NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA
CHIẾC ÁO CÀ SA
Hoang Phong
Gốc
tiếng Phạn của chữ cà-sa là kasaya. Nhưng thật sự chữ kasaya trong tiếng
Phạn không có nghĩa là áo mà có nghĩa là bạc màu, cáu cặn
hay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc
hay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,
bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sa
của người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèo
nàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gì
về chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc những
điều vừa nêu trên đây.
Thật vậy, kẻ thế tục thường hay đồng hoá chiếc áo với người tu hành hay
Đạo Pháp của Đức Phật vì họ chỉ thấy những biểu tượng hay những quy ước mà thôi.
Họ có thể cho rằng Đạo Pháp hay người tu hành thì rất cao cả, nhưng chiếc áo thì
lại rất tầm thường, hoặc đôi khi cũng có thể hiểu ngược lại là chiếc áo
tượng trưng cho sự cao cả, còn nhà sư thì lại tầm thường. Tầm thường ở đây có
nghĩa là khiêm tốn, nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa đen là không xứng đáng để
khoác lên người chiếc áo cà-sa. Bài
viết không đề cập đến trường hợp theo nghĩa đen hiếm hoi này, tuy nhiên trên
thực tế cũng có thể xảy ra được.
Ngày nay, nhiều tu viện lớn ở Miến điện vẫn còn giữ được truyền thống thật xưa,
theo đó các nhà sư phải tự đi nhặt những mảnh vải vụn, những tấm khăn đắp hay
liệm người chết vứt bỏ ở những nơi hỏa táng, nghĩa địa hay những đống rác, rồi
đem về tự mình chắp nối và may lấy áo để mặc. Mỗi người chỉ được phép có ba
chiếc áo như thế, thêm một bình bát để khất thực và một bàn chải đánh răng, thế
thôi. Đến đôi dép cũng không có vì họ đi chân đất, và có lẽ đây là một truyền
thống rất lâu đời, từ thời Đức Phật còn tại thế. Tóm lại, chiếc áo cà-sa
không bao giờ mang màu sắc sặc sỡ, kết ren hay thêu thùa. Chiếc áo của người tu
hành không phải là một hình thức để tạo ra ảo giác, không được dùng để loè mắt
những người thế tục…Chiếc áo cà-sa là biểu tượng của những gì khiêm tốn,
đơn sơ và tầm thường nhất mà ta có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên đồng thời,
chiếc áo cà-sa lại cũng là biểu tượng của Đạo Pháp, do đó cũng tượng
trưng cho những gì cao cả, thâm sâu và thiêng liêng nhất, vượt lên trên sự hiểu
biết quy ước của chúng ta.
Trên
thực tế thì ngày nay chiếc áo cà-sa đã biến đổi ít nhiều tùy theo phong
thổ, tập quán, chủng tộc, học phái…Nhưng dù cho có biến đổi thế nào đi nữa thì chiếc
áo cà-sa vẫn giữ được ý nghĩa nguyên thủy của nó : sự đơn sơ, khiêm
nhường, trân quý và cao cả.
Bài viết này sẽ lần lượt chọn hai
thí dụ điển hình, một thuộc Nam tông và một thuộc Thiền học trong Bắc tông để trình
bày những biến đổi từ quan niệm đến hình thức của chiếc áo cà-sa, và sau
đó sẽ lạm bàn xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo ấy.
Nguồn
gốc, tên gọi và những biểu tượng của chiếc áo cà-sa
Theo Luật Tạng (Vinaya), Tăng đoàn của
Phật lúc ban đầu ăn mặc không khác biệt gì với những người tu hành thuộc các
truyền thống tôn giáo khác. Vì thế vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) đề nghị với
Phật xin cho các đệ tử được ăn mặc khác hơn để mọi người dễ nhận ra. Đúng vào
thời điểm ấy, Phật và người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà đang du hành ở phương
Nam để thuyết giảng. Phật nhìn thấy
những thửa ruộng lúa hình chữ nhật, chia cắt bởi những con đê tăm tắp, liền bảo
A-nan-đà cứ theo mẫu ấy mà may áo cho Tăng đoàn. Vì thế, trong kinh sách tiếng
Hán, chiếc áo cà-sa còn gọi là Cát triệt y hay Điền tướng y,
mảnh áo mang hình những thửa ruộng, tượng trưng cho sự phong phú và phúc hạnh.
Câu chuyện này cũng đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của sự biến dạng.
Cách so sánh khá thi vị trên đây đòi hỏi đến trí tưởng tượng và những ước mơ
phù hợp với các tiêu chuẩn và quan niệm quy ước về hạnh phúc và giàu sang của
thời đại bấy giờ, nghĩa là không có gì là Đạo Pháp cả. Như đã trình bày trong
phần nhập đề, chiếc áo cà-sa gồm nhiều mảnh ráp lại vì đó là những mảnh
vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trưng cho những gì tầm thường nhất và
cũng để nhắc nhở người tu hành về tấm thân vô thường của họ.
Tiếng Hán
còn gọi chiếc áo cà-sa là Đoạn phục, Pháp y, Nhẫn nhục khải, Giải thoát chàng, Cà-sa-duệ,
Già-sa-dã…, các chữ này hàm chứa một ý nghĩa đại cương là dứt bỏ, bất
chính, ô uế, nhiễm bẩn, có màu xích sắc (màu đỏ)… Theo sách tiếng Hán, áo không
bắt buộc phải nhuộm bằng một màu nhất định nào cả, chỉ cần tránh không dùng năm
màu chính là xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, và đồng thời có thể pha trộn nhiều
màu với nhau để tạo ra một màu xích sắc thật bẩn thỉu, đúng theo ý nghĩa
nguyên thủy của chữ kasaya trong tiếng Phạn. Áo gồm nhiều mảnh, có thể
mỗi mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu lại với nhau. Ngày
nay tùy theo học phái, địa phương, phong tục, khí hậu…mà chiếc áo cà-sa
cũng biến dạng đi, từ cách may cho đến màu sắc : màu vàng ở Ấn độ và các
nước theo truyền thống Nam tông ; các màu vàng, màu lam, nâu, nâu đỏ
(nhuộm bằng vỏ cây mộc lan, hay củ nâu) như ở Việt Nam và Trung quốc ; màu
lam ở Hàn quốc ; màu đen hay nâu đen (màu trà) ở Nhật ; màu vàng nghệ
hay nâu đỏ ở Tây tạng…Nói chung có ba màu chính gọi là như pháp cà-sa sắc
tam chủng (ba màu sắc của áo cà-sa theo phép quy định) : tức
màu gần như đen (màu thâm, màu bùn dất), màu xanh (màu rỉ đồng), màu gần như đỏ
(màu hoa quả).
