NGỮ LỤC
THIỀN SƯ TUỆ CHIẾU
TÔN LÂM TẾ
Biên tập : Thiền sư Tuệ Nhiên
Việt dịch : Tỳ kheo Thiện Hạnh
LỜI DẪN
ĐẦU SÁCH
Vào
những năm đầu của thập niên 90, chúng tôi phụ trách giảng dạy cho các khóa Tăng
sinh Phật học Viện Cao Đẳng chuyên khoa tại Tổ đình Từ Hiếu. Nhân khi thiết lập
bảng Thiền phổ của Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định, Tổ khai sơn am An Dưỡng (Thiền
phổ hiện đang tôn trí tại Thiền đường, tổ đình Từ Hiếu – Huế), chúng tôi sực nhớ,
chư Tăng Ni tại các chùa, các Tổ đình ở Huế, phần lớn đều thuộc hệ phái Lâm Tế,
nhưng một số Tăng Ni trẻ chưa có dịp để được tiếp xúc sâu hơn về nguồn gốc tu tập,
sinh hoạt của mình.
Có
dịp, chúng tôi đã đề nghị Thiền sư Nhất Hạnh nói vài thời pháp thoại cho đại
chúng đang học và thiền tập tại Tổ đình Từ Hiếu – Huế, về Tôn Lâm Tế.
Thay
vì nói pháp thoại, Thiền sư Nhất Hạnh, lại gửi cho chúng tôi một tập sách nhỏ
chữ Hán, chép tay trên khổ giấy A4; có tựa đề: “Thủ sao Bổn Tôn Lâm Tế Lục”.
Đem đối chiếu với bản “Trấn Châu Lâm Tế Tuệ Nhiên Thiền sư Ngữ Lục” tại “Đại
chánh Tân Tu 7
Đại Tạng kinh” tập 47, kinh số
1985, thì không khác gì nhau. Thế là chúng tôi phải tự mình đọc, tìm hiểu thêm
và mang ra giảng dạy cho các khóa Tăng sinh Cao Đẳng ở đây.
Ngữ
lục, là loại thể, cổ văn bạch thoại. Thời bấy giờ, các hàng đệ tử của chư Tổ, đã
dùng thể loại văn nầy để ghi chép lời dạy của thầy mình. Lời dạy của chư Tổ chỉ
có phát âm mà không có chữ, nên chúng cũng không có trong các pho tự điển ngày
nay.
Hơn
nữa, Thiền tôn Đại Thừa chủ trương “Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”.
Không lập ra văn tự, không thi thiết nói phô, truyền đạt vô tướng phá chấp. Hễ
triệt phá được vọng tâm chấp thủ thì liền thấy rõ chân tánh thanh tịnh viên
dung mà thành Phật; không cậy nương vào đâu hết, kể cả núi kinh điển, rừng ngôn
thuyết, chỉ có giá trị với hàng Nhị thừa, Thanh văn, Duyên giác. Đây là tinh thần
thiền Đại Thừa Phật giáo. Ai tu được, nấy nhờ, ai ngộ được, nấy chứng đắc.
Các
Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như
trường hợp Tổ Hoàng Bá và Thiền sư Nghĩa Huyền; có khi đáp, nhưng lời đáp không
ai hiểu. Như trường hợp hỏi về Đại ý Tổ sư từ Tây Trúc là gì? Đáp “Cây tùng
trước sân”; hoặc thế nào là Phật?. Đáp: “3 cân mè”.
Cho
nên, vừa tìm hiểu, nghiên cứu để mang ra giảng dạy, vừa dịch ra tiếng Việt,
chúng tôi thấy dịch Ngữ lục khó hơn dịch kinh rất nhiều.8
Tuy vậy, chúng tôi thấy, cũng chưa bằng
lòng lắm với sự giảng dạy và dịch thuật về Ngữ Lục Lâm Tế. Nhưng dù sao, chúng
tôi cũng đã có dịp gợi nhớ cho mình và Tăng sinh về lối nghệ thuật hướng dẫn
thiền tập đặc thù, của Thiền tôn Lâm Tế, để cùng nhau học hỏi thực tập.
Nay
đem photocopy cho đóng thành tập sách nhỏ nầy. Trong đây phần chú thích, chỉ
làm sáng tỏ thêm một số thuật ngữ, điển tích Phật giáo, chưa có khả năng bình
giảng lời của chư Tổ về thiền đại thừa.
Rất
mong được sự quan tâm góp ý. Trân trọng.
Mùa
mưa năm Nhâm Thìn – 2012
Tỷ Kheo Thích Thiện Hạnh
XEM CHI TIẾT NỘI DUNG: Ngữ Lục Thiền Sư Tuệ Chiếu Tôn Lâm Tế PDF
Discussion about this post