợi để làm cho chúng tăng trưởng thêm.
66-
Chúng ta phải cố gắng thực hiện sự an vui trong lâu dài.
Làm tan biến những lo âu trong chốc lát cũng dễ mà thôi.
Ví dụ như uống bia ướp lạnh giúp ta trở nên vui vẻ, nhờ
chất rượu trong bia. Sự vui vẻ đó rất hời hợt và phù
du, những mối lo buồn vẫn còn nguyên.
Muốn
kiến tạo an vui lâu dài và thường xuyên, phải cải thiện
cách vận hành của tâm thức. Đấy là những lời tôi thường
dùng để khuyên nhủ tất cả những người bạn của tôi.
67-
Không cần thiết phải theo một tôn giáo nào cả mới có thể
biến cải được tâm thức. Việc biến cải tâm thức có
thể thực hiện được đối với tất cả mọi người, không
cần đòi hỏi họ phải là một tín đồ. Các truyền thống
tinh thần có thể giúp thêm phương tiện để đạt được
mục đích ấy, nhưng không phải là một con đường không
thể thiếu sót.
Vì
lý do rõ rệt như thế, nên tôi thường nhắc nhở chỉ cần
một « nền đạo đức lâu đời »* cũng có thể đem ra áp
dụng cho tất cả mọi người, không cần phải tin tưởng
ở một tôn giáo nào cả.
(Ghi
chú thêm của người dịch : ngoài khía cạnh tôn giáo và triết
học, Phật giáo cũng là một « nền đạo đức lâu đời
», hơn hai ngàn năm trăm năm).
68-
Tất cả mọi chủ nghĩa đặc thù về tôn giáo hay văn hoá
đều đi đến chỗ lỗi thời, do đó muốn cho tất cả mọi
sinh linh có thể tìm thấy vị trí của mình trong một nền
đạo đức thế tục, thì nền đạo đức đó phải được
căn cứ trên những nguyên tắc có tầm vóc nhân loại và tính
cách toàn cầu.
Thực
hiện được như thế mới là một cuộc cách mạng tâm linh
thực sự, một cuộc cách mạng dựa trên những phẩm tính
con người, chẳng hạn như lòng từ bi, tình thương, sự rộng
lượng, biết tôn trọng, và ý thức được trách nhiệm của
mình.
69-
Vì sự tốt lành của tất cả chúng sinh, đừng gây ra sai
trái, đừng làm hại đến một sinh linh nào cả, đấy là
những gì thật căn bản được vạch ra từ nền đạo đức
Phật giáo. Căn bản đó làm nền móng cho cách cư xử bất
bạo động, lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác. Nếu
như mục đích tối hậu đem đến tốt lành và thực hiện
những nghĩa cử lớn lao cho kẻ khác là chính đáng, thì phải
nên làm bất cứ gì có thể làm được, trong từng giây phút
một, để đạt được mục đích đó.
70-
Giới luật (shila) là một trong những yếu tố giúp đạt được
Giác ngộ, các yếu tố khác là sự thiền định (samadhi),
sự hiểu biết hay trí tuệ (prajna). Các thành phần ấy bổ
khuyết cho nhau.
Sống
không giới luật là một cách sống làm hại đến kẻ khác.
Sống theo cách đó, không những ta sẽ làm những điều không
tốt lành cho kẻ khác, nhưng ta còn gieo những hạt giống khổ
đau cho chính ta. Ta phải ý thức rõ rệt điều đó trong mục
đích phát huy giới luật đạo đức, dựa trên sự hiểu biết
và trí tuệ. Khía cạnh cao nhất của đạo đức là đặt
hạnh phúc của kẻ khác lên trên hạnh phúc của chính mình.
71-
Những xúc cảm bấn loạn làm cho tâm trí u mê, không kịp
suy nghĩ đến hậu quả do các hành vi đưa đến, và những
xúc cảm ấy sẽ kích động ta xử sự một cách tiêu cực
đối với kẻ khác. Biến cải tâm thức có nghĩa là làm tan
biến hoàn toàn những yếu tố tâm thần mang tính cách tàn
phá đang ẩn trú trong ta.
Muốn
thực hiện được điều đó, ta cần suy tư và nghĩ đến
những lợi ích sẽ mang đến từ một cuộc sống đạo đức
đúng đắn và biết từ bỏ những ước mơ ích kỷ mà ta
hằng ấp ủ. Như thế, khi tập hướng sự chăm lo của ta
và những suy tư của ta đến người khác trong chiều hướng
tích cực, dần dần từng chút một, ta sẽ đạt được mục
đích tối thượng của việc thực hiện đạo đức, tức
đem đến sự tốt lành cho tất cả chúng sinh. Nhưng tất cả
những thứ ấy chỉ có thể thực hiện được khi nào ta biết
dựa vào giới luật để cư xử ngay thật, đúng đắn và
chân thành.