Pháp y của người tu hành gồm có ba loại : Đại, Trung và Tiểu. Loại nhỏ,
Tiểu y, gọi là An-đà-hội (Antarvasaka), áo này gồm có năm mảnh ráp lại
(ngũ điều). Áo kiểu Trung gọi là Uất-đa-la-tăng (Yttara-Samgha) gồm có
bẩy mảnh (thất điều). Áo kiểu rộng, Đại y, gọi là Tăng-già-lê
(Samghati), gồm chín mảnh (cửu điều). Trên đây là các loại áo cà-sa có
gốc từ Ấn độ. Tùy theo xứ lạnh hay nóng bức, những nơi giá rét có thể mặc áo
tiểu và trung bên trong, rồi mặc thêm áo cửu điều bên ngoài.
Chiếc áo cà-sa dùng để che thân, để đắp, để gối đầu hoặc để gấp lại và
ngồi lên đó như một tọa cụ. Kinh Bát-nhã có kể chuyện Phật cùng với các
đồ đệ sau khi khất thực về, ăn xong, Phật tự lau rửa bình bát, sau đó tự tay
xếp áo cà-sa làm tọa cụ và ngồi lên đó để thuyết giảng. Có khi các đồ đệ
lấy áo của mình xếp chồng lên nhau để Phật
ngồi.
Công dụng của chiếc áo cà-sa thiết thực như thế, nhưng dần dần người ta gán
thêm cho nó nhiều đức tính khác nữa. Kinh Bi hoa kể chuyện áo Cà-sa
ngũ đức và kể các đức ấy ra như sau : 1. Người thế tục nếu biết kính
trọng cà-sa sẽ tiếp nhận được Tam Thừa (tức Thanh văn thừa,
Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa), 2. Thiên long nhân quỷ
nếu biết kính cà-sa cũng đắc Tam thừa, 3. Quỷ thần và chúng sinh
chỉ cần bốn tấc vải của chiếc áo cà-sa cũng được no đủ, 4. Chúng sinh
hằng tâm niệm về chiếc áo cà-sa sẽ phát sinh được lòng Từ bi, 5.
Giữa nơi trận mạc, nếu có được một mảnh nhỏ áo cà-sa và biết cung kính
mảnh áo ấy cũng thắng trận. Một quyển kinh khác là Tâm địa quán kinh lại
nêu lên đến mười điều lợi của chiếc áo cà-sa và gọi là Cà-sa thập lợi :
1. Che thân khỏi thẹn ngượng, 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét, 3. Biểu thị các
tướng tốt của người xuất gia, 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật), 5.
Phát sinh nghị lực gìn giữ giới hạnh, 6. Màu nhạt bẩn không làm phát sinh lòng
ham muốn, 7. Mang đến sự thanh tịnh, 8. Tiêu trừ tội lỗi, 9. Mảnh đất tốt làm
nẩy sinh Bồ-đề tâm, 10. Giống như áo giáp, mũi tên phiền não không đâm thủng
được.
Kể lể dài dòng như trên đây chẳng qua vì mục đích muốn nêu lên một thí dụ điển
hình trong việc thêm thắt và biến dạng đối với ý nghĩa của chiếc áo cà-sa.
Chẳng hạn như đức tính thứ năm do Kinh Bi hoa kể : « nơi trận mạc, nếu có một mảnh nhỏ cà-sa và biết cung kính cũng thắng
trận », đức tính này có lẽ không phù hợp lắm với Đạo Pháp của Phật. Dù
sao cũng xin phép được tiếp tục kể thêm rằng một vài kinh sách gốc Hán đã đặt
cho chiếc áo cà-sa đến mười hai danh hiệu khác nhau và gọi là Cà-sa thập nhị
danh : 1. Cà-sa, 2. Đạo phục (áo của người tu hành), 3. Thế
phục (áo của người xa lánh thế tục), 4. Pháp y (áo đúng theo quy
định trong Đạo Pháp), 5. Ly trần tục (áo xa lánh lục trần), 6. Tiêu
sấu phục (áo có khả năng tiêu trừ phiền não), 7. Liên hoa phục
(áo như hoa sen không nhiễm bùn nhơ), 8. Gián sắc phục (áo đem nhuộm cốt
ý làm hư hoại màu sắc), 9. Từ bi phục (áo của người thực thi đức Từ bi),
10. Phúc điền phục (áo gồm nhiều mảnh giống như những mảnh ruộng tượng
trưng cho sự giàu có và phúc hạnh), 11. Ngọa cụ (áo dùng để lót lưng khi
nằm), 12. Phu cụ (áo dùng làm chăn để đắp).
Tiếp
theo ta hãy tìm hiểu ý nghĩa chiếc áo cà-sa trong hai trường hợp điển hình là
Nam tông và Thiền tông.
Lễ Dâng y của Nam tông
Một trong những lễ hội lớn nhất và quan
trọng nhất của Nam tông là lễ Dâng y trong dịp kiết hạ. Sau thời
gian ba tháng an cư trong mùa mưa là lễ kiết hạ. Lễ kiết hạ
đánh dấu ngày chấm dứt ẩn cư, tức thời gian không được phép đi ra ngoài của các
tỳ kheo. Người Nam
tông làm lễ này rất long trọng và gọi là lễ Dâng y hay Kathina.
Thật sự chữ kathina trong tiếng Pali (tiếng Phạn là kathinya)
không có nghĩa gì là áo hay dâng y
mà có nghĩa là sự vững chắc và
trong ngôn ngữ Pali chữ này lại có một nghĩa nữa là cái khung để dệt vải hay căng vải để may áo.
Trong dịp lễ này, Phật tử dâng vải cho Tăng đoàn may áo cà-sa. Trước khi
dâng, vải và các vật cúng dường khác được đặt vào mâm rồi đội lên đầu đi diễn
hành trong thôn xóm, làng mạc trước khi đến Chùa để dâng lên các tỳ kheo. Các
tỳ kheo phải chia nhau may cắt và phải may cho xong chiếc áo trong một ngày.
Tục lệ này được đặt ra để nhắc lại sự tích người mẹ nuôi của Đức Phật, cũng là
người Dì tức là em của mẹ Đức Phật, tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cồ-đàm-di
(Mahaprajapati Gautami), đã từng thức suốt một đêm để hoàn tất chiếc áo cho
Phật. Khi Phật sinh ra đời được bẩy ngày thì mẹ mất, người Dì đứng ra chăm sóc cho
Phật. Sau này, khi Phật đạt được Giác ngộ, Bà đã xin quy y và thành lập Tăng
đoàn các Tỳ kheo ni, vì thế Bà cũng là Ni sư đầu tiên của Phật giáo.
Quy luật an cư cần phải có tối thiểu năm tỳ kheo cho mỗi nhóm, và được hưởng
một khúc vải dài độ ba thước. Theo nghi lễ, cả nhóm họp lại để cắt may, xong áo
thì tặng cho tỳ kheo nào nghèo nhất, hoặc cho người nào thông thái nhất hay lớn
tuổi nhất trong nhóm. Khi may xong, áo được căng lên một cái khung (kathina)
rồi mời mọi người đến chiêm ngưỡng. Áo này được gọi là mahakathina. Sau
đó, khung căng áo được tháo ra để tượng trưng cho sự nới lỏng một vài giới luật
đối với các tỳ kheo. Nhưng trước đó trong suốt thời gian an cư, phải giữ khung
căng áo nguyên vẹn vì là biểu tượng của giới luật phải giữ gìn. Vì thế, lễ kiết
hạ của Nam tông mang tên là kathina tức là sự chặt chẽ, vững chắc
đúng theo nghĩa của chữ này trong tiếng Phạn và tiếng Pali.
Trên đây là những tục lệ và ý nghĩa được thêm thắt và tô điểm qua thời gian.
Kinh sách tiếng Pali có kể một câu chuyện như sau. Trước mùa an cư, có một nhóm
tỳ kheo độ chừng ba mươi đến năm mươi người họp nhau cùng đi đến thành Xá-vệ
(Savatthi) để được an cư bên cạnh Phật. Trên đường đến Xá-vệ thì không may họ
gặp mưa bảo triền miên, đi đứng khó khăn, cho nên khi đến được Xá-vệ thì quần
áo rách nát tả tơi và hạn an cư ba tháng đã chấm dứt. Khi thấy nhóm tỳ kheo đến
trễ, quần áo tả tơi, Đức Phật bèn quyết định tạm thời lưu giữ toàn thể Tăng
đoàn ở lại để vá hoặc may quần áo mới, do đó đã nới lỏng một vài giới luật.
Cũng có một cách giải thích khác là tháng đầu tiên sau khi kiết hạ là
tháng dành cho việc may mặc, vì thế nên một vài điều luật được tạm thời nới
lỏng trong thời gian này để các tỳ kheo lo việc may áo cà-sa. Tuy rằng
ngày nay, việc may mặc không còn là một mối quan tâm cho người tu hành, nhưng
thói tục vẫn còn giữ để bảo tồn sự tương trợ giữa các tỳ kheo với nhau, giúp
nhau trong việc may vá. Về phía người thế tục, thì họ cúng dường vải vóc để tự
nhắc nhở phải nghĩ đến những khó khăn và thiếu thốn của người xuất gia.
Các câu chuyện trên đây cho thấy những biến dạng trong ý nghĩa của chiếc áo cà-sa
đối với Nam tông. Tuy là những ý nghĩa thêm thắt nhưng vẫn giữ được truyền thống
lâu đời. Những thêm thắt đó đã củng cố và tô điểm thêm cho Đạo Pháp và nhất là
bày ra những tục lệ giúp một cách thiết thực vào việc tu hành.
Chiếc áo cà-sa và Thiền tông
Trước khi tịch diệt, Phật trao y bát
cho người đệ tử uyên bác, kỷ cương và đạo hạnh nhất là Ma-ha Ca-diếp và khuyên
bảo các tỳ-kheo khác sau này nên nghe theo những lời hướng dẫn của Ca-diếp.
Thật ra khi Ma-ha Ca-diếp gặp Phật lần đầu, Phật đã trao áo của Ngài cho Ma-ha
Ca-diếp rồi. Lúc ấy Phật đi từ thành Vương-xá (Rajagrha) đến địa phận
Na-lan-đà, Ma-ha Ca-diếp gặp Phật đang đi trên đường và nhận ra ngay chính đây
là Đức Thế Tôn. Ma-ha Ca-diếp phủ phục dưới chân Phật. Phật tuyên bố đây chính
thực là một đệ tử của Ngài. Phật cởi áo để trao đổi với Ca-diếp và sau đó đã
thuyết giảng riêng cho Ca-diếp. Nhờ thế chỉ tám ngày sau Ca-diếp đắc quả
La-hán. Nhưng cũng nên hiểu rằng ngài Ca-diếp đã có căn tu trừ trước, đã dốc
lòng tu tập trước khi gặp được Phật. Kinh sách kể chuyện ngài bỏ nhà đi tìm Đạo
đúng vào ngày Đức Phật đạt được Giác ngộ. Sau này khi Đức Phật tịch diệt, chính
ngài Ca-diếp đứng ra tổ chức lần kết tập đầu tiên những lời giảng huấn của
Phật. Ma-ha Ca-diếp sống rất thọ, theo Kinh Tăng nhất A-hàm, Ma-ha Ca-diếp trèo
lên hang Thạch đầu ở núi Kì-xà-quật (Kukkutapada) khoác lên người chiếc áo cà-sa
của Phật rồi thệ nguyện rằng xác thân này sẽ không hư nát cho đến khi nào Phật
Di Lặc hiển hiện để cứu độ chúng sinh. Sau lời phát nguyện, Ma-ha Ca-diếp nhập
vào Niết bàn.