72-
Nếu ta hiểu rằng ta đang cất giữ trong ta một tiềm năng
vô tận giúp ta tỏ lộ sự triều mến, thì ta sẽ cảm thấy
thừa sức phát lộ sự diệu dàng, tình thương yêu và lòng
tư bi đối với kẻ khác. Trong số tất cả chúng ta, bất
cứ ai cũng có khả năng hướng về kẻ khác, xu hướng đó
biểu lộ một cách tự động và hiển nhiên giống như giữa
người mẹ và đứa con mình trong tay. Nếu không có mẹ, chúng
ta đâu có thể sống còn từ thuở sơ sinh. Đó là một thứ
tình cảm nội tại nơi con người, bởi thế, tất cả chúng
ta đều có khả năng tỏ lộ sự ân cần.
73-
Có một khía cạnh đạo đức mà ta thường hay quên mặc dù
rất quan trọng, đó là cách xử thế đối với chính ta. Ta
không nên làm thiệt hại kẻ khác, nhưng cũng đừng làm thiệt
hại cho ta. Ta không thể đem đến sự tốt đẹp cho kẻ khác
nếu ta thù ghét chính ta ! Phải hiểu rằng tất cả chúng
ta đều ước mong thật sâu xa sẽ đạt được hạnh phúc,
và điều đó là một khát vọng chính đáng. Công nhận điều
ấy và tạo ra điều kiện để được sung sướng sẽ giúp
ta lợi dụng và trải rộng sự sung sướng đó để hướng
về kẻ khác.
Như
thế, khi ước nguyện noi gương người Bồ-tát giúp đỡ tất
cả chúng sinh đạt đến Giác ngộ, ta cũng cần phải nguyện
cầu giúp đỡ cho ta nữa.
74-
Cũng có trường hợp vô tình ta gây ra điều không tốt cho
kẻ khác. Tác động của nghiệp mà ta tạo ra trong trường
hợp đó không giống với tác động của nghiệp khi ta thực
thi một hành vi mang tính cách cố tình. Chính động cơ thúc
đẩy ta thực thi một hành vi sẽ xác định hậu quả liên
quan đến nghiệp, nghiệp sinh ra từ hành vi và tư tưởng của
ta.
75-
Trên phương diện tạo ra hậu quả của nghiệp, động cơ
thúc đẩy giữ một vai trò quan trọng hơn cả hành vi. Chẳng
hạn, nếu ta có ý định làm hại một người nào đó, nhưng
bề ngoài và trong cấp thời ta vẫn giữ im lặng không hề
thốt lên một lời cọc cằn hay làm bất cứ gì gây ra thương
tổn cho người ấy, nhưng cũng không phải vì thế mà làm
nhẹ bớt hậu quả từ những tư tưởng đang được phát
lộ một cách hung hãn trong ta. Thực ra, ta đang mong muốn làm
hại kẻ đó nhưng bên ngoài ta lại xử thế một cách đạo
đức giả. Một sự mâu thuẫn nảy sinh giữa tư tưởng và
hành động của ta trong trường hợp trên đây. Theo quan điểm
của Phật giáo, cũng như trên mặt đạo đức và nghiệp,
thì động cơ đứng ra thúc đẩy và lèo lái tư tưởng của
ta giữ một vai trò thật hệ trọng.
76-
Đức Phật có nói : « Chúng ta là những gì mà chúng ta đang
suy nghĩ, chúng ta tạo ra thế giới này bằng tư tương của
chính mình ». Cách cư xử và biết giữ đạo đức đúng đắn
sẽ ảnh hưởng một cách tích cực vào thế giới này, điều
đó có nghĩa là không phải tất cả mọi vật thể đều là
những phóng ảnh của tâm thức.
Phương
cách mà ta cảm nhận thế giới này là một phóng ảnh, một
tác tạo của tâm thức và tất nhiên là những gì riêng biệt
cho mỗi người. Bằng cớ là cùng một vật đối với hai
người khác nhau, một người có thể cho là đẹp, người
kia lại cho là xấu. Kinh sách cho biết phương cách mà ta cảm
nhận thế giới này là kết quả sinh ra từ tổng thể của
tất cả các nghiệp mà ta tích lũy từ vô lượng kiếp trước.
Người ta có thể nói rằng thế giới như chúng ta đang trông
thấy với tư cách con người, là phản ảnh của những cảm
nhận phát sinh từ nghiệp, xuyên qua tri thức của ta trong dòng
tiếp nối của vô lượng kiếp.
77-
Phải tin tưởng nơi con người. Trong sâu thẳm, con người
rất tốt và từ bi, bởi vì con người hàm chứa tiềm năng
thuộc vào bản thể của Phật. Tuy đó là một điều khẳng
định, nhưng cũng cần phải thật sáng suốt để nhìn thấy
những xung năng đối nghịch có thể chất chứa trong con người
và kích động con người hành động.
78-
Sự phán đoán hợp lý, kinh nghiệm, quan sát, y khoa, đều công
nhận một tâm thức khi đã được khắc phục, không hung bạo,
sẽ giúp ta sống trong an bình và hài hoà hơn. Ác cảm, hận
thù, ám ảnh có thể ảnh hưởng quan trọng trên thân xác
và làm suy thoái thể dạng sức khoẻ tự nhiên. Ngược lại,
thái độ trong sáng và thư giản sẽ tác động một cách tích
cực trên sự biến chuyển của một căn bịnh.
79-
Hạnh phúc và khổ đau của ta buộc chặt với hạnh phúc và
khổ đau của tất cả chúng sinh. Ý thức được sự tương
liên đó tất nhiên sẽ đưa đến những xúc cảm cởi mở,
biết yêu thương và chăm lo cho kẻ khác. Tất cả chúng ta
ai cũng có thể làm được việc ấy, chẳng cần phải nhờ
đến các quan điểm lý thuyết do các trường phái triết học
hay các truyền thống tôn giáo chủ trương.
80-
Mỗi khi nhận thấy một số dục vọng hay bấn loạn nổi
lên trong tâm thức, thì phải quan sát ngay những tư duy và
những xúc cảm nào mang tính cách tiêu cực để không rơi
vào vòng kiềm toả của chúng. Khi ý thức được sự hiện
hữu của chúng, ta có thể tránh và không phạm vào những
hành vi tạo ra nghiệp tiêu cực. Thí dụ như có một kẻ nào
nguyền rủa ta, tức thời ta phản ứng bằng sự giận dữ,
ấy chính là trường hợp ta đang bị « lèo lái » bởi sự
giận dữ và sẽ không kịp suy nghĩ chín chắn để chọn lấy
một thái độ thích nghi cho cảnh huống. Trong những trường
hợp như thế, ta không còn chủ động được các hành vi của
chính mình.
81-
Tự giữ kỷ cương cho chính ta không có nghĩa là tự nhủ
: « Tôi không nên làm cái này hay cái kia vì tôi không được
phép làm như thế », nhưng phải biết suy nghĩ về hậu quả
phát sinh từ những suy tư và những hành vi của chính mình,
trong ngắn hạn, trong thời gian sắp tới và cả trong lâu dài,
để ý thức rằng một số hành vi nào đó có thể gây ra
khổ đau cho chính ta và cho kẻ khác nữa. Muốn ý thức được
thứ kỷ cương ấy phải dùng đến lý luận và phân tích,
không giống như thứ kỷ luật phát sinh một cách dễ dàng
từ sự sợ hãi khi có sự hiện diện của một người lính.
82-
Vai trò đạo đức được quan tâm càng ngày càng nhiều trong
các xã hội tân tiến. Ngược lại với những gì xảy ra trước
đây, ngày nay các cơ quan truyền thông và quần chúng trở
nên cảnh giác hơn đối với những nhân vật chính quyền,
từ những nhà chính trị, bác sĩ, khoa học gia, quan toà và
kể cả những người khác nữa…, bằng cách nhìn vào khía
cạnh đạo đức trong cách xử thế của họ. Nếu họ không
biết giữ đạo đức, quần chúng và các cơ quan truyền thông
sẽ tố cáo thái độ của họ một cách gay gắt. Cách phản
ứng như thế buộc những người tham gia chính quyền nên tự
sửa đổi để hành động đạo đức hơn, và bớt đạo đức
giả hơn.
83-
Vai trò của các cơ quan truyền thông rất quan trọng trong các
xả hội dân chủ, nơi chúng ta đang được hưởng tự do.
Các cơ quan truyền thông phải cố gắng quảng bá những giá
trị quan trọng về nhân bản và phải giữ thật khách quan.
Tôi thường nói rằng cần có một cái vòi voi đánh hơi khắp
mọi nơi để tố giác bất công và những bế tắc trong xã
hội. Nhưng nếu chuyện đó thực hiện được thì cũng đừng
quên đặt lên hàng đầu những gì tích cực phát hiện trong
thế giới này. Thông thường khi có thảm họa xảy ra và trở
thành « tin tức », người ta thường có chiều hướng nhắc
đi nhắc lại tin tức ấy quá nhiều. Những tin tức tai ương
hoặc buồn thảm tràn ngập các phương tiện truyền thông,
nhiều đến đỗi những hành vi tích cực được thực hiện
hàng ngày khắp nơi trên thế giới không được quan tâm đúng
mức. Thật đáng tiếc, vì những hành vi tích cực có thể
làm gương cho nhiều người noi theo. Nếu chỉ nói đến những
khía cạnh tiêu cực của bản chất nhân loại, cuối cùng
người ta có thể ngờ vực đến cả căn bản tốt lành của
con người.
84-
Ngũ giác góp phần tác tạo ra xúc cảm nơi con người. Vì
thế âm nhạc, hội họa, nghệ thuật thiêng liêng, thông thường
ảnh hưởng trên xúc cảm của ta và có thể giúp ta biến
cải những gì tiêu cực, bằng cách chận đứng chúng.