Một lần ở núi Linh thứu, trong một buổi đăng đàn, Đức Thế Tôn không thốt lên
một lời nào cả, chỉ cầm một cánh hoa đưa lên cho mọi người xem. Tất cả đều ngơ
ngác không ai hiểu gì, chỉ có một mình Ma-ha Ca-diếp nét mặt bừng tỉnh và mỉm
cười. Truyền thuyết này gọi là « Niêm hoa vi tiếu » (cầm
hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và cao siêu của Giác ngộ
không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được. Yên lặng tượng trưng cho sự
quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và sự hiểu biết quy ước của chúng
ta. Đây cũng là một đặc thù của Thiền học, và cũng vì thế ngài Ca-diếp được xem
là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn.
Ngài Ma-ha Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho A-nan-đà. Tục lệ truyền
thụ này tiếp tục trên đất Ấn cho đến tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma (~470-543), tức là
đã kéo dài gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi Bồ-đề-đạt-ma sang
truyền giáo ở Trung quốc, ngài lại trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền tông trên
phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung hoa cho đến tổ
thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức là được thêm khoảng hai trăm năm nữa.
Y bát của tổ thứ năm và ngài Huệ
Năng
Ngài Hoằng Nhẫn (601-674), tổ thứ năm
của Thiền tông Trung quốc, trao chiếc áo cà-sa tượng trưng sự lãnh đạo
tông phái cho ngài Huệ-Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về
Thiền học trong số các môn đồ trong tông phái. Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc
áo cà-sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng khi nhận lãnh chiếc áo
tượng trưng cho sự lãnh đạo và uy quyền này thì cũng khó tránh khỏi sự ganh tỵ
và tranh chấp trong Tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý thức được điều ấy, nên
khi trao chiếc áo cho Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ trốn về phương Nam, và nhất
là sau này không nên truyền thụ y bát nữa.
Hừng đông, Huệ Năng khoác lên người một chiếc áo rách để hóa trang, ôm chặt cái
bọc gói chiếc áo cà-sa của ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lẻn ra khỏi chùa và cắm cổ
đi miết về phương Nam. Đi suốt mấy ngày liền, khi đến vùng núi Đại châu Huệ Năng
bỗng nghe thấy tiếng ồn ào phía sau liền ngoảnh cổ lại để nhìn và giật mình
hoảng hốt vì có hàng trăm người đang hò hét đuổi theo. Dẫn đầu đám đông là sư
Huệ Minh, một cựu võ quan đi tu, chính là người muốn cướp đoạt chiếc áo cà-sa
của ngũ tổ. Đám đông càng lúc càng gần, Huệ Năng thì vừa mệt lại vừa đói không
còn đủ sức để chạy thêm được nữa, ông liền để cái bọc áo cà-sa lên một
tảng đá rồi ngẩng cổ hướng về phía đám đông và nói lớn lên như sau :
« Chiếc áo cà-sa tượng trưng cho việc Hoằng Pháp. Tại sao các ông là
đám người thế tục lại muốn cướp nó ? Cướp giữ chiếc áo cà-sa nhưng thiếu chính
Pháp, chẳng qua cũng như một cánh hoa phản chiếu trong gương mà thôi ».
Nói xong Huệ Năng tìm một bụi rậm bên đường chui vào để trốn.
Huệ Minh chạy đến thấy cái bọc áo cà-sa, mừng quá liền ôm lấy, nhưng cái
gói lại dính chặt vào tảng đá, không thể nào gỡ ra, hoặc kéo lên được. Huệ Minh
bổng nhiên cảm nhận được sức mạnh vô biên của Đạo Pháp, liền chui vào bụi rậm
tìm Huệ Năng và phủ phục dưới chân Huệ Năng xin được thọ giáo.
Câu chuyện lại tiếp tục như sau. Huệ Năng rời Huệ Minh và tiếp tục đi về phương
Nam. Huệ Năng đến thôn Tào khê, thuộc quận Thiều châu, tá túc ở chùa Bảo lâm.
Nhiều tháng sau, vào một đêm tối, có một đám đông gồm nhiều nhà sư, đầu đội mũ
sùm sụp, kéo đến đập cửa sau của chùa và hét to lên : « Này Huệ
Năng, ngươi phải đưa chiếc áo cà-sa cho chúng ta. Nếu không sẽ có chuyện to đấy ».
Trong chùa, Huệ Năng sợ quá, ôm bọc áo tông cổng trước mà chạy. Huệ Năng phăng
phăng trèo lên một ngọn đồi gần chùa, nhìn xuống thấy đám đông đốt đuốc đuổi
theo, họ chạy nối đuôi nhau, ngoằn ngoèo như một con rắn lửa đỏ rực. Huệ Năng
thì mệt lả không còn chạy được nữa, liền chui vào một khe đá để trốn. Một lúc
lâu, không nghe động tịnh gì, ông thò đầu nhìn ra. Nhưng lúc ấy cả ngọn đồi đã
cháy rực như một biển lửa. Đám đông, vì không tìm thấy ông, nên nổi lửa đốt
ngọn đồi và tin rằng Huệ Năng thế nào cũng phải chui ra.
Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng như thế, Huệ Năng vẫn không cảm thấy sợ hãi
cho thân mình, chỉ nghĩ đến việc phải bảo vệ chiếc áo mà thôi. Ông bỗng chợt nhớ
đến trước đây Huệ Minh không thể nhấc được chiếc áo lên khỏi tảng đá và ông tin
rằng chiếc áo này là biểu tượng của sức mạnh Đạo Pháp, không thể nào cháy được.