Rõ
rệt nhất là trường hợp đối với âm nhạc, vì âm nhạc
tạo ra một tiến trình có khả năng lôi ta trở lại với
những thể dạng sâu xa hơn trong con người*.
(Ghi
chú thêm của người dịch : âm hưởng của những câu thần
chú và âm thanh tụng niệm cũng giữ một vai trò quan trọng
trong việc tu tập)
85-
Thông thường, thật hết sức quan trọng phải tránh không
được làm hại kẻ khác bằng bất cứ một hình thức bạo
lực nào. Mặc dù như thế, nhưng trong một số trường hợp
đặc biệt, một đau đớn nhỏ có thể giúp để tránh được
một đau đớn lớn hơn. Do đó, không nhất thiết phải áp
dụng một cách tuyệt đối các quy tắc tổng quát, nhưng phải
luôn luôn đánh giá thật đúng hoàn cảnh mà ta phải
đối đầu trên thực tế. Vậy thì, tùy theo từng trường
hợp phải cân nhắc để so sánh giữa khổ đau và an vui, làm
thế nào để xảy ra khổ đau ít nhất.
86-
Tất cả chẳng qua cũng tùy vào động cơ thúc đẩy, đối
với khoa học cũng thế. Chẳng hạn như khi xử dụng những
tiến bộ về di truyền học để chữa trị bịnh tật, thì
có thể xem đó làm một điều mừng. Nhưng nếu dùng những
tiến bộ về di truyền học để làm hại kẻ khác thì đó
là một hành vi bạo lực.
87-
Khi bàn về vấn đề tâm linh, không nhất thiết tôi phải
bắt buộc đề cập đến vấn đề tôn giáo. Không nên chờ
đợi an lành và hạnh phúc do các tác nhân từ bên ngoài đem
đến, nhưng cần phải tìm hiểu phương cách vận hành của
tâm thức để có thể biến cải được nó. Đối với tôi,
vấn đề tâm linh chính là biết suy tư và hành động một
cách vị tha.
Tiến
triển tâm linh không thể phát sinh từ những điều kiện và
tiến bộ bên ngoài, từ một máy vi tính, hoặc bằng cách
biến đổi và chữa trị bộ não, nhưng chỉ có thể phát
sinh từ những gì trong nội tâm của ta, từ quyết tâm sâu
xa muốn tự cải thiện để trở thành một con người cao
cả hơn. Phải thực hiện như thế, và chỉ có như thế sự
tiến triển tâm linh mới có thể xảy ra được.
88-
Những xúc cảm tiêu cực hiển hiện trong tâm thức, chi phối
và khống chế tâm thức, biến một con người thành nô lệ
cho chính mình…Phần nhiều, những xúc cảm tiêu cực phát
sinh và biến mất một cách đột ngột, cũng giống như khi
chúng được sinh ra. Nói như vậy không có nghĩa là ta không
cần phải sợ sức mạnh của chúng, vì sức mạnh đó có
thể tàn phá ta và cả kẻ khác một cách thật kinh khiếp.
Phật giáo dạy ta nhiều phương pháp để ngăn chận và biến
cải những xúc cảm đó khi chúng mới hiển hiện, nhưng đồng
thời ta cũng nên quan tâm đến những gì đang xảy ra trong
ta. Khi đã hiểu được lý do thúcđẩy thì sự cố gắng ấy
mới có thể thực hiện được. Chính đó là sự khác biệt
giữa những kỷ cương tự ý chấp nhận để thăng tiến theo
một chiều hướng mong muốn, và những kỷ cương được áp
đặt từ bên ngoài ; đối với những gì áp đặt từ bên
ngoài thì sớm hay muộn, người ta cũng sẽ nổi lên để chống
lại. Vậy, khắc phục được tâm thức có nghĩa là phân tích
những nguyên nhân nào đã thúc đẩy ta chọn con đường ấy,
và như thế mới có thể củng cố sự tự tin và quyết tâm
của ta.
89-
Chấm dứt nghiệp, tức quy luật nguyên nhân hậu và quả tác
động trên các chu kỳ hiện hữu, có nghĩa là làm chấm dứt
vô minh căn bản đang chi phối toàn thể các kiếp sống của
ta. Vô minh sẽ đương nhiên làm phát sinh tham vọng, hận thù,
ganh ghét, thèm muốn, cũng như tất cả những xúc cảm tiêu
cực khác đang chế ngự tâm thức để rồi biến nó thành
nô lệ, và cứ như thế cho đến khi nào đạt được Giác
ngộ và loại bỏ được tất cả mọi khổ đau. Điều đó
đáng cho ta suy nghĩ để biết lo tu tập trong mục đích thoát
ra khỏi sự mê lầm.
90-
Tu tập không phải chỉ thực hiện trong những nơi thờ phượng,
mà là cả ở bên ngoài, trong cảnh giới của thế tục, nơi
mà chúng ta phải đối đầu với những cảnh huống thật
sự của sự sống và là nơi mà những con người có thể
tạo ra hận thù, yêu thương, tham vọng…
Dù
tu tập theo một tôn giáo nào cũng thế, không phải đơn giản
chỉ có tụng niệm, nhưng phải biết phát huy những xúc cảm
tích cực, tức lòng thương người, từ bi, thiện tâm, rộng
lượng, biết ý thức trách nhiệm của chính mình, bố thí
không đắn đo cho bạn hữu và cho cả kẻ thù mà không chờ
đợi sự một sự hồi đáp nào.
91-
Nếu muốn vượt lên trên những xúc cảm tiêu cực, cần phải
xử dụng đến trí thông minh và khai triển sự hiểu biết
để phát huy thật mãnh liệt những xúc cảm tích cực trong
ta, chẳng hạn như lòng từ bi, lòng tốt, sự tin tưởng và
lòng nhân từ.
Ngoài
việc phát huy những xúc cảm tích cực, còn cần phải khai
triển thêm trí tuệ và sự hiểu biết, không những nhắm
vào mục đích giúp ta vượt lên trên những xúc cảm tiêu
cực, mà còn để giúp ta vĩnh viễn loại trừ chúng.
92-
Khổ đau tinh thần có thể bộc phát mạnh liệt hơn nhiều
so với khổ đau thân xác. Một người dù đang ốm đau hoặc
đang sống trong một hoàn cảnh bấp bênh và bần hàn vẫn
có thể cảm thấy hạnh phúc, nếu họ biết giữ tâm thức
an bình và trong sáng.
Ngược
lại, trạng huống sẽ khác hẳn đối với những ai tuy sống
trong khung cảnh hài hoà, nhưng tâm thức luôn luôn bị những
xung năng thù nghịch làm cho dao động. Những gì quan trọng
hơn hết có thể giúp ta sống trong an vui chính là sự an bình
trong tâm thức.
93-
Hận thù, bám víu, ghen ghét có thể làm cho tâm thức bị đảo
điên, làm mất đi sự trong sáng và cách nhìn bình đẳng không
phân biệt đối với tất cả chúng sinh. Chọn thái độ không
thiên vị và trong sáng không có nghĩa là vô tình hay tự cảm
thấy không dính dấp gì với khổ đau của kẻ khác. Trái
lại, chọn thái độ như thế chính là cách phát huy lòng từ
bi và tình thương đối với tất cả, xem chúng sinh bình đẳng
như nhau, không chọn lựa và loại trừ bất cứ một chúng
sinh nào, và làm tất cả những gì có thể được, không phận
biệt chúng sinh, để tất cả cùng nhau bước vào Giác ngộ.
94-
Thói thường, đối với một kẻ mà ta giúp đỡ, ta chờ đợi
họ tỏ lộ sự biết ơn đối với ta, bằng cách này hay bằng
cách khác. Nếu người này không biết bày tỏ ơn nghĩa đối
với ta, có thể sự giận dữ hoặc hận thù sẽ phát hiện
trong lòng ta, và cũng có thể ta sẽ mong muốn làm hại kẻ
ấy… Vậy hãy suy nghĩ và nhìn ngược vào tâm thức để
quan sát những gì đang xảy ra trong ta, chỉ có cách đó mới
có thể chận đứng quá trình đang diễn tiến trong tâm thức
và làm tan biến những xúc cảm bấn loạn có thể đẩy ta
vào những phản ứng hung bạo.
Tốt
hơn nữa và lại càng dễ thực hiện hơn nữa, là nếu ta
biết xem kẻ đang đối đầu với ta là một vị thầy đang
đứng ra thuyết giảng cho ta và tạo cơ hội giúp ta thực
thi lòng nhẫn nhục và từ bi. Hãy tập suy tư như thế, và
sau này nếu chẳng may khi rơi vào môt cảnh huống tương tợ,
ta lợi dụng ngay dịp ấy để cố gắng thực hiện một bước
đầu, sau đó việc xử thế sẽ trở nên ít khó khăn hơn,
và sẽ giúp ta phát huy dễ dàng hơn sự an bình trong tâm thức.
95-
Có nhiều phương pháp tu tập về kiên nhẫn. Sư hiểu biết
quy luật về nghiệp là một trong các phương pháp đó. Vậy,
khi ta gặp phải những khó khăn trong công việc hoặc phải
đối đầu với một vần đề nào đó, hãy nghĩ ngay là chính
ta phải chịu trách nhiệm về những khổ đau mà ta đang
gánh chịu và nhất định là những khổ đau đó sinh ra từ
các nguyên nhân do chính ta gây ra.