Ông liền bình thản mở cái bọc và khoác lên người chiếc áo cao quý ấy rồi tọa
thiền trên một tảng đá. Sau khi nhập thiền, Huệ Năng cảm thấy thân xác nặng
thêm, lún sâu vào đá, cảnh tượng hãi hùng biến mất, lửa tắt, khỏi đen và bụi mù
cũng tan biến hết. Cảnh vật chung quanh bỗng nhiên trở nên êm ả một cách lạ
thường.
Tọa thiền như thế thật lâu, bất chợt Huệ Năng cảm thấy có những tia sáng xuyên
vào mắt. Ông mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, cây cỏ chung quanh và trên khắp
ngọn đồi đã bị cháy sạch, tro bụi khắp nơi. Chiếc áo cà-sa bám đầy tro
nhưng vẫn giữ được vẽ rạng rỡ. Huệ Năng đứng lên, nhưng lại hết sức ngạc nhiên
nhận thấy trên mặt tảng đá nơi ông ngồi bị lún sâu, in dấu hai đầu gối và mông
của ông lúc tọa thiền, nhìn kỹ hơn lại thấy cả vết vạt áo, vết vải và đường chỉ
khâu nữa. Trước cảnh tượng đó, Huệ Năng bất thần chứng ngộ được sức mạnh của
Đạo Pháp.
Chiếc
áo cà-sa và Thiền học Zen
Sau đây lại xin kể tiếp các chuyện
khác về chiếc áo cà-sa trong Thiền tông, đặc biệt là Thiền phái Zen của
người Nhật. Người Nhật gọi chiếc áo cà-sa là okesa hay kesa,
chữ này cũng có gốc từ chữ Phạn kesaya. Chữ okesa trong tiếng
Nhật có nghĩa là miếng vải thừa vứt bỏ, dính bẩn hay hư hoại. Người Nhật tu
Thiền còn gọi chiếc áo kesa là « Fukuden-e », chiếc áo của
Phúc hạnh, hoặc « Mu soo », chiếc áo « Vô tướng » hay « Không
hình tướng », tức chiếc áo của một người « Vô ngã », tự tay khâu lấy
cho mình và mặc lên một thân xác « không mang một dấu hiệu gì cả ».
Người tu Thiền có ba chiếc áo kesa, một chín mảnh, một bẩy mảnh và một
năm mảnh. Chiếc áo năm mảnh được biến dạng và trở thành một vật tượng trưng gọi
là rakusu dành cho người xuất gia và cho cả hàng cư sĩ, tức những người
tu tại gia.
Đại khái tùy theo học phái, rakusu gồm năm mảnh vải màu nâu hay màu lam,
khâu ráp vào nhau, có viền vải chung quanh thành hình vuông hay chữ nhật, sau
cùng lại khâu thêm một quai bằng vải. Vì thế, rakusu giống như một cái
túi khá rộng, quai dùng để đeo vào cổ, tấm rakusu giấu vào bên
trong áo hoặc để ra trước ngực, tượng trưng cho chiếc áo cà-sa. Mặt sau
của tấm rakusu có lót
thêm một lớp lụa màu trắng hay màu ngà. Vị Thầy của người xin quy y ghi pháp
danh của người này lên mặt lụa, viết thêm một câu thơ hay một công án, tất cả
đều bằng chữ Hán, rồi ký tên và đóng triện lên đó.
Điều đáng nêu lên là người xin quy y trong Thiền tông Zen phải tự may tấm rakusu
cho mình, giống như người tỳ kheo Nam tông phải tự may chiếc áo cà-sa để mặc. Tục lệ này cũng được bảo
tồn và tôn trọng trong các tu viện Thiền học tại các nước Tây phương. Nếu người đọc có dịp chứng kiến cảnh tượng
những người Tây phương, trong số này có những giáo sư Đại học, những nhà Khoa
học lừng danh, các Bác sĩ nổi tiếng ghi tên vào những khoá thực tập để may tấm rakusu
trước khi xin quy y, thì có thể quý vị ấy sẽ cảm động lắm. Họ chăm chỉ may từng
mũi kim, ráp từng mảnh vải. Khâu hỏng, đường chỉ không thẳng… họ lại tháo ra để
may lại. Đó cũng là cách tập chú tâm trong Thiền học, nhưng điều đáng nêu lên
chính là sự hiển lộ của Đạo Pháp trong từng cử chỉ, hành vi và trong quyết tâm
của họ.
Người cư sĩ, không có cái may mắn của một người xuất gia, đành an phận với tấm rakusu,
đeo vào cổ hoặc dấu trong ngực áo để nhắc nhở họ phải giữ giới và để che chở
cho tâm thức họ. Trước khi đeo vào cổ thì họ phải đặt tấm rakusu lên đầu
và đọc một câu kinh. Khi cởi ra, tấm rakusu phải được gấp lại thật cẩn
thận, cất trong một túi vải nhỏ, hay gói trong một miếng vải sạch và đặt lên
bàn thờ Phật. Đạo Nguyên (Dogen) nói rằng :
« Áo mặc của kẻ thế tục làm gia tăng dục vọng – nhưng tấm áo của Phật, tấm
áo của một sinh linh Giác Ngộ, sẽ nhổ bỏ tận rễ tất cả những dục vọng đó
».
Để tiếp tục nêu lên ý nghĩa của chiếc áo cà-sa trong Thiền học, thiển
nghĩ chúng ta cũng nên trích dẫn thêm những câu khác của Đạo Nguyên (1200-1253),
một đại thiền sư và cũng là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nước
Nhật. Ông sang Trung Quốc
tầm Đạo năm 1223, thọ giáo với thiền sư Trường Ông Như Tịnh (Tiantong Rujing,1163-1228)
thuộc tông phái Tào động. Ông ngộ được Thiền, trở về Nhật năm 1227 và phát
triển dòng Tào động trên quê hương của ông. Trong tập luận nổi tiếng của ông là Chính Pháp
nhãn tạng (tiếng Nhật : Shobogenzo), Đạo Nguyên đã phát biểu về chiếc áo cà-sa
như sau:
« Những ai đã Giác Ngộ đều tôn kính chiếc áo
cà-sa, tin tưởng nơi chiếc áo đó. Họ xem đó là chiếc áo của giải thoát, một
cánh đồng của phúc hạnh, một mảnh áo vô tướng, mảnh áo của Như Lai, mảnh áo của
Anuttarak Samnyak Sambodhi (hoàn toàn Giác Ngộ, hoàn hảo và không có gì so
sánh được) »
Sau đây là một câu khác của ông trong tập Chính Pháp nhãn tạng, dùng
để nhắc nhở những người quy y :
« Tư tưởng của con người không bao giờ ngưng đọng,
vì những tư tưởng ấy sinh ra và chết đi trong từng khoảnh khắc ; thân xác con
người cũng thế, sinh ra rồi biến đi trong từng giây phút một.