Tuy
nhiên, dù cho sự nhận chịu đó không giải quyết được
tình huống đi nữa, nhưng vẫn có thể giúp ta làm giảm bớt
tầm quan trọng, để có thể lùi lại tìm mọi cách không
gây ra thêm nghiệp mới bằng những tư tưởng và hành vi «
không tốt ».
96-
Vững tin nơi ta và những phẩm tính của ta không có nghĩa
là kiêu ngạo. Thật quan trọng phải tin tưởng vào chính mình,
vào những năng khiếu và các khả năng đặc biệt của mình,
để vững tin nơi sự hiện hữu của ta, vì chưng những khả
năng của ta nhờ vào sự hiện hữu đó mới có thể phát
huy được những phẩm tính như lòng tốt, sự thân thiện,
lòng từ bi và tình thương đối với kẻ khác. Lòng tin cẩn
và vững tin thật cần thiết để khai triển những phẩm tính
con người. Đó là những mãnh đất mầu mỡ giúp cho những
hạt giống nảy mầm và phát sinh thành những xúc cảm tích
cực.
97-
Người lớn, dù có phải là cha mẹ của những đứa trẻ
được đặt dưới sự chăm sóc của mình hay không, đều
phải quan tâm tìm cách tỏ sự thân thiện và triều mến đối
với chúng. Giáo dục không phải chỉ là việc phát triển
trí óc, nhưng còn phải làm nẩy nở sự thông minh của con
tim và những phẩm tính con người, chẳng hạn như lòng từ
bi, sự ân cần, tình thân thiện, biết ý thức trách nhiệm.
Giáo
dục cũng là cách giảng dạy cho trẻ nhỏ hiểu rằng tất
cả chúng ta đều liên hệ với nhau trên khắp thế giới này,
mục đích để đứa bé phát huy ý thức sâu đậm về những
hậu quả do tư tưởng và hành vi sẽ đem đến về sau.
Sau
hết, điều thật quan trọng là người lớn phải làm gương
cho những đứa trẻ mà họ phải hướng dẫn và dạy dỗ,
vì làm gương là phương pháp giáo dục tốt nhất về những
gì ta muốn truyền lại sau này.
98-
Thật hết sức phù du khi nghĩ rằng có thể biến cải kẻ
khác trước khi tự biến cải lấy mình. Tiến triển hoà bình
trên thế giới bắt đầu bằng cách giảm bớt những xung
đột trong một vài quốc gia nào đó, làm cho chiến tranh chấm
dứt. Muốn làm giảm bớt bất công xã hội để kiến tạo
một thế giới tốt đẹp hơn phải bắt đầu bằng cách biến
cải chính ta trước nhất, để sau đó ảnh hưởng đến môi
trường chung quanh : tức những người gần gũi với ta và
gia đình ta.
Sau
khi đã trải rộng được lòng từ bi, sự ân cần, nhân từ
và hân hoan trong chu vi nhỏ hẹp đó, ta mới có thể mở rộng
sự thành công ra một chu vi lớn hơn : bạn hữu, láng giềng,
và cứ tiếp tục như thế.
Khi
đã biến cải được tâm thức, ta mới biết quan tâm nhiều
hơn đến kẻ khác, đấy là nhờ vào lòng vị tha đã nẩy
nở trong ta. Bằng tình thương ta có thể ảnh hưởng đến
toàn thể địa cầu này và góp phần vào việc xây dựng hoà
bình giữa con người và các quốc gia. Đấy là một điều
thật căn bản.
99-
Trong cuộc sống thường nhật, ta cũng hiểu là khi tâm thức
càng vững chắc, thanh thản và toại nguyện, ta càng cảm nhận
được hạnh phúc nhiều hơn. Khi tâm thức bất trị, tiêu
cực, không được tập luyện, ta sẽ cảm thấy khổ đau cả
tinh thần lẫn thể xác. Vì thế, thật rõ ràng một tâm thức
kỷ cương và trong sáng sẽ là nguồn gốc đem đến hạnh
phúc cho ta.
Thể
dạng tâm thức kỷ cương và trong sáng ấy, khi được khám
phá và đưa nó vượt lên một mức độ thật cao, sẽ gọi
là « sự thật trên con đường đưa đến chấm dứt
». Mọi ảo giác có sẳn sẽ bị loại trừ và tách rời khỏi
tâm thức, bởi vì từ nguyên thủy, ảo giác đã sinh ra trong
tâm thức chỉ vì lý do khinh thường coi nhẹ và bám víu vào
mọi vật thể và biến cố.
100-
Kinh sách Phật giáo cho biết trên dòng tiếp nối liên tục
các kiếp sống của ta, tất cả chúng sinh đều đã từng
là cha hay mẹ của ta vào một lúc nào đó trong quá khứ. Tin
vào điều ấy giúp làm suy giảm tức khắc sự xung đột có
thể sinh ra giữa hai ngưòi với nhau và làm cho ta thay đổi
cách nhìn đối với những người mà ta gọi là kẻ thù. Phải
hiểu rằng tất cả những cảm nhận tiêu cực đều là hậu
quả từ nghiệp quá khứ làm biến dạng phong cách mà ta phóng
nhìn vào một người mà vì định kiến ta cho là kẻ thù của
ta. Kẻ đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài phát sinh từ
những yếu tố do chính ta góp phần để tạo dựng lên, hiểu
được như thế sẽ làm thay đổi sự cảm nhận của ta đối
với kẻ ấy. Nếu muốn tránh những xúc cảm tiêu cực trước
một người hay một yếu tố nào từ bên ngoài, thì thật
là quan trọng phải ý thức rằng người ấy, yếu tố ấy
đúng ra chẳng có một chút trách nhiệm nào cả về những
gì xảy ra cho ta.
101-
Cần phải hoà mình trong thế giới này để giúp đỡ kẻ
khác, muốn làm được như thế phải hội nhập với hiện
thực và thời đại mà ta đang sống.
Với
trách nhiệm của một người tu hành, tôi không được trễ
nải và phải cố gắng đặt vào tầm tay của mọi người
truyền thống tu hành của tôi, và phải làm thế nào để
truyền thống đó có thể ứng dụng dễ dàng vào đời sống
tân tiến ngày nay.
102-
Trong những nước dân chủ, tuy nhân quyền được tôn trọng,
nhưng quyền của thú vật bị chà đạp quá đáng. Dù rằng,
theo nguyên lý tương liên giữa mọi sinh linh và hiện tượng,
tất cả đều liên đới với nhau. Chúng ta thường dễ quên
và không phân tích để hiểu rằng những hậu quả phát sinh
từ cách cư xử tiêu cực sẽ ảnh hưởng vào cuộc sống
của ta, trong ngắn hạn và trong lâu dài. Sự khai thác quá
đáng súc vật và thiên nhiên sẽ gây ra trong tương lai những
hậu quả độc hại trên thực phẩm và sức khoẻ. Nếu biết
suy nghĩ thêm một chút, ta sẽ hiểu rằng cần phải thiết
lập cách tổ chức như thế nào để bảo vệ môi trường
và súc vật.
103-
Phần lớn các nguyên lý tôn giáo đều phát sinh từ sự quan
sát về cách giao tiếp và tình cảm giữa con người. Các nguyên
tắc ấy nhắm vào mục đích làm gia tăng những phẩm tính
tích cực, chẳng hạn như lòng từ bi, lòng tốt, sự ân cần.
Những lời giáo huấn và sự tu tập giúp cho người theo Phật
giáo thực hiện được niết bàn, tức sự giải thoát khỏi
mọi khổ đau. Ước vọng đạt được mục đích tối thượng
đó, không có nghĩa là lơ là không quan tâm đến sự sinh sống
của ta. Tạo được những hoàn cảnh sinh sống thuận lợi,
ta mới có thể giúp đỡ hữu hiệu những người khác. Chẳng
hạn, không thể sống được nếu không có tiền. Vậy sự
quan trọng của đồng tiền không thể nghi ngờ, nhưng phải
đặt vị trí đồng tiền đúng chỗ, đừng xem nó như là
một vị trời toàn năng. Thật là sai nếu xem đồng tiền
có đủ khả năng làm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu
và căn bản của ta. Ưu tiên hơn hết là đạt được một
tâm thức lành mạnh, vận hành theo chiều hướng tích cực,
giúp cho tâm thức an bình. Tất cả những thứ khác sẽ tự
động đến sau.
104-
Quyền năng thật sự mà ta có thể đạt được là phục vụ
kẻ khác. Theo tôi, quyền năng đó là chính đáng và tích cực.
Tất cả những hình thức quyền lực khác, đặc biệt là
quyền lực dựa vào tiền bạc, đòi hỏi những trách nhiệm
lớn lao, nhưng thông thường các người có trọng trách lại
không ý thức được những trách nhiệm ấy. Họ phải thật
cẩn thận cân nhắc để tìm hiểu những động cơ nào thúc
đẩy những hành vi của họ.
Đối
với những người làm chính trị cũng thế. Dân chủ dựa
vào sự phân quyền ; hành pháp, lập pháp và tư pháp phải
tách rời nhau. Cách phân chia như thế là cách bảo vệ chống
lại những kẻ điên rồ có thể đứng ra nắm giữ quyền
hành.