Chiếc
áo cà-sa không phải là một sáng chế của con người, nó cũng chẳng phải không
phải là một sáng chế của con người ; nó không đứng lại ở một nơi nào cả, nhưng
chẳng có một nơi nào mà nó không dừng lại, và Sự Thực tuyệt đối của chiếc áo cà-sa chỉ có chư Phật
mới hiểu được mà thôi. Tuy nhiên, đối với những người tu tập trên đường Đạo
Pháp, những gì xứng đáng do chiếc áo cà-sa mang đến cho họ thì vô tận, không bao giờ khô cạn (…).
Trong
thế giới này chiếc áo cà-sa luôn luôn hiện đại và cập nhật hoá. Sự hiện thực
trong một giây phút cũng là sự hiện thực của vô biên. Trong giây phút này,
chúng ta đang có cơ duyên tuyệt vời không những được nghe nói về Đạo Pháp,
nhưng hơn thế nữa ta còn được trông thấy, xem xét và tiếp nhận chiếc áo cà-sa
này.
Cơ
duyên ấy cũng giống như ta được nhìn thấy Đức Phật tận mắt, nghe được chính
Tiếng nói của Đức Phật. Cơ duyên ấy chính thực là sự truyền thụ của Tâm thức
Phật, tiếp nhận được thân xác và cốt tủy của Phật ».
Sau đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo cà-sa.
Lạm bàn về ý nghĩa của chiếc áo
cà-sa
Như chúng ta vừa nhận xét trên đây về
những biến đổi từ hình thức cho đến ý nghĩa của chiếc áo cà-sa qua thời
gian, không gian, nhưng những biến đổi đó vẫn luôn luôn giữ được truyền thống
và phong cách từ hàng ngàn năm suốt trong lịch sử Phật giáo, từ những tục lệ
của Nam tông cho đến những hình thức mang tính cách tượng trưng trong Thiền
tông. Tất cả đều không đi ra ngoài Đạo Pháp.
Thật vậy, người xuất gia khoác lên người chiếc áo cà-sa để giúp họ tự
giữ giới, nhắc nhở họ không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám
víu… Chiếc áo ấy mang lại an lạc cho họ, giúp họ phát lộ lòng Từ bi, gia tăng
thêm tinh tấn, sức mạnh và Trí tuệ.
Tuy
nhiên phần đông chúng ta là những kẻ thế tục, những cư sĩ tại gia, chúng ta
không có cái may mắn, cái cơ duyên tốt lành của một người xuất gia, hãnh diện
được khoác lên người chiếc áo cao quý của Đạo Pháp. Chúng ta trần trụi và hở
hang như những con sâu, phơi bày thân xác trước phong ba và bão táp, làm
mồi cho những hiểm nguy của cõi dục giới và luân hồi. Như vậy thì chúng ta phải
làm sao bây giờ ?
Không được mặc lên người, nhưng chúng ta hãy cố gắng khoác lên tâm thức mình một
chiếc áo cà-sa, một manh áo bạc màu, một manh áo mà ta tự khâu lấy bằng
những mảnh vải vụn vứt bỏ mà ta mót nhặt từ những cảnh nghèo nàn và khổ đau
chung quanh ta. Một manh áo tuy khiêm tốn, nhưng chúng ta hãy xem đó là manh áo
của Đạo Pháp, ngay thật và tinh khiết, rạng ngời và cao cả. Dù bước ra
đường với một chiếc áo thật hợp thời trang, đắt tiền và thật đẹp, nhưng ta vẫn
không hãnh diện bằng chiếc áo bạc màu mà ta khoác lên tâm thức. Hoặc nếu kém
may mắn hơn, khi phải bước ra đường với một chiếc áo vá nghèo nàn trên thân
xác, ta cũng không nên xấu hổ mà vẫn ngẩng đầu cao, vì bên trong ta, chiếc áo cà-sa trong tâm thức thật là rạng
rỡ.
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta trong cuộc sống bon
chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn chận không cho ta
hung dữ và hận thù. Trong lúc bước chân ra đường, khi hòa mình với xã hội,
thông thường ta chỉ xét đoán con người qua hình dạng và phong cách bên ngoài,
qua phấn son, quần áo, chức vị, cử chỉ, ngôn từ…, phản ảnh một phần nào tâm
thức của họ. Nhưng ta không thấy được những gì sâu kín trong tâm hồn họ. Có
những người ăn mặc sang trọng, chải chuốt, phấn son loè loẹt, nhưng tâm hồn họ
trần truồng, dơ bẩn, đầy lo âu và hổ thẹn. Có những người nghèo khó, cực khổ,
nhưng tâm hồn họ thật an vui, kín đáo, sạch sẽ và nhân từ.