105-
Trên phương diện con người, đối với tôi không có gì khác
biệt giữa một vị lãnh đạo quốc gia và một công dân đơn
giản. Tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau. Chúng
ta đều có những nhu cầu căn bản như nhau. Tu tập tâm linh
cần thiết cho tất cả. Nói như thế, tức tôi muốn nhấn
mạnh là sự tu tập rất cần thiết cho một người đứng
ra nắm giữ trọng trách quốc gia, sự cần thiết đó cấp
bách hơn nhiều so với một người chọn con đường tu hành
đã ẩn cư bên ngoài thế tục. Một vị lãnh đạo chính phủ,
một chính trị gia hay một chủ nhân xí nghiệp là những người
quan trọng trong xã hội. Những hành vi tích cực hay tiêu cực
của họ sẽ gây ra nhiều tác động trong đời sống của
một số lớn con người. Để duy trì tính cách tích cực và
giữ được những động cơ thúc đẩy nhân từ, họ cần
tu tập tâm linh để tránh không làm thưong tổn đến kẻ khác
trên một bình diện lớn lao. Thật hết sức khẩn cấp, những
người lãnh đạo phải phát huy thái độ thương người và
biết ý thức trách nhiệm. Thế giới này cần đến những
con người như thế để hướng về hoà bình.
106-
Cách nay vài mươi năm, chẳng có ai quan tâm đến môi sinh.
Các người lãnh đạo và cả quần chúng đã sai lầm khi cho
rằng tài nguyên trên Địa cầu sẽ bất tận. Ngày nay, hầu
hết các đảng phái chính trị đều nói đến môi sinh. Sự
chuyển hướng ấy căn cứ trên những kinh nghiệm thực tế.
Dù rằng các chính quyền lãnh đạo chưa hành động để bảo
toàn tài nguyên thiên nhiên ; ảnh hưởng nhà kính và tệ nạn
phá rừng vẫn còn gia tăng, nhưng rồi dần dần các chính
quyền ấy cũng sẽ bước vào con đường đã được vạch
ra từ những sự kiện trên đây. Vững tin vào điều đó giúp
cho tôi can đảm để tiếp tục hành động trong mục đích
kiến tạo một tương lai tốt đẹp hơn.
107-
Những sinh linh giác ngộ* là những tấm gương cho tất cả
những người tu tập noi theo. Các sinh linh giác ngộ khích lệ
người tu tập nên cố gắng nhiều hơn nữa để bước theo
họ, để thực thi trí tuệ và từ bi giống như họ. Trí thông
minh giúp thực hiện mục đích đó, và khi thực hiện được
như thế, trí thông minh sẽ không còn là công cụ lèo lái
bởi những xúc cảm tiêu cực và độc hại, nguồn gốc của
khổ đau. Vì vậy, trí thông minh khi được thúc đẩy bởi
những lý tưởng tốt đẹp sẽ trở thành một sức mạnh
trợ lực quý giá vô ngần.
(Chú
thích thêm của người dịch : *Những sinh linh giác ngộ là
những vị Thầy đích thực, những Vị chân tu, những Con người
đạo hạnh và cao cả đã thành đạt trong việc tu tập. Dù đang sinh hoạt trong một bối cảnh nào của xã
hội, tư tưởng, ngôn từ, hành vi và lối sống của họ cũng
đều phù hợp với Đạo Pháp, không đi ra ngoài Đạo
Pháp. Từ bi và yêu thương phát lộ trong lòng họ, hiển
hiện trong đôi mắt, trong từng lời nói và trong hai bàn
tay để ngữa của họ. Những sinh linh ấy đang sống trong
cõi sắc giới bên cạnh chúng ta, chỉ cần mở rộng lòng ta để nhìn thấy họ. Những sinh linh giác ngộ cũng hiện
hữu thật nhiều trong cõi vô sắc giới và luôn luôn âu lo
cho chúng ta, nhưng cần phải có một tâm hồn tinh khiết để
nhìn thấy họ).
108-
Tình mẫu tử buộc chặt người mẹ với người con không
phải là một thứ tình cảm bám víu phát sinh từ dục vọng.
Người mẹ không bao giờ chờ đợi bất cứ điều gì nơi
đứa con mình, một đứa hài nhi trong tay, mà chỉ nghĩ đến
bổn phận của chính mình, luôn luôn mong mỏi đem đến niềm
vui và sự an lành cho con mình trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tình thương đó, nếu không bị biến dạng, sẽ rất gần
với lòng từ bi đích thực, trong sâu thẳm của lòng từ bi
không có một chút bóng dáng nào của sự bám víu. Chính vì
thế mà lòng từ bi đích thực phải được phát huy không
phân biệt giữa bạn hữu và kẻ thù. Khi đã đạt được
cấp bậc tu tập ấy, ta sẽ không còn phân biệt giữa tất
cả chúng sinh, ta cầu mong sự tốt đẹp cho tất cả, và ta
luôn luôn âu lo cho việc ấy, vô điều kiện và không kỳ
thị, ngay cả trường hợp đối với một người đang đứng
trước mặt ta và đang tìm cách ám hại ta. Tình huống đó
không thể làm cho ta xao xuyến vì ta đã phát huy được sự
an bình trong tâm thức. Tuy thế, điều ấy cũng không cấm
cản ta thận trọng tìm giải pháp ngăn ngừa, nhưng không được
phát lộ hận thù, giận dữ hay oán hờn.
Hoang
Phongng”);if
Discussion about this post