Trên đây chỉ là hai trường hợp cực đoan và tiêu biểu mà thôi. Thế gian
này thật phức tạp vì có đủ mọi hạng người, pha trộn rất nhiều đức tính và những
sai lầm u mê khác nhau. Thế giới ta bà hay luân hồi gồm có ba
cõi : dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Tất cả chúng
sinh còn vướng mắc trong luân hồi đều sống chung đụng bên cạnh nhau trong
ba cõi ấy : từ súc sinh, quỷ đói, con người, cho đến thánh nhân
và thiên nhân. Do vậy ta hãy quyết lòng
khoác lên tâm thức ta một chiếc áo cà-sa thật tinh khiết để nhìn thấy
những thánh nhân và thiên nhân chung quanh ta và để được đến gần với họ. Họ sẽ
tập cho ta cởi chiếc áo cà-sa trong tâm thức để khoác lên thân xác những
ai đang trần truồng và hổ thẹn, để lau nước mắt cho những người đang khổ đau và
băng bó vết thương cho những sinh linh bị hành hạ. Tất cả chúng sinh ấy đang
hiện diện chung quanh ta, những cũng may mắn thay, thánh nhân cũng đang ở bên
cạnh ta để nhắc nhở ta những việc phải làm.
Tóm lại, chiếc áo cà sa trong tâm thức, trước hết cũng không khác gì một
bức rào ngăn chận những hành vi mê lầm và phạm giới của ta, và sau đó lại trở
thành một bức tường thành kiên cố mang lại sự an lạc cho ta. Thế nhưng ta cũng
phải biết cởi chiếc áo cà-sa ấy từ tâm thức để khoác lên thân xác của
những ai cần đến, biết dựng lên cho kẻ khác một bức rào ngăn chận những hành vi
phạm giới của họ và xây lên một bức tường thành để bảo vệ sự an vui cho họ.
Nhưng tu tập có phải là dừng ở đấy hay không ? Giữ giới và phát lộ lòng Từ
bi, tuy cực kỳ quan trọng và cần thiết nhưng thật ra chỉ là giai đoạn đầu. Từ
bi phải đưa đến Trí tuệ, Trí tuệ đưa đến Giác ngộ và Giác ngộ sẽ đưa đến Giải
thoát. Con đường còn dài và thật dài. Ta hãy thử tiếp tục lạm bàn xa hơn về
chiếc áo cà-sa.
Lạm
bàn xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo cà-sa
Để mở đầu phân đoạn này, xin trích dịch bốn
câu thơ của thiền sư người Nhật là Suzuki Shosan (1579-1655) như sau :
Cùng nhau đi trong mưa Như Lai,
Cà-sa ướt
sũng cả đôi vai.
Ô kìa, trên những tàu lá sen,
Chẳng có một giọt nào đọng lại.
Cũng
xin trích thêm ra đây một vài câu thơ của Thiền sư Ryokan (1758-1831). Thiền sư
Ryokan là một nhà thơ, một thiền sư ngoại lệ, một con người có tâm hồn dịu
dàng, thanh thoát, sống trong đơn sơ và hoàn toàn ẩn dật. Ngày nay, các bảo
tàng viện ở Nhật cũng như trên thế giới đã cố tìm mua với bất cứ giá nào những
tờ giấy viết chữ thảo của ông còn lưu lại. Năm 1790, thầy của ông là Kokunen rút lui và
giao phó cho ông trọng trách hướng dẫn Tăng đoàn. Thế nhưng một năm sau khi
thầy của ông qua đời, ông cũng rời bỏ Tăng đoàn, xa lìa thế tục để vào rừng ẩn
cư. Ta hãy đọc qua một bài thơ của ông, thoát dịch như sau :
Trong cánh rừng xanh mướt,
Là chiếc am
cỏ của tôi.
Chỉ có những người đi lạc đường
Mới tìm ra được nó.
Chẳng có một tiếng ồn ào của thế tục,
Hoạ chăng thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng hát của một gã tiều phu.
Một nghìn đỉnh núi cao, một vạn con suối chảy,
Chẳng có một bóng người.
Tuy thế, một hôm sau khi đi tản bộ về, ông thấy túp lều cỏ của ông bị trộm, tên
trộm vơ sạch những gì thật nghèo nàn của ông. Ông liền cầm bút viết một câu thơ
như sau:
Tên trộm đã bỏ quên
Khuôn trăng
Bên thềm cửa sổ
Thôi thì chúng ta hãy trở lại với chiếc áo cà-sa, với bức rào cản ngăn
chận những hành vi phạm giới, với bức tường thành mang lại an vui cho ta. Chiếc
áo mầu nhiệm như thế, bức tường thành kiên cố như thế, lớp rào cản hữu hiệu như
thế, nhưng có phải đó là Đạo Pháp hay không ? Thưa không, đó chỉ là những phương
tiện mà thôi, giống như ngón tay dùng để chỉ mặt trăng, ngón tay không phải là
Đạo Pháp. Đức Phật dạy rằng Đạo Pháp giống như một cái bè bằng tre dùng để qua
sông. Qua được bờ bên kia thì ta hãy bỏ lại, đừng đội nó lên đầu mà đi. Cũng
thế, mặt trăng cũng chỉ là một biểu tượng. Nếu ta bám víu vào chiếc áo cà-sa,
vào bức rào cản hay bức tường thành, vào ngón tay, vào mặt trăng, chúng ta sẽ
không bao giờ có thể đạt được Giải thoát. Đấy chỉ là những biểu hiện của sự bám víu mà thôi.
Quay
trở lại với ý nghĩa trong bốn câu thơ của Suzuki trên đây. Ngay cả những giọt
mưa Như Lai, tức Diệu Pháp của Phật cũng không hề đọng lại trên chiếc lá sen,
nhưng ô kìa tại sao những chiếc áo cà-sa lại ướt đẫm như thế ? Chúng ta
sống trong một thế giới mà tất cả đều là quy ước, đều là những biểu tượng. Quy
ước và biểu tượng không phải là hiện thực và cũng không phải là Đạo Pháp, thế nhưng
chúng ta nhất định cứ bám víu vào đó. Từ chiếc áo bạc màu, được khâu vá chắp
nối bằng những mảnh vải vụn vứt đi cho đến chiếc
áo rạng rở may bằng lụa và vải quý của ngũ tổ Hoằng Nhẫn, tượng trưng cho Đạo
Pháp, tất cả cũng chỉ là những biểu tượng. Ta sống trong một thế giới của biểu
tượng, của quy uớc và công thức. Tất cả đều là những sáng tạo, những biến chế,
những tạo dựng của tâm thức con người. Ngôn ngữ cũng là quy ước, vì thế mà Đức Phật
đã cầm cánh hoa đưa lên nhưng không thốt ra một lời nào cả.
Tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật đã có sẵn trong tâm thức
Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp. Tâm thức Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp cũng đã có sẵn
trong tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật. Cánh hoa chỉ là một
biểu tượng, cũng như ngôn từ chỉ là những quy ước. Trong tâm thức Từ bi, độ
lượng và bao dung của một người tu hành đã có sẵn tâm linh tỉnh thức của một kẻ
thế tục, và trong tâm linh tỉnh thức của một kẻ thế tục đã mang sẵn tâm thức Từ
bi, độ lượng và bao dung của một người tu hành. Chiếc áo cà-sa chỉ là
một biểu tượng làm trung gian giữa họ mà thôi.
Gỗ đã có sẵn trong cái bàn, và trong cái bàn đã có sẵn gỗ. Người thợ mộc lấy gỗ
làm ra cái bàn, và cái bàn trở thành một sự sáng tạo của con người. Trong sự
sống đã có sẵn cái chết, và trong cái chết đã có sẵn mầm mống của sự sinh. Phân
biệt sự sống và cái chết là hậu quả của sự hiểu biết nhị nguyên và đối nghịch. Tương
tự như thế, ý nghĩa thêm thắt và đa dạng của chiếc áo cà-sa cũng chỉ là
những tạo dựng của tâm thức con người.
Chỉ vì một biểu tượng mà lục tổ Huệ Năng đã suýt chết mấy lần. Mỗi khi có một
biểu tượng được tạo dựng là có sự bám víu vào đó. Một chiếc áo tượng trưng cho việc
lãnh đạo một Tăng đoàn cũng đủ để sinh ra tham vọng, ganh tị, tranh chấp, huống
gì danh vọng, tiền bạc và uy quyền trong thế gian này. Cũng may là ngũ tổ và
lục tổ đã ý thức được việc ấy mà bỏ đi tục lệ truyền thụ y bát. Nếu không thì
biết đâu ngày nay, Tăng đoàn vẫn còn tiếp tục dòm ngó một chiếc áo, và kẻ thế
tục lại có thêm một dịp để tham dự nghi lễ truyền thụ mà quên đi những gì thiết
thực trong việc tu tập.
Kết luận
Từ nguyên thủy, chiếc áo cà-sa đã là những mảnh vải vụn, những miếng vải
rách bạc màu được khâu lại với nhau để làm áo. Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài dùng
chiếc áo ấy để che thân, để đắp và để gấp lại làm tọa cụ. Chiếc áo ấy đã biến
dạng để tượng trưng cho những thửa ruộng vuông vắn của phúc hạnh, hoặc để tượng
trưng cho sự lãnh đạo một Tăng đoàn. Chiếc áo ấy cũng đã trở thành tấm rakusu
của người tu Thiền dùng để đeo lên ngực một cách kính cẩn.
Tất cả những biến dạng và thêm thắt ấy có phải là những điều phù phiếm hay
không ? Thưa không, những thêm thắt ấy thật cần thiết cho việc tu tập, và tuy
không phải là Đạo Pháp nhưng là những cánh hoa của Đạo Pháp. Ngón tay không
phải là Đạo Pháp, nhưng không có ngón tay ấy thì ta cũng không thấy được Đạo
Pháp. Từ lòng Từ bi của Đức Phật, từ những lời giảng huấn thiết thực của Đức Phật
đã nở ra muôn hoa, vạn sắc, và cũng đã nở ra trăm triệu trang kinh sách. Tuy là
một biểu tượng nhưng chiếc ao áo cà-sa thật là cần thiết. Chiếc áo ấy
được khoác lên thân xác vô ngã của người xuất gia để làm gương cho chúng ta
soi. Chúng ta cũng nên khoác chiếc áo ấy lên tâm thức để ra đường và gấp nó lại
để gối đầu trong giấc ngủ. Nó sẽ che chở chúng ta trước những ý tưởng điên rồ,
những xúc cảm bấn loạn và những cơn ác mộng giữa đêm
đen.
Đức
Phật dạy chúng ta đừng bám víu vì Đạo Pháp cũng chỉ là một chiếc bè giúp để qua
sông mà thôi. Thiếu chiếc bè thì ta không thể qua sông được, và tương tự như
thế, nếu không có Đạo Pháp thì ta cũng khó mà vượt được dòng thác của Vô
minh. Đối với chiếc áo cà-sa cũng vậy, khi ta vẫn còn đang lặn ngụp
trong dòng thác chảy xiết của Vô minh thì hãy cứ bám víu vào nó. Cuốn
trôi theo dòng nước cuồn cuộn, nếu như ta có vớt được một cành tre gai góc to
bằng ngón tay thì ta cũng chớ vội tưởng là đã đến được bờ bên kia của Giác ngộ
mà vứt bỏ nó đi. Ta hãy bám lấy cành tre, gom góp thêm các cành khác để kết lại
làm bè, một chiếc bè thật lớn, vì biết đâu chúng lại có thể giúp những người
khác đang lặn ngụp bên cạnh ta mà vẫn
chưa vớt được một cành tre nào. Vậy thì ta hãy thu nhặt những mảnh vải vụn
trong cõi vô thường này để tự may lấy cho mình một chiếc áo cà-sa.
Xin
mượn một lời nguyện cầu của thiền sư Ryokan để chấm dứt bài viết này. Sống trong
chốn hiu quạnh nơi rừng núi hoang vu, Ryokan chẳng có gì cả ngoài manh áo cà-sa
trên vai và một khuôn trăng bền thềm cửa sổ, nhưng có lẽ tâm thức ông lúc nào
cũng muốn dang tay thật rộng để ôm lấy tất cả chúng sinh. Ông nguyện như sau :
« Tôi nguyện cầu chiếc áo cà sa của một người tu
hành như tôi sẽ trở nên thật rộng lớn để có thể gom lại và quàng lên tất cả
chúng sinh đang đau khổ trong cõi vô thường này…»
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc), 18.04.07
Hoang Phong
Discussion about this post